Chính sách Biển Đông của Trung Quốc : Việt Nam khó thoát ? (Hoàng Trường Sa - Benoît de Tréglodé)
Lời tòa soạn :
Chúng tôi vừa nhận dưới đây điện thư của Trung tâm Văn hóa và Thông tin
Hàn Quốc trực thuộc Bộ văn hóa, thể thao và du lịch Hàn Quốc, yêu cầu
bổ túc thêm tên : "Biển Đông (Mer de l'Est)" trong phần chỉ ghi "Biển
Nhật Bản (Mer du Japon)" mà biểu thị vùng biển giữa Hàn Quốc và Nhật Bản
trong bản đồ của bài viết : "Chính sách Biển Đông của Trung Quốc : Việt
Nam khó thoát ?" của tác giả Hoàng Trường Sa ngày 25/05/2020.
Nguyên văn nội dung thư yêu cầu sửa đổi như sau :
Thư đề nghị sửa đổi cho biên tập viên
Ngày 09/06/2020, 12:37:04 am
Trung
tâm Văn hóa và Thông tin Hàn Quốc trực thuộc Bộ văn hóa, thể thao và du
lịch là cơ quan làm cho người nước ngoài biết về thông tin Hàn Quốc
chính xác. Và giúp cho thế giới hiểu văn hóa, con người và chính sách
của Hàn Quốc.
Chúng
tôi kính mong quý cơ quan bao gồm tên "Biển Đông (Mer de l'Est)" trong
phần chỉ ghi "Biển Nhật Bản (Mer du Japon)" mà biểu thị vùng biển giữa
Hàn Quốc và Nhật Bản trong bản đồ của bài viết sau đây.
https://thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/17511-vi-t-nam-trong-chinh-sach-vung-d-m-c-a-trung-qu-c
Hàn Quốc và Nhật Bản chưa đạt được thỏa thuận đến tên gọi dùng cho vùng biển này. Tổ chức Thủy văn học Quốc tế (IHO) và Hội nghị Liên Hợp Quốc về tiêu chuẩn hóa các tên gọi địa lý (UNCSGN) đã đưa ra nghị quyết sử dụng song song các cách gọi của những quốc gia khác nhau trong trường hợp chưa thể thống nhất tên gọi dùng cho vùng biển đặc thù giữa các quốc gia.
Hàn Quốc và Nhật Bản chưa đạt được thỏa thuận đến tên gọi dùng cho vùng biển này. Tổ chức Thủy văn học Quốc tế (IHO) và Hội nghị Liên Hợp Quốc về tiêu chuẩn hóa các tên gọi địa lý (UNCSGN) đã đưa ra nghị quyết sử dụng song song các cách gọi của những quốc gia khác nhau trong trường hợp chưa thể thống nhất tên gọi dùng cho vùng biển đặc thù giữa các quốc gia.
Nhật
Bản căn cứ vào nội dung cuộc hội nghị Thủy văn học Quốc tế của IHO diễn
ra tại Monaco năm 1929 cho rằng, vùng biển này là "Biển Nhật Bản". Bởi
vì nội dung của hội nghị Thủy văn học Quốc tế diễn ra khi ấy in trong
tài liệu ấn bản đầu tiên "Ranh giới biển và hải dương" đã sử dụng tên
"Biển Nhật Bản". Tuy nhiên, Hàn Quốc không đồng tình với cách gọi này.
Bởi vì, thời kỳ đó Hàn Quốc đang là thuộc địa của Nhật Bản nên không thể
tham dự hội nghị Thủy văn học Quốc tế. Vì vậy, sau khi giành độc lập
năm 1945, chính phủ Hàn Quốc đã không ngừng nỗ lực để thiết lập lại tên
gọi hải phận.
Do đó chúng tôi kính mong quý cơ quan sử dụng cả hai tên của biển này. Ngoài ra nếu có bất kỳ thắc mắc gì liên quan đến Hàn Quốc, xin vui lòng liên hệ với tôi để được giải đáp.
Do đó chúng tôi kính mong quý cơ quan sử dụng cả hai tên của biển này. Ngoài ra nếu có bất kỳ thắc mắc gì liên quan đến Hàn Quốc, xin vui lòng liên hệ với tôi để được giải đáp.
Nếu muốn biết thêm thông tin về "Biển Đông" xin vui lòng tham khảo tại các website sau đây :
http://www.mofa.go.kr/eng/wpge/m_5435/contents.do
http://www.khoa.go.kr/eng/kcom/cnt/selectContentsPage.do?cntId=31060100
Chân thành cảm ơn sự hợp tác của quý cơ quan !
Chân thành cảm ơn sự hợp tác của quý cơ quan !
Kính thư,
Onseong KIM
------------------
Chúng
tôi ghi nhận đề nghị này và đã bổ túc thêm tên "Mer de l'Est" trong bản
đồ chú giải về lãnh hải giữa Nhật Bản và bán đảo Triều Tiên. Bản
đồ sử dụng trong bài trước kia được trích từ bản đồ do cơ quan GeoAtlas
phát hành năm 2002 không có hai tên Mer de l'Est và Mer du Japon.
