Suy nghĩ về những thảm họa môi trường của đất nước (Chu Tuấn Anh)

Trong khi người dân Việt Nam chưa hết bàng hoàng trước đợt bão lũ lịch sử tại Thái Nguyên và nhiều tỉnh thành phía Bắc cuốn đi nhiều mái nhà, bản làng, thì chúng ta lại hứng chịu thêm một đợt bão lũ nữa tại Nam Trung Bộ. Lũ ở sông Cái Phan Rang được báo chí mô tả là dâng cao phá đỉnh, sạt lở khắp 5km đoạn quốc lộ từ Phan Rang về Lâm Đồng. Nha Trang Khánh Hòa gần như chìm trong biển nước. Trong khi các tỉnh Đắk Lắk, Phú Yên gần như tan hoang khi đối mặt với lượng mưa 150mm chỉ trong vài giờ.


Nước lũ dâng cao, ngập 2 bên bờ sông Cái Phan Rang (20/11/2025) - Ảnh : Bá Duy

Không thể phủ nhận rằng Biến Đổi Khí Hậu và hiện tượng thời tiết cực đoan là điều có thực. Một báo cáo nghiên cứu thì trái đất cứ nóng lên 1 độ C sẽ thiệt hại thêm khoảng 12% GDP [1] – hoàn toàn không phải là một con số khuếch đại. Tại Việt Nam, sẽ có một bộ phận quần chúng coi như mất trắng vốn liếng, thu nhập trong một năm hoặc thậm chí cả đời trong các trận bão lũ này. Chính quyền của ông thủ tướng Phạm Minh Chính vẫn khoe khoang về thành tích tăng trưởng kinh tế trên 8% dựa vào bơm thổi chỉ làm lố bịch hóa một sự dối trá của một chính quyền đã xa vời sự thực và khẳng định một lập trường được trình bày trong Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên: một tăng trưởng hài hòa, tôn trọng môi sinh vẫn tốt hơn rất nhiều một mức độ tăng trưởng cao nhưng giả dối, dựa trên tàn phá môi trường tự nhiên.

Những gì xảy ra trong bão lũ cũng thật đáng đau lòng, người ta thấy cảnh những người dân mắc nạn trên mái nhà, nhiều người tử nạn trong đói rét hoặc bị cuốn trôi theo dòng lũ. Nhiều con đường huyết mạnh bị đứt đoạn làm con đường tiếp tế tới nhiều khu vực dân cư bị gián đoạn. Thật khó để giải thích với mọi người đây là bắt đầu của một Kỷ Nguyên Vươn Mình mà chế độ cộng sản Việt Nam quảng cáo từ cuối năm 2024. Lúc này, đây thực sự là một thảm họa thiên nhiên thuần túy hay một "nhân tai" mà Đảng cộng sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm cho những thiệt hại về của cải và con người.

Rõ ràng, công cuộc sắp xếp bộ, tinh giản máy hành chính cẩu thả của ông Tô Lâm là nguyên nhân trực tiếp của những thiệt hại ngoài sức tưởng tượng đất nước chúng ta phải đối mặt. Hãy thử tưởng tượng cảnh chính quyền địa phương đã gần như tê liệt, khi gặp phải một đợt thiên tai bất thường thì không còn quản lý được quy trình vận hành của hàng trăm nhà máy thủy điện lớn nhỏ (vốn được bộ Công thương và sở Công thương phê duyệt).

Trong khi đó, các cấp lãnh đạo địa phương đã gần như bị tê liệt, không còn năng lực chỉ đạo người dân sơ tán và phòng chống lũ. Kết quả là khi hồ Ba Hạ tại Phú Yên xả lũ hơn 15.000 m3/s, dân chúng sinh sống ở hạ nguồn bị nhận chìm trong nước lũ và hoang mang trong thảm họa khi không được báo trước.

Một sự kiện đáng chú ý là lãnh đạo tỉnh Đồng Nai đã gửi công văn yêu cầu lãnh đạo tỉnh Lâm Đồng cung cấp thông tin xả lũ của hơn chục hồ thủy điện lớn nhỏ vào ngày 22/11. Đến ngày 23/11 lại có tin tại Đồng Nai, có nhà máy đã xả lũ "không báo trước" gây thiệt hại 40 tỷ đồng [2] [3].

Những thông tin trên cho thấy chính quyền đã mất năng lực quản lý hành chính từ Trung ương đến các Địa phương. Họ đã không còn khả năng giải quyết các vấn đề thường trực của đất nước. Những sự kiện này làm người ta liên tưởng đến giai đoạn cuối của các triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam và Trung Quốc, các cấp chính quyền đã mục ruỗng không còn khả năng quản lý thủy lợi, đê điều để tình trạng loạn lạc, lầm than xảy ra khi đê điều vỡ, quần chúng "tức nước vỡ bờ", nổi dậy và lật đổ chính quyền quân chủ trong hỗn loạn. Có lẽ chế độ cộng sản Việt Nam không ý thức được rằng họ cũng đang trong tình trạng như vậy.

