Việc di chuyển một dây chuyền sản xuất
không thể tiến hành trong vài ngày hay vài tuần. Quá trình này cần đến
việc hoạt động sản xuất phải được phát triển dần dần ở nước tiếp nhận
mới và hoạt động sản xuất giảm dần ở nước cũ. Nếu không làm được điều
này, sản xuất có nguy cơ bị ngưng trệ đột ngột. Để chiến lược này có khả
năng thực hiện được đối với một doanh nghiệp, thì cần phải có một quy
chế tài chính và quy định rất hấp dẫn, cũng như điều kiện cuộc khủng
hoảng dịch tễ phải đủ kéo dài để đáng di dời sản xuất khỏi Trung Quốc. Đang có rất nhiều nước tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại để chào đón làn sóng đầu tư từ các doanh nghiệp muốn di dời khỏi Trung Quốc hậu đại dịch. Việt Nam có bối cảnh thuận lợi về địa chính trị ở biển Đông. Các nước dân chủ đều muốn Việt Nam mạnh lên về kinh tế và thực sự dân chủ hóa để góp phần đảm bảo an ninh ở biển Đông, kiềm chế Trung Quốc. Nhưng mặc dù vậy. chúng ta cũng chỉ là một trong nhiều nước cạnh tranh cơ hội này. Thay vì nhận diện vấn đề và dồn những cố gắng vào việc hỗ trợ doanh nghiệp, xây dựng một chiến lược thu hút đầu tư bài bản, thì đảng CSVN lại chỉ lo cho hội nghị XIII, làm sao để tiếp tục duy trì vị thế độc tài lãnh đạo đất nước của họ.
Dịch Covid-19 tác động trực tiếp và gián tiếp đến
quan hệ ngoại giao, kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt là
tình hình ở Biển Đông. Sau một thời gian tạm ngừng, trao đổi thương mại
giữa hai nước dần được nối lại. Tuy nhiên, tình hình Biển Đông trở nên
căng thẳng hơn do Bắc Kinh lợi dụng việc thế giới bận chống dịch để gia
tăng hành động quân sự, củng cố yêu sách chủ quyền và chèn ép các nước
có tranh chấp trong khu vực.
Hà Nội đối phó như thế nào
với chiến lược của Bắc Kinh ? Liệu đại dịch Covid-19 có trở thành cơ hội
để Việt Nam thu hút thiện cảm của công luận quốc tế, đặc biệt là trước
sự chèn ép ngày càng thô bạo của Trung Quốc ở Biển Đông ?
RFI
Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên
trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon), Pháp. ***** RFI
: Khi dịch Covid-19 xuất phát tại Trung Quốc, chính phủ Việt Nam đã ban
hành nhiều biện pháp triệt để, trong khi nhiều nước vẫn do dự và tiếp
tục cho công dân Trung Quốc nhập cảnh. Tương tự, ngay
khi dịch có dấu hiệu tạm lắng, Việt Nam lại khẩn trương mở cửa biên
giới, nối lại trao đổi thương mại với Trung Quốc. Phải hiểu quyết tâm
này như thế nào ?
Laurent Gédéon : Trường hợp của Việt Nam rất đáng chú ý,
chỉ có hơn 300 trường hợp nhiễm Covid-19 và không có ca tử vong nào.
Kết quả này biến Việt Nam thành một quốc gia rất đặc biệt trong bối cảnh
dịch bệnh. Và kết quả này gắn chặt với tinh thần cảnh giác, mau lẹ
trong chiến lược chống dịch từ rất sớm của chính quyền.
Từ sự cảnh
giác này, chính quyền Việt Nam đã đưa ra ba loạt biện pháp chính, trong
đó có các biện pháp đóng cửa, như đóng cửa trường học, tạm ngừng các
chuyến bay giữa hai nước và đóng cửa biên giới
với Trung Quốc. Dĩ nhiên, quyết định này tác động nặng đến kinh tế,
nhưng chính phủ Việt Nam chịu trách nhiệm về quyết định này.
Bắc Kinh từng xem những nước hạn chế nhập cảnh đối với công dân Trung Quốc là “thiếu thân thiện”.