Ban biên tập Thông Luận chân thành cáo lỗi và cảm ơn KIM Onseong đã góp ý.
Kính mến,
Thay mặt Ban biên tập,
Nguyễn Văn Huy
*******************
Việt Nam trong chính sách vùng đệm của Trung Quốc
Hoàng Trường Sa, RFA, 25/05/2020
Chính sách vùng đệm của Trung Quốc
Tham
vọng lớn nhất của lãnh đạo Trung Quốc hiện nay là phải trở thành siêu
cường, chi phối sự phát triển của toàn cầu. Để thực hiện tham vọng đó,
Trung Quốc tìm cách mở rộng ảnh hưởng và sức mạnh của mình. Trong các
chính sách để thực hiện tham vọng đó, Trung Quốc đang áp dụng chính sách
vùng đệm.
Hình minh họa. Áp phích với hình ảnh Chủ tịch Tập Cận Bình tại một căn cứ hải quân ở Hong Kong hôm 30/6/2019 - Reuters
Yếu
tố địa lý đã góp phần định hình vị trí địa chính trị của Trung Quốc. Và
dựa trên vị trí địa chính trị đó, đã hình thành các chính sách đối
ngoại của Trung Quốc.
Trung
Quốc có biên giới trên đất liền chung với 14 quốc gia, có biên giới
biển giáp với 6 quốc gia, cùng với 3 vùng lãnh thổ đặc biệt là Hồng
Kông, Macao và Đài Loan. Rất nhiều khu vực biên giới này vẫn đang trong
tình trạng tranh chấp.
Một
học giả chuyên về Trung Quốc là Michael D. Swaine, cho biết : Chính
sách vùng đệm được Trung Quốc nhắc tới lần đầu trong Đại hội Đảng Trung
Quốc lần thứ 16 năm 2002. Trong kỳ đại hội này, Đảng Cộng sản Trung Quốc
đã nhấn mạnh chính sách đối ngoại : "Các cường quốc là then chốt ; các
quốc gia láng giềng là tối quan trọng ; các quốc gia đang phát triển là
nền tảng ; chủ nghĩa đa phương là diễn đàn quan trọng".
Hình
minh họa. Biếm họa của họa sĩ Rebel Pepper về Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình và cảnh sát chống bạo động tại một cuộc biểu tình chống chính
phủ ở Hong Kong hôm 26/4/2020 - Reuters
Theo
giải thích của một học giả Trung Quốc là Yuan Peng (lúc đó là Phó Chủ
tịch Viện Quan hệ Quốc tế đương đại của Trung Quốc, viết tắt là CICIR,
là một think-tank của cơ quan tình báo lớn nhất của Trung Quốc - Bộ An
ninh Nội địa) thì vùng đệm của Trung Quốc có 3 vòng. Vòng trong cùng bao
gồm 14 quốc gia có chung biên giới trên đất liền với Trung Quốc. Vòng
thứ 2 là các quốc gia tuy không có biên giới chung với Trung Quốc, nhưng
là những quốc gia biển nằm ở vị trí mở rộng từ vòng 1. Các quốc gia này
trải dài từ Tây Thái Bình Dương cho tới Ấn Độ Dương, cùng với một số
quốc gia Trung Á và Nga. Vòng thứ 3 là "vòng ngoại vi" bao gồm Châu Phi,
Châu Âu và Châu Mỹ.
Từ
năm 2012, sau khi giữ vị trí Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tập
Cận Bình đã tiếp tục chính sách vùng đệm với các quốc gia cận biên. Ông
ta chính thức đưa ra "chính sách ngoại giao vùng đệm", còn được gọi là
"chính sách ngoại giao láng giềng", vốn được coi là trọng tâm trong
chiến lược đối ngoại của Trung Quốc từ năm 2013 đến nay.
Sáu vấn đề trong chính sách ngoại giao vùng đệm của Trung Quốc
Trong
một nghiên cứu mới đây của Jacob Stokes, có 6 vấn đề nổi lên trong
chính sách ngoại giao vùng đệm này của Trung Quốc, bao gồm :
Thứ
nhất, Bắc Kinh luôn khẳng định toàn vẹn lãnh thổ là "lợi ích cốt lõi",
để bảo vệ các "lợi ích cốt lõi" này thì có khi phải sử dụng chiến tranh
nếu cần thiết. Tuy nhiên, từ 2010 trở đi, lãnh đạo Trung Quốc đã bổ sung
thêm nhiều khu vực thuộc "vùng đệm" trở thành "lợi ích cốt lõi" như
Biển Đông chẳng hạn. Điều đó khiến rất nhiều quốc gia ASEAN có liên quan
đến tranh chấp Biển Đông cảm thấy nguy hiểm khi lãnh đạo Trung Quốc
kiên quyết không thỏa hiệp.
Như
Chen Xiangyang, học giả thuộc Viện Quan hệ Quốc tế đương đại của Trung
Quốc, khẳng định rằng, vùng đệm "là vùng cơ bản để Trung Quốc bảo vệ các
lợi ích quốc gia, chiến đấu cho việc thống nhất chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, và đấu tranh chống lại việc chia rẽ đất nước.