Nhưng cũng không thể đổ toàn bộ trách nhiệm cho cá nhân ông Tô Lâm khi chính quyền hiện tại của Tô Lâm chỉ là chính quyền dở nhất của một chế độ đã quá tồi tệ và tham nhũng trong nhiều thập kỷ liền. Và bức tranh của thảm họa thiên nhiên cũng phức tạp hơn thế.

Trong nhiều năm, chế độ đã cho phép xây dựng những nhà máy thủy điện cóc (công suất dưới 25 MW) thay đổi dòng chảy, tính chất vật lý của khắp các nhánh sông lớn nhỏ trên khắp đất nước. Các dự án thủy điện này được xây dựng để hợp thức hóa nạn phá rừng, trong nhiều trường hợp là khai thác quặng và cát. Hậu quả là khi nước lũ kéo đến, các đập thủy điện cóc cản dòng chảy khiến các hồ chứa không kịp thoát nước tự nhiên. Đồng thời, nạn phá và khai thác rừng hoang dại cũng đã làm mất đi khả năng giữ nước tự nhiên của cây rừng không còn, và làm trầm trọng hóa tình trạng ngập lụt ở hạ du.

Tình trạng ngập lụt và thảm họa thiên nhiên là một bức tranh phức tạp và nhiều nguyên nhân. Nhưng có thể tóm lược như sau : Chúng ta đã có một chính quyền tồi tệ đã thi hành những chính sách kinh tế hoang dại và cướp bóc, tàn phá môi trường. Chính quyền đó đã xuống cấp và tê liệt dần dần trong một quá trình "chọn lọc tự nhiên" giữa những người tệ và những người tệ hại hơn thế ; trong khi môi trường ị hủy hoại đến ngưỡng ngoài sức chịu đựng và hệ sinh thái của đất nước sụp đổ hoàn toàn. Chính quyền ông Tô Lâm vừa là sản phẩm của quá trình chọn lọc giữa những gì tồi tệ nhất và vừa phải tiếp quản một đất nước đã sụp đổ về tự nhiên, một bộ máy đã tê liệt và không còn có thể tiếp tục.

Một chính quyền lương thiện phải coi không gian địa lý, tài nguyên đất cùng các con sông suối như những tài sản vô giá của dân tộc. Bất cứ một công trình nào được xây cất đều phải được cân nhắc, tính toán rất cẩn trọng, với những thiết kế kỹ thuật và quy trình vận hành được phê duyệt kỹ lưỡng. Theo một thống kê của EVN, vào năm 2018 cả nước có 818 dự án thủy điện, bao gồm cả dự án đang thi công và trong quá trình nghiên cứu, đầu tư [4]. Nghĩa là sẽ có thêm hơn 400 dự án chuẩn bị được đi vào vận hành trong khi đã có sẵn 385 dự án đang vận hành tại thời điểm 2018. Không thể nào có thể tưởng tượng nổi họ lại có thể duyệt một số lượng công trình thủy điện lớn và ồ ạt như vậy ? Chính quyền cộng sản phải chịu trách nhiệm trực tiếp cho những hành động hủy hoại hệ thống sinh thái rừng và sông, suối của đất nước.

Nhưng họ cũng không hề rút kinh nghiệm sau một giai đoạn phá rừng làm thủy điện ồ ạt. Chúng ta cũng phải nhắc đến một thảm họa môi sinh khác. Vào năm 2014, cơ quan khảo sát địa chất Hoa Kỳ đã thống kê trữ lượng đất hiếm của Việt Nam vào khoảng 22,5 triệu tấn. Sự kiện đó đã mở ra một giai đoạn phá rừng ồ ạt khắp nơi để khai thác đất hiếm, điển hình là các tỉnh miền Bắc. Trong năm 2024, một thành viên của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên có thuật lại chi tiết về buổi gặp gỡ giữa anh này và một viên sĩ quan an ninh. Trong lần gặp đó, viên an ninh cho biết rằng mục tiêu phát triển công nghiệp khai thác đất hiếm – chất bán dẫn là một trọng tâm của chính sách Kỷ Nguyên Vươn Mình của chính quyền Tô Lâm-Phạm Minh Chính. Họ thông báo cho chúng tôi rằng tuyệt đối không được bày tỏ thái độ chống chính sách này nếu không muốn "bị đàn áp".