Nhưng sau đó, quan điểm của họ dần thay đổi vì ngày càng có nhiều ca
nhiễm virus corona chủng mới ngoài lãnh thổ Trung Quốc nên cần phải hạn
chế tình trạng lây nhiễm giữa các cá nhân. Vì thế đến lượt Trung Quốc
cấm nhập cảnh đối với công dân các nước bị dịch Covid-19, trong đó có
Việt Nam, sau đó là Ý và nhiều nước châu Âu khác. Vì vậy, xét về
mặt nào đó, những biện pháp được Việt Nam đưa ra không hẳn bị Bắc Kinh
coi là tiêu cực mà nên hiểu ở đây là tùy vào tiến triển nhận thức về mức
độ nghiêm trọng của dịch Covid-19, các nước phải chặn trước di chuyển
của người dân từ nước này sang nước khác. Và tôi cho rằng đây là một yếu
tố đặc biệt góp phần vào việc giữ gìn quan hệ giữa Việt Nam và Trung
Quốc.
Nếu nhìn vào cán cân thương mại song phương,
Trung Quốc đóng vai trò rất quan trọng, Việt Nam nhập siêu từ Trung
Quốc. Việt Nam có lợi về mặt kinh tế vì giao thương với Trung Quốc được
nối lại, không bị ngắt quãng quá lâu, do trao đổi thương mại với Trung
Quốc góp phần quan trọng vào GDP của Việt Nam. Như vậy, cả Trung Quốc và
Việt Nam đều có lợi khi biên giới giữa hai nước được mở cửa trở lại và
trao đổi thương mại phát triển trong bối cảnh dịch bệnh đã ổn định và dĩ
nhiên cả hai nước chẳng có lợi gì khi phải đóng cửa biên giới quá lâu.
RFI
: Nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam có lợi sau đại dịch Covid-19 vì một số
doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Trung Quốc có thể chuyển sang Việt
Nam. Bắc Kinh nhìn nhận khả năng này như thế nào ? Liệu giữa hai nước có
xuất hiện cạnh tranh nào đó không ?
Laurent Gédéon :
Đúng là giả thuyết một số doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Trung
Quốc chuyển sản xuất sang Việt Nam được nhắc đến, nhưng thiên về khía
cạnh chính trị, do muốn đa dạng hóa nguồn cung cấp để tránh quá phụ
thuộc vào một nước nào đó, cụ thể là Trung Quốc. Giả thuyết này cũng
từng được nêu nhưng về khía cạnh kinh tế, không liên quan gì đến
Covid-19, vì sản xuất tại Trung Quốc không còn lợi như trước do chi phí
sản xuất cao hơn.
Nhưng theo tôi, phải nêu rõ là việc di dời doanh
nghiệp sẽ cần đến sự hội tụ về lợi ích, giữa lợi ích chính trị của một
nước với lợi ích riêng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, lợi ích của khối tư
nhân chưa hẳn đã giống với lợi ích của chính phủ nước họ. Tương tự,
không phải những lợi ích về địa chính trị được Nhà nước ưu tiên lại phù
hợp với lợi ích về kinh tế của doanh nghiệp.
Người ta vẫn
thường xuyên nhắc đến sự phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc, nhưng đây
chưa chắc là vấn đề đối với một doanh nghiệp vì họ thấy lợi ích tài
chính khi đầu tư vào Trung Quốc. Cho nên, tôi nghĩ rằng những rủi ro về
dịch tễ hoặc an ninh phải kéo dài thì mới có thể đẩy các doanh nghiệp
rời Trung Quốc.
Ngoài ra, việc di chuyển một dây chuyền sản xuất
không thể tiến hành trong vài ngày hay vài tuần. Quá trình này cần đến
việc hoạt động sản xuất phải được phát triển dần dần ở nước tiếp nhận
mới và hoạt động sản xuất giảm dần ở nước cũ. Nếu không làm được điều
này, sản xuất có nguy cơ bị ngưng trệ đột ngột. Để chiến lược này có khả
năng thực hiện được đối với một doanh nghiệp, thì cần phải có một quy
chế tài chính và quy định rất hấp dẫn, cũng như điều kiện cuộc khủng
hoảng dịch tễ phải đủ kéo dài để đáng di dời sản xuất khỏi Trung Quốc.
Có
một điểm lưu ý khác mà tôi cũng cho là quan trọng, đó là dịch Covid-19
không chỉ tác động đến mỗi Trung Quốc, mà cả thế giới đang phải hứng
chịu, kể cả các nước phương Tây. Nếu nhìn theo quan điểm của một doanh
nghiệp, rủi ro tại Trung Quốc không hẳn đã cao hơn so với những nước
khác.