Thứ
hai, Trung Quốc đang nỗ lực duy trì tăng trưởng kinh tế của mình thông
qua sự hội nhập nền kinh tế của toàn khu vực. Điều đó rất cần các quan
hệ tốt đẹp với các nước láng giềng của Trung Quốc. Các lãnh đạo Trung
Quốc luôn sử dụng ảnh hưởng từ thị trường Trung Quốc với hơn 1 tỉ dân
cũng như nguồn vốn đầu tư khổng lồ tứ Trung Quốc ra nước ngoài và năng
lực xây dựng các công trình hạ tầng để thúc đẩy sự phát triển thương mại
của toàn khu vực. Và đương nhiên, đằng sau các thúc đẩy về thương mại,
đầu tư và nhập khẩu của Trung Quốc như vậy, sẽ là những tác động chính
trị đến các quốc gia này.
Thứ
ba, lãnh đạo Trung Quốc luôn đảm bảo với các quốc gia láng giềng về
việc Trung Quốc sẽ sử dụng như thế nào đối với sức mạnh đang ngày càng
gia tăng của Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc cũng đang gia tăng các hành
động hung hăng, "nhe nanh múa vuốt" ở khu vực Biển Đông và biển Hoa
Đông. Chính điều này lại khiến các quốc gia láng giềng của Trung Quốc lo
sợ và kết thành một "liên minh" nhằm chống lại sự đe dọa từ Trung Quốc.
Hình
minh họa. Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình bên lề Thượng đỉnh G20 ở Nhật Bản hôm 29/6/2019 - Reuters
Thứ
tư, việc quan hệ càng ngày càng xấu đi giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ, vốn
là mối quan hệ trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, đã
tạo ra một môi trường đa dạng hóa các quan hệ quốc tế của Trung Quốc
ngoài Washington. Phát triển các quan hệ này, trong đó có các láng giềng
của Trung Quốc sẽ giúp Trung Quốc chống lại các ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở
Châu Á và sẽ khiến sự ủng hộ của các quốc gia này với Trung Quốc ngày
càng lớn hơn.
Thứ
năm, "chính sách ngoại giao vùng đệm" cộng hưởng với các chính sách đối
ngoại quan trọng khác của Trung Quốc hình thành "chính sách đối ngoại
tập trung vào các cường quốc" của Trung Quốc. Theo đó, Trung Quốc sẽ tập
trung quan hệ với Nga, Nhật Bản và Ấn Độ. Ngoài ra, Trung Quốc cũng sẽ
ưu tiên các cường quốc tầm trung như Indonesia và Hàn Quốc.
Trung Quốc sẽ tập trung phát triển quan hệ với các quốc gia này một cách tách biệt trong mối quan hệ với Hoa Kỳ.
Thứ
sáu, chính sách ngoại giao vùng đệm với mục đích dẫn tới vai trò "lãnh
đạo Châu Á" của Trung Quốc, giảm bớt các ảnh hưởng từ Hoa Kỳ. Tuy nhiên,
với các tham vọng và các hành động của Trung Quốc, các quốc gia Châu Á
đang "ngờ vực" thái độ của Trung Quốc bởi vì họ thấy rằng, dường như Bắc
Kinh đang muốn thực hiện "chính sách bá quyền" chứ không phải thực tâm
cùng giúp đỡ khu vực này cùng phát triển.
Các công cụ để Bắc Kinh thực hiện "chính sách vùng đệm"
Cũng theo Jacob Stokes, có 6 công cụ để Bắc Kinh thực hiện "chính sách ngoại giao vùng đệm", bao gồm :
- Làm sâu sắc các liên hệ kinh tế, thương mại và tài chính
Kinh
tế và thương mại là trụ cột chính trong "chính sách ngoại giao vùng
đệm". Kinh tế và thương mại sẽ hỗ trợ cho các mục tiêu đối ngoại và
chính trị bởi vì Bắc Kinh muốn cho các quốc gia láng giềng thấy rằng
Trung Quốc là nguồn để phát triển kinh tế, cơ hội và người cung cấp các
hàng hóa công cộng. Điển hình trong số đó là Sáng kiến Vành đai Con
đường (BRI), do Tập Cận Bình khởi xướng năm 2013. Với sáng kiến này,
Trung Quốc sẽ giữ vị trí trung tâm của khu vực và trong dòng chảy thương
mại toàn cầu. Mặc dù BRI vươn rộng ra toàn thế giới, nhưng địa bàn quan
trọng của BRI bắt đầu với các quốc gia khu vực Nam Á và Đông Nam Á. Bên
cạnh việc thúc đẩy đầu tư xây dựng hạ tầng, Trung Quốc còn gia tăng các
ảnh hưởng về tài chính, với việc sử dụng đồng nhân dân tệ như một đồng
tiền thanh toán quốc tế theo các tiêu chuẩn của Trung Quốc.
