Xung khắc nội bộ về ‘thể chế xã hội dân sự’ (Thiền Lâm)
Nhưng từ năm 2016 đến nay, xã hội
dân sự còn dần trở thành – không phải mục tiêu – mà là phương tiện của một lực
lượng “muốn thay đổi” trong đảng. Đây là nhóm bao gồm một số quan chức về hưu
và cả đương chức nhưng chủ yếu mang màu sắc lợi ích nhóm, luôn lo sợ chiến dịch
được xem là “chống tham nhũng” của Tổng bí thư Trọng sẽ gây hại cho túi tiền
bòn rút và thân phận chính trị của mình.
Phe bảo thủ trong đảng CSVN vừa
“luật hóa” một rào cản răn đe đối với phe “muốn thay đổi” cũng trong đảng này,
liên quan đến “thể chế xã hội dân sự”.
Ngày 15/11/2017, Ủy viên Bộ Chính
trị, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương và hiện là “thành viên Thường trực
Ban Bí thư” – ông Trần Quốc Vượng – đã ký ban hành Quy định số 102-QĐ/TW về xử
lý kỷ luật đảng viên vi phạm.
Theo quy định trên, những đảng viên
nào đòi thực hiện “thể chế xã hội dân sự”, “thể chế tam quyền phân lập” và “đa
nguyên đa đảng” sẽ bị khai trừ Đảng.
Bản quy định 102 trên là bước cụ thể
hóa Nghị quyết Hội nghị trung ương 4 vào tháng 10/2016 về “27 biểu hiện tự diễn
biến, tự chuyển hóa”, trong đó có những hành vi đòi thực hiện “thể chế xã hội
dân sự”, “thể chế tam quyền phân lập” và “đa nguyên đa đảng”.
Như vậy trên phương diện lý thuyết,
sau 5 năm kể từ tháng 8 năm 2012 khi báo Nhân Dân – cơ quan ngôn luận của đảng
Cộng sản Việt Nam – đăng một bài viết hằn học mang tựa đề “Xã hội dân sự–
một thủ đoạn của Diễn biến hòa bình”, cho đến giờ hệ tư tưởng bảo thủ vẫn chưa
có gì cải não.
Nếu nhìn lại, có thể nhận ra rằng
vào năm 2016 đã có một sự thay đổi kín đáo về quan niệm của một bộ phận trong
đảng đối với xã hội dân sự. Một trong những quan điểm mang tính sơ khai của
giới học giả công an cho rằng: “Việc hình thành, phát triển xã hội dân sự sẽ
tạo môi trường, điều kiện để phát triển các mặt của xã hội, tuy nhiên cần phải
đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước để xã hội dân sự thực sự hoạt động
theo đúng mục đích, tôn chỉ của nó”.
Hoặc một cách nhìn khác của học giả
– điều tra viên công an được cụ thể hóa hơn: “Nhìn chung, các tổ chức xã hội
dân sự này đều mang lại lợi ích, giúp Việt Nam thuận lợi hơn trong vấn đề hội
nhập, tuy nhiên, như đã phân tích do bản chất xã hội dân sự là sự liên kết mềm,
nên một số tổ chức khi hoạt động vẫn không tuân thủ theo pháp luật Việt Nam đã
quy định; một số tổ chức bị các thế lực bên ngoài có quan điểm thù địch với
Việt Nam lợi dụng nhằm phục vụ cho lợi ích riêng; một số hoạt động không đúng
với tiêu chí, mục đích đề ra ban đầu; đặc biệt, một số tổ chức có hoạt động
chia rẽ, gây mất đoàn kết trong nội bộ, đi ngược lại lợi ích chính đáng của
người dân, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước… Bên cạnh đó, cũng xuất hiện các
xã hội dân sự trá hình do một số tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động tài
trợ tiền, kinh phí cho một số đối tượng trong nước hoạt động thành lập các hội,
nhóm kiểu xã hội dân sự nhằm hoạt động chống Đảng, gây phương hại đến Nhà nước
ta”.