Chúng ta cũng nhận thấy là tình hình giữa các nước muốn “hồi hương”
hoạt động sản xuất cũng không giống nhau và các nước tìm cách đưa các
doanh nghiệp của họ ra khỏi Trung Quốc là để phục vụ lợi ích quốc gia.
Nhật Bản là một trường hợp điển hình. Trong khuôn khổ “Kế hoạch Tái thiết”,
Tokyo dành khoản ngân sách 2 tỉ euro cho các doanh nghiệp Nhật muốn
chuyển hoạt động từ Trung Quốc về nước. Dĩ nhiên Bắc Kinh không hài lòng
về thông báo của Tokyo.
Việt Nam nằm trong trường hợp thứ hai. Khác với trường hợp Tokyo muốn “hồi hương”
doanh nghiệp Nhật, Hà Nội tìm cách thu hút công ty nước ngoài. Và quá
trình này sẽ phức tạp hơn cho Việt Nam vì hai lý do. Thứ nhất, theo quan
điểm của các doanh nghiệp phương Tây, thì về mặt địa lý, Việt Nam cũng
xa như Trung Quốc. Như vậy, đây không hẳn là một lợi thế về địa-chính
trị liên quan đến khoảng cách quá lớn giữa nhà cung cấp và khách hàng.
Ví dụ, Pháp thường xuyên nêu vấn đề di dời các doanh nghiệp Pháp từ
Trung Quốc về nước, thế nhưng, khu vực Bắc Phi lại thường được nhắc đến
với ưu điểm là gần với châu Âu.
Lý do thứ hai mang tính địa chính
trị đối với Việt Nam và liên quan đến tình hình Biển Đông. Các nhà đầu
tư có thể do dự vì chỉ cần Biển Đông bị cản trở thì hoạt động xuất khẩu
của Việt Nam sẽ gần như bị tê liệt hoàn toàn. Dĩ nhiên Trung Quốc cũng
sẽ bị ảnh hưởng nhưng nước này có thể thoát dễ hơn.
Tóm lại là
chính sách có chủ ý, tranh thủ thời dịch Covid-19 để thu hút các doanh
nghiệm từ Trung Quốc sang Việt Nam, khiến Bắc Kinh không hài lòng và
chắc chắn trở thành một yếu tố mới, tăng thêm trọng lượng cho sự cạnh
tranh tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam. Điều này có thể sẽ bị Bắc Kinh
khai thác, trong giai đoạn căng thẳng, để cố làm mất uy tín chính sách
của Hà Nội.
RFI : Phải hiểu như thế nào về những hoạt động cả về hành chính lẫn quân sự
được Trung Quốc tiến hành với cường độ lớn ở Biển Đông ? Việt Nam có
thể làm gì để đối phó, với tư cách là nước chủ tịch luân phiên ASEAN,
cũng như với tư cách là một bên bị tác động vì các hành động của Trung
Quốc ?
Laurent Gédéon : Chúng ta thấy nhiều yếu tố gây hấn
khác nhau, có chủ ý từ phía Trung Quốc, ở Biển Đông. Ở đây, chúng ta có
thể nghĩ là Trung Quốc đã lợi dụng tình hình dịch Covid-19 để thử một
kiểu “đảo chính ngoại giao” ở Biển Đông và củng cố lập trường của họ.
Ngoài
ra, người ta cũng có thể hoàn toàn nhận thấy là hình ảnh một đất nước
Trung Hoa bị suy yếu vì đại dịch và phải tạm rút khỏi chính trường quốc
tế đã bị truyền tải trong suốt nhiều tuần. Vì vậy, việc cử tầu sân bay
Liêu Ninh tập trận ở Biển Đông cũng nhằm mục đích điều chỉnh lại hình
ảnh này và để nhắc nhở rằng Trung Quốc là một cường quốc chủ động và vẫn
đáng tin cậy cho các tác nhân khác, trong đó có các nước trong vùng, kể
cả Việt Nam.