- Tập trung quan hệ với các cường quốcláng giềng
Trong
chính sách như vậy, Trung Quốc tập trung vào các cường quốc bao gồm
Nga, Nhật Bản và Ấn Độ. Trung Quốc thời gian gần đây đã đạt được những
thành tích quan trọng trong quan hệ Nga - Trung. Đối với quan hệ Trung -
Nhật, mặc dù hai bên vẫn còn nhiều căng thẳng, ví dụ tranh chấp tại
quần đảo Senkaku. Tuy nhiên, quan hệ Trung - Nhật vẫn đang phát triển
mạnh mẽ, đặc biệt trong bối cảnh Thương chiến Mỹ - Trung. Đối với Ấn Độ,
mặc dù những tranh chấp biên giới vẫn thường xuyên xảy ra những xung
đột nhỏ, nhưng cả hai bên đều biết kiềm chế, và quan hệ Trung - Ấn cũng
đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng.
Hình minh họa. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và Chủ tịch Trung Quốc bên lề Thượng đỉnh G20 ở Nhật Bản hôm 28/6/2019 - Reuters
- Khuyến khích các thể chế phi tự do
Vì
là một quốc gia độc đảng, duy trì sự kiểm soát ngặt nghèo trong nước và
sẵn sàng đàn áp các hoạt động phản kháng cho nên Trung Quốc khuyến
khích và hỗ trợ các thể chế phi tự do, giống như Trung Quốc. Tổ chức
Ngôi nhà Tự do (Freedom House) trong một báo cáo có cho biết Trung Quốc
đã tích cự huấn luyện và hỗ trợ giới chức Việt Nam, Myanmar và
Philippines trong việc kiểm soát các "thông tin nhạy cảm" và bán các hệ
thống thiết bị giám sát bằng trí tuệ nhân tạo (AI) cho các quốc gia
Myanmar, Kazakhstan, Kyrgyzstan và Pakistan.
- Thể hiện vai trò quan trọng trong các cuộc hòa giải và đối thoại khu vực
Trung
Quốc đã gia tăng ảnh hưởng bằng cách đóng vai trò quan trọng như người
hòa giải và đối thoại tại các điểm nóng khu vực như tại Myanmar,
Afghanistan và Bắc Triều tiên.
Tại
khu vực Biển Đông, Trung Quốc vẫn đang duy trì các cuộc đối thoại cho
việc tìm kiếm một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) từ năm 2002 tới
nay. Mặc dù Trung Quốc phớt lờ Phán quyết năm 2016 về vụ Philippines
kiện Trung Quốc, trong đó trực tiếp bác bỏ yêu sách "đường chín đoạn"
của Trung Quốc, và Trung Quốc cũng bất chấp tất cả để quân sự hóa trên
các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang kiểm soát tại Hoàng Sa, Trường Sa.
Nhưng với việc thể hiện duy trì tiến trình tìm kiếm COC để Trung Quốc
muốn cho thế giới thấy là Trung Quốc vẫn muốn "duy trì hòa bình" trên
khu vực này.
- Xây dựng và thúc đẩy mối quan hệ với các định chế đa phương
Trung
Quốc cũng đang thúc đẩy các quan hệ và ảnh hưởng của họ thông qua các
định chế đa phương. Có thể kể đến như Diễn đàn Vành đai Con đường để hỗ
trợ cho Sáng kiến Vành đai Con đường, Ngân hàng Phát triển Hạ tầng Châu Á
(AIIB), các diễn đàn đối thoại như Diễn đàn Bác Ngao, Diễn đàn Hương
Sơn hay là Hội nghị Đối thoại về các về các nền văn minh Châu Á.. Ngoài
ra, Trung Quốc cũng tích cực trong các tổ chức quốc tế mà Trung Quốc
đóng vai trò quan trọng như Tổ chức Thượng Hải (SCO) hay BRICS…
- Sử dụng các công cụ cưỡng bức
Bên
cạnh các chính sách trên, Trung Quốc còn sử dụng các biện pháp cưỡng
bức thông qua các chiến dịch để áp đặt lợi ích của mình đối với các quốc
gia nằm trong vùng đệm của Trung Quốc. Chính sách cưỡng bức của Trung
Quốc thường áp dụng là sử dụng "cây gậy" thông qua sự tăng cường sự hiện
diện của Trung Quốc đi kèm với các đe dọa sử dụng vũ lực khi mà "củ cà
rốt" đưa ra đã thất bại. Như chúng ta đã biết, các lãnh đạo Trung Quốc
thiết kế "chính sách ngoại giao vùng đệm" như là một cách để "quyến rũ"
các quốc gia láng giềng chấp nhận sự gia tăng xuất hiện của Trung Quốc
trong các lĩnh vực để đổi lấy các lợi ích kinh tế, chính trị và an ninh.
Việt Nam trong chính sách vùng đệm của Trung Quốc
Như
đã trình bày, Việt Nam là một trong 14 quốc gia có chung biên giới trên
đất liền với Trung Quốc. Việt Nam cũng là quốc gia nằm trong khu vực
Biển Đông, nơi mà Trung Quốc đang muốn độc chiếm để tạo ảnh hưởng. Chính
vì vậy, có thể nói Việt Nam là một quốc gia nằm ở "vùng lõi" trong
chính sách vùng đệm của Bắc Kinh.
Việt
Nam là một trong 14 quốc gia có chung biên giới trên đất liền với Trung
Quốc. Việt Nam cũng là quốc gia nằm trong khu vực Biển Đông, nơi mà
Trung Quốc đang muốn độc chiếm để tạo ảnh hưởng. (Courtesy of GeoAtlas,
2002)
Quan
hệ Việt - Trung đã trải qua rất nhiều biến cố, có lúc trầm, có lúc
thăng. Đối với Việt Nam, quan hệ với Trung Quốc được đặt ưu tiên hàng
đầu trong chính sách đối ngoại. Nhưng với Trung Quốc, quan hệ với Việt
Nam nằm ở hàng thứ yếu. Điều đó thể hiện sự bất bình đẳng trong quan hệ
Việt - Trung.
Trung
Quốc, một mặt, trong chính sách vùng đệm của mình, muốn giữ Việt Nam ở
địa vị như một "chư hầu" cho vai trò "bá quyền" của mình. Chính vì vậy,
Trung Quốc đã tìm mọi cách để vừa lôi kéo kết hợp vừa đe dọa Việt Nam
nằm trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Mặt khác, Trung Quốc với tham
vọng thực hiện giấc mộng "đế vương" của mình, luôn muốn chiếm đoạt Biển
Đông, nơi Việt Nam có những quyền lợi thiết thân. Chính vì vậy, các yếu
tố trên đã đẩy mối quan hệ Việt - Trung vào những "nan đề" khó giải
quyết.
Nhiều
học giả ca ngợi chính sách đối ngoại "cân bằng" của Việt Nam trong việc
xử lý vai trò của Mỹ và Trung Quốc trong quan hệ với Việt Nam. Tuy
nhiên, "sự cân bằng" này phản ánh sự không bền vững trong chính sách đối
ngoại của Việt Nam.
Trong
Sách trắng Quốc phòng mới nhất được ban hành hồi tháng 11 năm ngoái,
Việt Nam tiếp tục nhắc lại Chính sách Ba Không. Trong đó nhấn mạnh vào
khả năng "tự lực tự cường" của Việt Nam khi đối mặt với các thách thức
an ninh. Về lý thuyết, đây là một chủ trương đúng. Nhưng thực tế, điều
này đòi hỏi Việt Nam phải có đủ tiềm lực tương xứng. Tuy nhiên, sự quản
trị của Việt Nam đang thực sự thể hiện nhiều vấn đề yếu kém. Bộ máy
chính trị thiếu động lực phát triển, chủ yếu là phe nhóm đấu đá, giành
giật quyền lực, khiến cho chính trị trong nước hỗn loạn, các tiềm năng
phát triển bị hạn chế.
Những
vấn đề chính trị nội bộ gần đây cho thấy sự bộc lộ các điểm yếu này.
Tranh cãi giữa Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao
trong vụ Hồ Duy Hải, một mặt cho thấy vụ căng thẳng này bắt đầu từ các
cuộc đấu đá chính trị trước thềm Đại hội Đảng lần thứ 13, nhưng mặt khác
cũng bộc lộ thấy sự yếu kém của nền tư pháp, vốn dĩ cần thiết với vai
trò quan trọng để góp phần kiểm soát sự lạm quyền từ các quan chức Đảng
và Nhà nước. Ngoài ra, những đe dọa về an ninh quốc gia, bao gồm cả an
ninh kinh tế và an ninh quốc phòng trước các cá nhân và doanh nghiệp từ
Trung Quốc vẫn đang hiện hữu rõ ràng. Sự kiện mới đây, Bộ Quốc phòng
Việt Nam nêu đích danh các cá nhân và doanh nghiệp Trung Quốc thâu tóm
doanh nghiệp và đất đai quốc phòng là vấn đề đáng lưu tâm. Trong khi
trước đó không lâu, khi các đại biểu quốc hội chất vấn Chính phủ Việt
Nam thì Bộ trưởng Tài nguyên và môi trường cùng Bộ Công an khẳng định
không có chuyện này.
Với
sự quản trị không rõ ràng về trách nhiệm và thiếu một cơ chế hữu hiệu
để kiểm soát quyền lực, Việt Nam đang là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng.
Trung Quốc vốn rất có kinh nghiệm trong việc sử dụng các "biện pháp
kinh tế cưỡng đoạt" cùng với các đe dọa về sử dụng sức mạnh để can thiệp
vào chính trường Việt Nam. Và điều này vẫn đang xảy ra hàng ngày. Chính
vì vậy, chủ trương đúng nhưng khó có thể thực hiện trong thực tế nếu
không có những mạnh dạn trong cải cách thể chế, đáp ứng những yêu cầu
trong bối cảnh mới.
Hoàng Trường Sa
Nguồn : RFA, 25/05/2020
********************
Biển Đông : Trung Quốc lấn, Mỹ làm căng, Việt Nam chờ thời
Benoît de Tréglodé, RFI, 25/05/2020
Từ
đầu năm 2020, Trung Quốc vẫn thúc đẩy đàm phán về Bộ Quy tắc ứng xử ở
Biển Đông với các nước láng giềng Đông Nam Á, được kỳ vọng là sẽ hoàn
thiện trong năm nhiệm kỳ Việt Nam làm chủ tịch luân phiên của ASEAN.
Nhưng trên thực địa, Bắc Kinh liên tiếp mở rộng yêu sách chủ quyền, tăng
cường hiện diện ở những vùng biển đang có tranh chấp.
Tầu
chở trực thăng HMAS Parramatta của Hải Quân Úc tập trận với tầu đổ bộ
Mỹ USS America, khu trục hạm có tên lửa dẫn đường USS Barry và tầu USS
Bunker Hill, tại Biển Đông, ngày 18/04/2020. © Reuters - Australia
Department Of Defence
Những
sự kiện trên, cùng với những chỉ trích, cáo buộc gay gắt lẫn nhau liên
quan đến dịch Covid-19, khiến quan hệ song phương Mỹ-Trung thêm căng
thẳng trên mọi phương diện. Quân đội Mỹ huy động đội tầu tuần tra bảo vệ
tự do hàng hải, trong đó có Biển Đông, điều đội oanh tạc cơ B-1B trở
lại Guam để hỗ trợ lực lượng tại chỗ của Mỹ cũng như các đồng minh và
đối tác trong khu vực Thái Bình Dương. Theo trang South China Morning
Post ngày 19/05, Hoa Kỳ đã gia tăng hoạt động quân sự trên không và trên
biển "sát cửa" Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm 2020 nhiều gấp ba lần so với nguyên một năm 2019.
Có
đúng là Trung Quốc đang lợi dụng dịch Covid-19 để thâu tóm Biển Đông ?
Việt Nam đối phó thế nào trước những căng thẳng Mỹ-Trung trong khu vực ?
RFI
tiếng Việt đặt câu hỏi với giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện
Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
Giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM). © Lionel Monnier
RFI : Phải
chăng Biển Đông đang trở thành khu vực thể hiện sức mạnh và đối đầu
giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ ? Những căng này có thể đi đến đâu ?
Benoît de Tréglodé : Năm
2020, chúng ta sống trong giai đoạn rất đặc biệt. Đại dịch Covid-19 đã
làm thổi bùng căng thẳng trong quan hệ song phương giữa Trung Quốc và
Hoa Kỳ vì lý do dịch tễ. Nhưng những vấn đề đối nội nảy sinh trong đợt dịch Covid-19 cũng phần nào đó tác động đến cách hoạt động trên trường quốc tế của hai nước.
Những
yếu tố trên rất quan trọng để hiểu được những lý do đằng sau một "cuộc
chiến thông tin" trong đó các bên Trung Quốc, Việt Nam, Hoa Kỳ hoặc
phương Tây nói chung, bảo vệ một đường lối, một lịch trình mang tính
chất quốc gia của mình, cũng như để có được một cái nhìn chung về diễn
biến của bối cảnh chiến lược trên thực địa. Sự
căng thẳng trong quan hệ song phương giữa Washington và Bắc Kinh là yếu
tố chủ đạo để hiểu những sự kiện đang diễn ra ở Biển Đông.
Yếu
tố thứ hai mà tôi cho là đóng vai trò trọng tâm để hiểu được mối quan
hệ căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ, đó là phải ngược trở lại bản báo cáo chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương được
bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ trình bày vào tháng 06/2019 nhân Đối thoại
Shangri-La ở Singapore. Trong báo cáo gồm ba chủ đề chính này, Hoa Kỳ mô
tả mạng lưới ngoại giao và những đối tác của họ ở Châu Á-Thái Bình
Dương, trong đó có Đông Nam Á. Chủ đề trọng tâm thứ ba được nêu trong
báo cáo, đó là coi Trung Quốc là mối đe dọa lớn nhất cho an ninh trong
khu vực. Sự việc đã rất rõ ràng ngay từ thời điểm đó và đây cũng chính
là điểm, về lý thuyết, định hình khuôn khổ chính sách hiện nay của Mỹ ở
Đông Nam Á.
Trên đây là hai yếu tố bối cảnh quan trọng để hiểu được những gì đang diễn ra trên thực địa. Vậy chuyện gì đang diễn ra ?
Đúng là có nhiều nhà bình luận, từ vài tuần nay, nhắc đến việc Trung Quốc tái thúc đẩy những hành vi khiêu khích trong
bối cảnh khủng hoảng dịch tễ quy mô toàn cầu và Bắc Kinh tranh thủ thời
cơ để đẩy các quân cờ trên thực địa, trong đó phải kể đến ba sự kiện.
Thứ nhất là vụ tầu cá Việt Nam bị đâm chìm vào đầu tháng 04/2020 ở quần đảo Hoàng Sa. Tiếp theo là việc "thành phố Tam Sa" của Trung Quốc lập hai quận mới : Tây Sa (Xisha) ở Hoàng Sa và Nam Sa (Nansha) ở Trường Sa. Và sự kiện thứ ba là việc tầu khảo sát Trung Quốc Hải Dương Địa Chất 8 gần đây tiếp tục hoạt động trong lãnh hải của Malaysia.
Ba
sự kiện trên, theo tôi, cần phải đặt chúng vào bối cảnh tổng thể hơn về
quan hệ quốc tế, đặc biệt là sự cạnh tranh Mỹ-Trung. Cả ba yếu tố này
không hẳn là đặc biệt trong năm 2020 này bởi chúng đều phụ thuộc vào
tính chất liên tục trong chính sách hàng hải của Trung Quốc trong khu
vực đã có từ khá lâu. Lấy ví dụ vụ tầu cá của ngư dân Việt Nam bị đâm
chìm vào đầu tháng 04/2020, phải đặt biến cố này vào bối cảnh có từ lâu,
cụ thể là từ năm 2014 khi xảy ra khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981 .
RFI : Dù sao cũng có thể thấy là kiểu xung đột này xảy ra thường xuyên hơn từ đầu năm 2020. Vậy nguyên nhân là gì ?
Benoît de Tréglodé : Kiểu đối đầu, kiểu xung đột này thường xuyên xảy ra và có thể được giải thích với hai yếu tố.
Thứ
nhất, phải nhắc lại rằng từ khoảng 10 năm gần đây, cả Trung Quốc và
Việt Nam đều tăng cường đội dân quân biển. Năm 2009, Việt Nam đã áp dụng
Luật Dân quân tự vệ biển - lực lượng phòng vệ hàng hải và loại tầu dành
cho nhiệm vụ này cũng xuất hiện từ thời điểm đó. Theo tôi nhớ vào năm
2010, chủ tịch nước Việt Nam lúc đó đã khuyến khích lực lượng dân quân
biển cùng với các hiệp hội nghề cá đến các khu vực có tranh chấp với
Trung Quốc để tăng cường sự hiện diện của Việt Nam. Điều này rất quan
trọng để hiểu được tình hình tại chỗ. Phía Trung Quốc cũng làm tương tự,
vì thế thường xuyên xảy ra các vụ tranh chấp, đôi khi rất dữ dội, giữa
ngư dân, dân quân biển và hải cảnh trong các vùng biển có tranh chấp
giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Yếu
tố thứ hai là việc lập ra hai "quận" mới trực thuộc "thành phố Tam Sa",
bao gồm cả không gian biển khu vực quần đảo Trường Sa. Trở lại bối cảnh
lịch sử gần đây, chúng ta thấy truyền thông từng nói nhiều về việc
Trung Quốc thành lập "thành phố Tam Sa" vào năm 2012. Đây là cách đáp
trả của Bắc Kinh về việc Quốc Hội Việt Nam, vào tháng 06/2012, đã thông
qua Luật Biển bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Kể từ đó,
Trung Quốc đòi chủ quyền về hành chính. Và yêu sách đó được cụ thể hóa
bằng việc thành lập hai "quận" Tây Sa và Nam Sa mà thực ra, nằm trong kế
hoạch "thành phố Tam Sa" đã có từ trước đó. Một điểm quan trọng đáng
lưu ý khác, đó là "thành phố Tam Sa "
khi được Trung Quốc thành lập năm 2012, bất chấp đòi hỏi chủ quyền của
các đối tác và các nước láng giềng, mà đứng đầu là Việt Nam, chỉ có
khoảng 400 dân cư, nhưng giờ có đến 1.800 người, chủ yếu sống ở khu vực
bắc Hoàng Sa.
Đúng
là chúng ta thấy rõ các chính sách như gia tăng dân số, xây dựng cơ sở
hạ tầng… nhưng nên nhớ rằng chính sách đó chưa hẳn là nhân cơ hội tình
hình dịch bệnh năm nay mà thực ra, là chiến lược lâu dài, mang tính chất
liên tục của Trung Quốc từ những năm 2010. Tương tự như việc tầu Hải
Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc thâm nhập vào vùng biển của Malaysia
cũng giống như sự kiện đã xảy ra với Việt Nam .
Vì
vậy, tôi không thấy có sự gia tăng vô cùng quan trọng nào trong giai
đoạn khủng hoảng Covid-19, mà thực ra, đó là sự tiếp tục trong chính
sách đã có từ khá lâu của Trung Quốc.
RFI : Dường như Trung Quốc biết cách tận dụng chính sách "Bốn Không" của Việt Nam để gia tăng hoạt động ngày càng hung hăng hơn ?
Benoît de Tréglodé : Chính
sách "Bốn Không" trước là chính sách "Ba Không" của Việt Nam : Không
tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước
kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác. Chính sách này được sửa đổi vào tháng 11/2019 trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam với
điểm "Không" thứ tư, đó là "không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa vũ lực
trong quan hệ quốc tế", trong đó có việc không dùng vũ lực để giải quyết
tranh chấp lãnh hải trong khu vực.
Nội
dung vẫn khá mang tính truyền thống, đó là việc đưa ra những tuyên bố
phòng thủ để có thể bảo vệ những quyền lợi chủ quyền đang bị đe dọa vì
những lấn lướt trên thực địa trong chính sách hàng hải của Trung Quốc mà
chúng ta đã nêu ở trên.