Sau khi Trưởng ban tuyên giáo trung
ương Võ Văn Thưởng phát ra tín hiệu về “đối thoại với những cá nhân khác biệt
về quan điểm và đường lối” vào tháng 5/2017, đến ngày 17/7/2017 báo Quân Đội
Nhân Dân đã có bài chính thức xác nhận: “Về bản chất, XHDS có nhiều điểm tích
cực; đó là hoạt động trong khuôn khổ pháp lý và đạo lý vì mục tiêu khẳng định
quyền làm chủ của nhân dân đối với xã hội và Nhà nước”.
Có thể đánh giá rằng đây là lần đầu
tiên từ trước đến nay, dù chẳng có văn bản nào tuyên bố chính thức, chính quyền
đã gần như chính thức tiếm danh, hay nói theo dân gian là “nhận vơ” khái niệm
“xã hội dân sự” của phương Tây để dùng cho những “cánh tay nối dài của đảng” –
theo phương châm “tay không bắt giặc”, hoặc hiểu thâm thúy hơn là “lấy mỡ nó
rán nó”.
Xã hội dân sự đã trở thành một xu thế
đương nhiên từ năm 2013 của giới đấu tranh dân chủ nhân quyền với vài chục tổ
chức dân sự độc lập đã ra đời và hoạt động cho đến nay, nhắm đến các quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tự do văn học, tự do tôn giáo, tự do biểu tình,
nhân quyền dân oan đất đai, nhân quyền tù chính trị…
Nhưng từ năm 2016 đến nay, xã hội
dân sự còn dần trở thành – không phải mục tiêu – mà là phương tiện của một lực
lượng “muốn thay đổi” trong đảng. Đây là nhóm bao gồm một số quan chức về hưu
và cả đương chức nhưng chủ yếu mang màu sắc lợi ích nhóm, luôn lo sợ chiến dịch
được xem là “chống tham nhũng” của Tổng bí thư Trọng sẽ gây hại cho túi tiền
bòn rút và thân phận chính trị của mình. Do đó từ năm 2015 dưới thời Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng, nhóm này đã có dấu hiệu xuê xoa và tìm cách lợi dụng xã hội
dân sự độc lập, đặc biệt trước mắt là lợi dụng mạng xã hội để phục vụ cho công
cuộc đấu đá phe phái.
Ở một khía cạnh khác, sâu xa và ẩn
giấu hơn nhiều, những quan chức “còn đảng còn tiền” lại đã từ lâu nhận ra ở các
tổ chức xã hội dân sự độc lập một “tài nguyên” hiếm có: nếu biết cách lợi dụng
hay ít ra là vận dụng khối tự phát nhưng đang hình thành khối này, đó sẽ là con
đường đủ ngắn và đủ nhanh để bảo đảm cho một số quan chức “về với nhân dân”
trong bối cảnh một Việt Nam tương lai bể dâu xung đột, hoặc tìm ra lối thoát ở
phương Tây một khi nội tình trong nước “có biến”.
Càng về sau này, phe “muốn thay đổi”
càng mở rộng hơn với một thành phần mới: những quan chức đương nhiệm không mấy
dính dáng đến tham nhũng hay lợi ích nhóm, nhưng ngao ngán và bế tắc trước
tương lai của thể chế chính trị nên muốn tìm lối thoát cho họ.
Nhưng một năm sau Hội nghị trung
ương 4, có lẽ nhận ra nguy cơ “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ đảng
không chỉ là nguy cơ mà đã trở nên hữu hình, phe bảo thủ – đứng đầu là ông
Nguyễn Phú Trọng – quyết định đi trước một bước bằng quy định 102 với ý đồ chặn
đứng những biến động và biến cố về tư tưởng có thể xảy ra trong đảng.
Tuy nhiên trong thực tế đời sống
chính trị và bối cảnh xung khắc chính trường ở Việt Nam, khá thường là nghị
quyết là một chuyện, còn có được thực hiện hay không lại là một câu chuyện
khác.
Giờ đây khi bị ngăn chặn bởi quy
định 102 của đảng, phe “muốn thay đổi” sẽ làm gì để tìm ra lối thoát?
Cali Today News