Tôi nghĩ anh an ninh này nói thực, vì bản thân hai ông Tô Lâm, Phạm Minh Chính cũng đặt ra mục tiêu đào tạo tới 50.000 kỹ sư bán dẫn. Nếu thực sự họ không muốn phát triển ngành công nghiệp này thì họ cần gì một lượng lớn kỹ sư đông đảo như vậy ? Thế nhưng đến năm 2025, chính quyền Việt Nam mới bàng hoàng nhận ra họ đã hết đất hiếm (trữ lượng thống kê mới nhất chỉ còn 3,5 triệu tấn) vì nguồn đất hiếm đã bị các công ty Trung Quốc hối lộ các cấp chính quyền địa phương để khai thác lậu. Tuy nhiên khi một sự kiện động trời như vậy xảy ra, họ cũng chỉ lôi được một ông cựu thứ trưởng bộ tài nguyên môi trường cùng 26 bị can ra xét xử. Nhưng liệu đã có bao nhiêu đất, bao nhiêu nước đã bị nhiễm độc trong nhiều năm ? Có bao nhiêu cánh rừng đã bị mổ xẻ và bao nhiêu thiệt hại sẽ trở thành những vết thương vĩnh viễn cho các thê hệ mai sau và các cộng đồng dân tộc Việt Nam trong nhiều năm tới ?

Điều đáng buồn là trong tình trạng đất nước rối ren như hiện tại, lực lượng an ninh chính trị đã "ra quân" trấn áp những ai thông tin và cung cấp số liệu thiệt hại trong thiên tai. Họ đã xử phạt một số người về đăng tin "sai sự thực". Có thể có nhiều người trong số đó cũng đã đăng tải những bức ảnh, video AI. Nhưng sự kiện con người thiệt mạng vì đói rét khi mắc kẹt trên các mái nhà, xác người trôi theo dòng lũ, những thiệt hại khổng lồ về nhân mạng mà chính quyền che dấu là có thực ! Nếu thực sự xử phạt về chia sẻ thông tin sai sự thực, thì chính quyền cũng phải xử phạt hết cả những người hữu trách trong chế độ, bao gồm văn phòng chính phủ, chính quyền địa phương, tới lực lượng dư luận viên vì bưng bít thông tin bằng những con số không thành thực.

Hành động bưng bít, dùng lực lượng an ninh trấn áp thông tin chỉ càng chứng tỏ "ổn định chính trị" được họ xuyên tạc để bao biện cho "sự ổn định một chế độ độc tài". Họ cũng dùng những hành động tương tự trong thảm họa môi trường Formosa, mỗi lần đất nước có vấn đề thì họ đã chỉ lựa chọn đàn áp để trốn chạy về phía trước trong khi vấn đề vẫn còn đó và đang mòn mỏi chờ đợi một giải pháp thực sự. Chẳng có gì đảm bảo sau làn sóng phá rừng làm thủy điện và thảm họa khai thác lậu đất hiếm, chúng ta còn phải đón nhận một thảm họa "nhân tạo" nào khác đây ?

Mặt khác, người Việt chúng ta cũng phải suy nghĩ bằng lương tri và lòng yêu nước. Đã bao lần, một bộ phận nhân sĩ trí thức đã dẫn dắt đất nước đến một con đường tắt hoặc một giải pháp kỹ trị để phát triển mà không cần thông qua cố gắng dân chủ hóa. Đến nay, cần khẳng định đây là một thái độ sai lầm, nếu không muốn nói là bịp bợm.

Chúng ta buộc phải thẳng thắn với nhau rằng đất nước cần dân chủ hóa để chấm dứt những tai nạn của dân tộc. Một chính quyền dân chủ đúng nghĩa sẽ lấy quyền con người làm nền tảng của mình, họ sẽ nghĩ đến cảnh có bao nhiêu ngôi làng bị xóa sổ cho một công trình thủy điện, có bao nhiêu nạn nhân môi trường, bao nhiêu người phải rời bỏ đất nước nếu tiếp tục tàn phá môi trường, mổ xẻ núi đồi để lọc, đãi đất hiếm.

Một chính quyền dân chủ có thể có những lúc vụng về, nhưng không thể tồi tệ hơn chế độ cộng sản và tuyệt đối không thể đưa ra những quyết định bất nhân như vậy.

Một chính quyền dân chủ đa nguyên của một tập thể có bản lĩnh, lòng yêu nước và dự án chính trị chắc chắn là một điều đất nước cần có nếu chúng ta còn muốn có một tương lai khác. Và khi quyền và phẩm giá của con người được tôn trọng, người ta mới suy nghĩ đến việc làm sao để phát triển xã hội và để bảo vệ tự nhiên, môi trường – đồng minh của con người.

Chu Tuấn Anh

(23/11/2025)