Về vấn đề này, nên đề cập một điểm, mang tính rất thời sự : Hà Nội đang nêu ra khả năng đe dọa đối tác Trung Quốc và báo với cộng đồng quốc tế rằng Việt Nam sẵn sàng làm như Philippines từng làm, có nghĩa là viện đến công lý quốc tế để
có thể làm nổi rõ những tranh chấp chủ quyền lãnh hải giữa Việt Nam và
Trung Quốc. Vấn đề đặt ra là vào năm 2014, chính quyền Việt Nam từng cho
thấy dấu hiệu là có thể kiện nhưng từ đó vẫn không có chuyện gì thực sự
xảy ra.
Một
lần nữa, chúng ta cần chú ý rằng mọi chuyện rất phức tạp. Những mối
liên hệ chính trị, kinh tế, quân sự giữa các nước láng giềng và các quốc
gia khác trong khu vực không cho phép các nước xây dựng một hướng đi
chung.
RFI : Việt
Nam có thể thu được lợi ích gì từ việc Hoa Kỳ hiện diện thường xuyên
hơn và mạnh hơn trong khu vực, đặc biệt là vào năm đánh dấu 25 năm thiết
lập quan hệ ngoại giao song phương Việt-Mỹ ?
Benoît de Tréglodé : Các
kỷ niệm thiết lập quan hệ ngoại không giải thích hết về quan hệ quốc
tế. Đúng là Việt Nam sẽ kỷ niệm một phần tư thế kỷ tái lập quan hệ ngoại
giao với Hoa Kỳ. Đó là sự kiện quan trọng đánh dấu thời kỳ mở cửa của
đất nước từ năm 1975. Nhưng cũng đừng quên là 2020 cũng đánh dấu 70 năm
quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Tiếp
theo, cần phải xem xét thực tế hiện diện của Mỹ từ khi dịch Covid-19
bùng phát ở Đông Nam Á và những hoạt động của Trung Quốc trên thực địa.
Chúng ta thấy là ngay từ tháng 03/2020 đã có nhiều cuộc họp giữa
bộ trưởng Y Tế các nước ASEAN với sự hiện diện của bộ trưởng Y Tế Trung
Quốc. Phía Hoa Kỳ cũng tổ chức họp trực tuyến với các đồng nhiệm ASEAN,
nhưng không hiện diện thực sự trên thực địa.
Về
mặt quân sự, nếu nhìn vào số lượng chiến dịch bảo vệ tự do hàng hải cho
phép hải quân Mỹ được điều tầu đến bảo đảm tự do hàng hải ở vùng biển
quốc tế, thì rõ ràng là số lượng các chuyến hải tuần như vậy đã tăng
nhiều.
Nhưng
nếu nhìn vào mối quan hệ song phương thực sự diễn ra như thế nào giữa
các nước, có thể thấy là rất nhiều quốc gia Đông Nam Á bảo vệ một nguyên
tắc chủ đạo đối với khu vực : Đó là họ không muốn Washington buộc họ
phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc . Và đây cũng là một trong những nguyên tắc ngoại giao của rất nhiều nước trong vùng và đang được tái khẳng định.
Chính
sách của tổng thống Donald Trump đưa đến tham vọng là thuyết phục các
đối tác Đông Nam Á của Mỹ chọn một phe. Nhưng đây lại một nguyên tắc
không khả thi đối với rất nhiều nước trong khu vực.
RFI : Những tác động về kinh tế từ dịch Covid-19 ảnh hưởng như nào đến hoạt động của Mỹ ở vùng Biển Đông ?
Benoît de Tréglodé : Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung từ một năm nay đã tạo điều kiện thuận lợi rõ ràng cho nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam cũng không bị thiệt hại nặng nề về kinh tế do dịch Covid-19.
Một
điều thú vị cần nêu lên, đó là cách đây khoảng 10 ngày, tổng thống Mỹ
chính thức thông báo rằng do cách Trung Quốc xử lý dịch Covid-19, 27
công ty đã rời Trung Quốc chuyển sang hoạt động ở Đông Nam Á, nhưng lại
không phải ở Việt Nam mà là ở Indonesia. Chúng ta thấy là mọi chuyện có
vẻ tế nhị hơn và Việt Nam không phải là bên chiến thắng duy nhất trong
cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung.
Phải
hiểu việc Hoa Kỳ nhắm vào một quốc gia khác, mà không phải Việt Nam
trong bối cảnh này như thế nào ? Một số nhà phân tích cho tổng thống Mỹ
hẳn vẫn còn nghi ngờ về khả năng Việt Nam thoát hẳn khỏi tầm ảnh hưởng
của Trung Quốc vì lý do kinh tế, chính trị, kể cả lý do lịch sử lâu đời.
Vào
thời điểm có thể dẫn đến chiến tranh lạnh với sự chia rẽ giữa các nước
chống hoặc ủng hộ chính sách của Trung Quốc và vào lúc mà mọi việc trở
nên tế nhị hơn với một số nước vừa phản đối những hành vi xâm lấn của
Bắc Kinh ở Biển Đông, nhưng vẫn cần đến sự ủng hộ về kinh tế và chính
trị, tôi cho rằng khu vực Đông Nam Á vẫn muốn giữ cân bằng giữa các
cường quốc.
RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
Thu Hằng thực hiện
Nguồn : RFI, 25/05/2020