Dĩ nhiên Việt Nam có thể thử với chức chủ tịch luân
phiên của ASEAN. Nhưng nội bộ khối này lại có rất nhiều bất đồng và một
số nước thành viên lại có quan hệ mật thiết với Trung Quốc (như Lào và
Thái Lan) và trở thành những đồng minh rất hữu hiệu cho Bắc Kinh. Vì
thế, đối với Hà Nội, rất khó trực tiếp vận động được toàn khối ASEAN
chống Trung Quốc. Tuy nhiên, điều mà Việt Nam có thể làm được, đó là
tranh thủ chức chủ tịch ASEAN để tăng cường nỗ lực đúc kết Bộ Quy tắc
ứng xử ở Biển Đông (COC). Đó là một dự án mà có thể tập trung được một
số đồng thuận nhất định trong số các nước thành viên ASEAN. Đây là một
kiểu đối đầu gián tiếp và tôi cho rằng đó là đòn bẩy hành động đúng đắn
nhất.
RFI : Việt Nam cũng tiến hành “ngoại giao khẩu trang”, trái ngược với chiến dịch tương tự của Trung Quốc bị xem là “kiêu ngạo”,
theo kiểu “cứu tinh”. Liệu Hà Nội có thể trông đợi vào chiến lược này
để nhận được ủng hộ của quốc tế về vấn đề Biển Đông không ?
Laurent Gédéon : Đúng
là cuộc chiến chống Covid-19 của Hà Nội đã tạo nên một hình ảnh rất
tích cực về Việt Nam và được truyền tải rộng rãi trên các phương tiện
truyền thông thế giới. Chính sách ngoại giao khẩu trang của Hà Nội cũng
góp phần củng cố sự đánh giá tích cực về Việt Nam. Điều này diễn ra
trong bối cảnh thuận lợi, mà tôi xin nhắc lại là liên quan đến việc ký
kết thỏa thuận tự do trao đổi thương mại giữa Việt Nam và Liên Hiệp Châu
Âu, có rất nhiều thông cáo được công bố trong tháng Giêng và tháng Hai
2020.
Chính vì vậy, việc thứ trưởng Ngoại Giao Việt Nam Tô Anh
Dũng, ngày 07/04, đã trao tặng cho đại sứ năm nước châu Âu, Pháp, Đức,
Ý, Tây Ban Nha và Anh Quốc, 550.000 chiếc khẩu trang được sản xuất tại
Việt Nam cho thấy một hành động truyền thông mạnh mẽ và góp phần vào
chiến lược “quyền lực mềm” của Việt Nam. Ngoài ra, Hà Nội cũng tặng khẩu trang cho các nước láng giềng.
Song
song đó là chiến lược gây ảnh hưởng của Trung Quốc. Bắc Kinh cố không
phạm một sai lầm nào trong việc xử lý khủng hoảng và đề cao mô hình
chống dịch của Trung Quốc. Chính quyền Bắc Kinh cũng tỏ lòng hào hiệp,
thể hiện khả năng huy động sản xuất công nghiệp giúp các quốc gia khác
vượt qua đại dịch. Trung Quốc tìm cách phổ biến hình ảnh một quốc gia
nhân từ, trong khi Trung Quốc bị cáo buộc che giấu quy mô ban đầu của dịch cũng như nguồn gốc của virus corona chủng mới.
Trong
bối cảnh này, chính sách ngoại giao khẩu trang của Việt Nam không đủ
mạnh, theo nghĩa truyền thông, để chống lại chiến lược tầm quốc tế của
Trung Quốc. Nhưng Hà Nội có thể kỳ vọng vào công luận của các nước
phương Tây, chú ý hơn đến tình hình Biển Đông vì chủ đề này được đề cập
ngày càng nhiều trong chương trình thời sự. Cách Trung Quốc lợi dụng
khủng hoảng dịch tễ để khẳng định lập trường thông qua các hoạt động
quân sự cũng làm xấu hình ảnh của nước này.
Ngoài ra, cần phải bổ
sung thêm một ý nữa, đó là những hành động trên của Trung Quốc diễn ra
vào lúc, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ngày 23/03 đã kêu gọi đình chiến
trên thế giới để tập trung chống dịch Covid-19. Dĩ nhiên, tình hình ở
Biển Đông không phải là cuộc chiến trực diện, nhưng có thể coi đó là
những hành động quân sự gây hấn và xảy ra trong bối cảnh cả thế giới tập
trung sức lực chống đại dịch. Và điều này không tương thích với hình
ảnh “trấn an” mà Trung Quốc cố thể hiện. Tôi nghĩ rằng đó là
những yếu tố mà Việt Nam có thể tranh thủ trong cuộc chiến tái lập lập
trường riêng ở Biển Đông và thu hút sự ủng hộ của công luận thế giới
trong đối sách của Hà Nội.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon,giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon).