Dân chủ? Hãy như nước! (Phạm Phú Khải)
Trong bối cảnh đất nước ngày 
hôm nay, tôi cho rằng chúng ta cần bình tĩnh sáng suốt để nhìn 
rõ mọi hiểm nguy, thử thách, cơ hội, tiềm năng và điểm yếu 
của mình và của chế độ cầm quyền. Không nên lấy trứng chọi 
đá để mất đi tiềm lực cần thiết. Hãy hoạt động có tổ chức 
để nương tựa vào nhau, xây dựng sức mạnh. Hãy tìm cách phát 
huy suy nghĩ phê phán. Hãy cố gắng đối xử nhau một cách văn 
minh và nhân bản bằng truyền thông nhân ái để xây dựng lại một 
văn hóa đã bị độc hóa quá lâu mà rồi không ai còn có thể đối
 thoại một cách nghiêm túc với nhau.
Sinh viên Hong Kong biểu tình phản đối quyết định xiết chặt cải cách bầu cử do Bắc Kinh ấn định, tháng Chín, 2012.
Trong mọi tổ chức chính trị, lớn hay nhỏ, triết lý chính 
trị là nền tảng quan trọng hàng đầu [1]. Triết lý chính trị là 
những kiến thức nền tảng vững chắc, bao gồm cả nguồn gốc lịch sử 
hình thành tư tưởng chính trị của nhân loại. Nó giúp uốn nén hình thành
 nên những tư tưởng lớn. Nhưng có kiến thức sâu rộng cũng chưa đủ vì như
 thế chỉ dừng lại ở tầm học thuật. Người lãnh đạo tầm quốc gia hay quốc 
tế cần phải có những ước mơ cao xa và những quyết tâm phi thường. Có tư
 tưởng lớn sẽ giúp lãnh đạo quốc gia lèo lái con thuyền vững 
ổn khi gặp thử thách trong thời đại lắm rủi ro này.
Tư tưởng lớn là có tầm nhìn lớn. Đối với trường hợp Việt 
Nam, chúng ta thật sự cần những lãnh đạo và tổ chức có tầm 
nhìn xa. Nếu không có sự chuẩn bị kỹ càng về mặt tư tưởng 
chính trị thì làm sao đối phó với bao nhiêu thử thách vô cùng 
lớn lao trên bình diện quốc gia, một khi chế độ độc tài sụp 
đổ! Đâu là những chính sách phát triển thích hợp cho đất nước
 về kinh tế, thương mại, giáo dục, an ninh quốc phòng, môi 
trường, văn hóa v.v...? Làm sao giải quyết những vấn nạn lớn 
của xã hội do chế độ độc tài để lại trong bao thập niên qua, từ
 độc đoán, tham nhũng, tội ác, cho đến các cơ sở hạ tầng hay 
các định chế nhà nước yếu ớt, vô hiệu quả? Chính sách ngoại 
giao khôn khéo nào để đối phó với các thế lực ngoại bang, trong
 đó có Trung Quốc, luôn tìm cách thao túng và lũng đoạn nền 
chính trị dân chủ non trẻ? Làm sao để nâng cao tinh thần tự 
lập, tự cường, nhân bản và dân chủ cho các thế hệ hôm nay và 
mai sau? V.v... 
Toàn là những vấn đề lớn và nhức nhối, đòi hỏi trí tuệ, 
kinh nghiệm và tiềm năng của toàn dân tộc. Nhưng đầu tiên hết là 
những lãnh đạo chính trị có tầm nhìn để vạch ra hướng đi và 
tìm ra những giải pháp tối ưu cho đất nước. Nếu lãnh đạo quốc 
gia mà không suy nghĩ về các vấn đề này, thì làm sao họ có 
giải pháp thích hợp? Khi thử thách đến mới tìm cách giải quyết trong
 thời đại này thì quá trễ rồi. Thử nhìn xem, lãnh đạo Đảng Cộng 
Sản Việt Nam chỉ nghĩ đến việc lật đổ Việt Nam Cộng Hòa bằng
 mọi giá, nhưng họ hoàn toàn không có ý niệm hay dự án nào 
để xây dựng lại Việt Nam sau khi thống nhất! Chỉ toàn là những 
ước mơ viễn vông, ảo tưởng về thiên đường cộng sản, vậy thôi!!!
Còn phần lớn người Việt, trong lẫn ngoài nước, hình như vẫn 
chưa đọc tác phẩm nào hay phần trích đoạn nào của các triết 
gia chính trị của thời kỳ Phục Hưng cho đến nay [2]. Họ coi các giá 
trị tự do, dân chủ và nhân quyền như là khẩu hiệu hơn triết lý, như
 là phương tiện hơn mục tiêu sau cùng.
Nhưng tư tưởng chính trị sâu sắc vẫn chưa đủ, bởi muốn thay 
đổi thì cái lý thuyết hay học thuật chỉ là khởi đầu. Thực tế
 luôn khác với lý thuyết. Phải có đủ tiềm lực, và lãnh đạo 
tài tình, mới tạo ra những thay đổi tích cực và hiệu quả. Về 
mặt chính trị, mọi chế độ cầm quyền không tự nhiên nhường ghế
 cai trị cho người khác, trừ khi bị áp lực hay bắt buộc phải 
thay đổi. Các chế độ độc tài toàn trị còn hơn thế vì họ chủ
 trương nắm quyền bằng mọi giá và tiếp tục duy trì quyền lực 
bằng mọi giá. Cho nên muốn thay đổi hay thương lượng với họ mà 
không có đủ lực trong tay thì đừng mong đạt được điều gì vững ổn. Do
 đó những người muốn thay đổi thực trạng Việt Nam hôm nay không 
có sự chọn lựa nào khác ngoài việc xây dựng các tổ chức của
 mình cho thật vững mạnh. Đến một lúc nào đó các tổ chức 
phải nỗ lực kết hợp nhau, hoặc liên kết chặt chẽ nhau, để hội
 tụ thành một vài chính đảng có tiềm năng tổ chức và tầm 
nhìn hầu có đủ sức mạnh tạo áp lực, thách thức hay cân bằng 
quyền lực của chế độ.
Tuy nhiên bước đầu tiên quan trọng nhất vẫn là xây dựng văn 
hóa đấu tranh có tổ chức [3]. Còn đấu tranh lẻ tẻ, vô tổ 
chức, vô định hướng, kiểu chơi nổi, trình diễn v.v..., thì chẳng
 khác gì lấy trứng chọi đá, chỉ mất mát nhưng không đi đến đâu
 cả, cho dù tinh thần quyết tâm và can đảm đó thật đáng khâm 
phục đi nữa!
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, bao nhiêu tổ chức đấu 
tranh như Phong trào Cần Vương (kể cả cuộc khởi nghĩa Yên Thế 
của ông Hoàng Hoa Thám), Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, cho đến 
các tổ chức cách mạng như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, 
v.v... tất cả đều thất bại. Sau 30 tháng Tư năm 1975, nhiều tổ 
chức kháng chiến đã được hình thành nhưng rồi cũng đi đến 
thất bại. Hai thời điểm khác nhau nhưng có cùng lý do: thiếu 
nền tảng tư tưởng, thiếu tổ chức và thiếu lãnh đạo. Nên nhớ tổ 
chức nào đến với nhau cũng đều có một số quy ước chung để 
hoạt động, nhưng ở bình diện quốc gia, tổ chức và lãnh đạo đó 
phải có tư tưởng lớn, tầm nhìn chiến lược dài hạn và khả năng
 tổ chức ở bình diện quy mô để có thể huy động một phần đáng
 kể của bộ phận dân tộc cho mục tiêu thay đổi ngắn hạn và dài
 hạn.
Chỉ có Đảng Cộng Sản/Lao Động Việt Nam, trong bao nhiêu tổ 
chức khác, thành công trong cuộc cách mạng của thế kỷ qua, nhờ
 ba yếu tố chính. Một, mặc dầu là một hệ tư tưởng phản khoa 
học, ít ra họ có triết lý chính trị nhờ vay mượn từ chủ nghĩa
 cộng sản. Hai, dù rất sắt thép và bạo ngược, họ đấu tranh 
có tổ chức và kỷ luật. Ba, tuy hoàn toàn bất lương và mị dân, 
họ có khả năng tuyên truyền để người dân trong nước tin theo mục 
tiêu ảo tưởng của họ, và có khả năng vận động cộng sản quốc 
tế cũng như người dân ở các quốc gia tự do ủng hộ mục đích 
trá hình của họ.
Cho đến ngày hôm nay, tuy bộ mặt thật của chế độ đã được 
phơi bày, tuy chính nghĩa không còn đứng về phía họ bấy lâu nay,
 chế độ cầm quyền hiện tại vẫn còn đủ mạnh để tiếp tục cai 
trị một cách hà khắc, và tiếp tục đàn áp một cách thô bạo. 
Ai muốn chửi chế độ thì cứ chửi, nhưng không phải vì bị chửi 
mà họ sẽ sụp đổ. Không nên coi thường mọi khả năng và thủ đoạn
 của họ. Các lực lượng dân chủ nếu không nhìn ra được sức 
mạnh của chế độ ở đâu, làm thế nào họ duy trì được nó cho 
đến hôm nay, và nếu không nhìn thấy khả năng và sức mạnh thực 
sự của mình, tìm ra những phương cách mới để huy động được 
người dân, để vận dụng mặt trận quốc tế vận, thì cuộc vận 
động dân chủ sẽ không đi về đâu cả. Rồi cũng chỉ loay hoay, một
 bước tới hai bước lùi, như đã thấy hơn bốn thập niên qua.
Ở chỗ tôi làm, khi áp dụng một chính sách, một phương pháp 
hay một ý tưởng nào đó thành công, những người đồng nghiệp ở 
mọi cấp đều muốn tìm hiểu và học hỏi. Ngược lại, khi áp 
dụng thất bại, mà thất bại đó có những ảnh hưởng tiêu cực 
lên một số cá nhân hay một số thành phần trong xã hội, hay chỉ
 với một người thôi, thì cũng đủ lý do để rà soát lại toàn 
bộ hệ thống, toàn bộ khung sườn suy nghĩ (framework), để những 
sai lầm hay thất bại đó không tái diễn nữa.
Không phải chỉ chỗ làm của tôi thôi. Hầu như tinh thần chung 
ở mọi mặt xã hội tại Úc, và các quốc gia dân chủ cấp tiến 
và văn minh, đều như vậy cả. Đại đa số công dân ai cũng muốn 
thành công, không ai muốn thất bại, ngoại trừ những người lười 
biếng. Muốn thành công thì cần phải học cái hay cái đúng và 
tránh cái dở cái sai. Cái sai trong nền pháp trị thường phải 
trả giá rất đắt, về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Đó là tinh thần cầu tiến, khoa học, tự tin, liêm chính và 
trách nhiệm cần thiết để xây dựng đất nước và con người. 
Người Tây phương và quốc gia của họ, và một số quốc gia thuộc Á 
châu sau này, trở nên hùng mạnh chủ yếu nhờ tinh thần cầu tiến 
không ngừng này để canh tân và hoàn thiện mọi mặt xã hội. Nhờ
 lối suy nghĩ phê phán, phân tích hệ thống và lý luận cao siêu, 
họ luôn nhận diện ra được những cái bất công bất toàn và bất 
lương trong xã hội và do đó họ luôn chấp nhận những ý kiến và
 sáng kiến mới để tìm cách cải thiện.
Thời gian đã quá đủ, nếu không phải là quá trễ, để nhìn lại
 và bình tâm phân tích nguyên do nào cuộc vận động dân chủ chưa 
thành công. Đâu là những bài học và kinh nghiệm cần thiết nhất
 để giúp nhau nhìn ra vấn đề, một cách khoa học và hệ thống, 
hầu có thể cùng nhau đi những bước tiến và vững trong thời gian 
tới?
Trên tinh thần đó, tôi muốn trình bày ba đề nghị chính sau đây.
Một, nghiên cứu một cách hệ thống cuộc vận động dân chủ cho Việt Nam trong quá khứ và cho tương lai.
Muốn đẩy mạnh công cuộc dân chủ về phía trước thì người vận động phải
 là những tín đồ dân chủ thật sự. Nghĩa là phải có tư tưởng và hành động
 dân chủ. Không thể hô hào dân chủ mà hành xử độc đoán. Trong môi 
trường/văn hóa dân chủ, mọi người đều có quyền chia sẻ và bầy tỏ quan 
điểm của chính mình. Điều này đồng nghĩa với việc mình phải biết lắng 
nghe ý kiến người khác. Sự đóng góp ý kiến là một việc lành mạnh và luôn
 được khuyến khích. Nhưng thái độ đóng góp ý kiến, thái độ lắng nghe, 
thái độ tiếp cận ý kiến, mổ sẻ phân tích, vân vân, là điều mà tất cả 
chúng ta cần phải học hỏi. Người thiếu kiến thức, đuối lý, thiếu khả 
năng tranh luận nên cố gắng trau dồi kiến thức để có thể đóng góp tích 
cực hơn. Đừng quay ra sử dụng những ngôn ngữ thiếu đứng đắn, thiếu giáo 
dục. Cách lý luận gàn bướng trở thành hàm hồ, hay tệ hơn là đạp đổ. 
Những người có thái độ thiếu văn hóa trong việc góp ý đã tự công khai 
cho người khác khả năng yếu kém, thiếu kiến thức của mình.
Trên đây chỉ là một trong vô số các điều kiện cần thiết và căn bản 
cho cuộc vận động dân chủ. Nhưng để giúp mọi người nhìn ra được hướng đi
 và phương pháp rõ ràng, cụ thể thì phải cần nghiên cứu khoa học, khách 
quan. Cho nên cuộc điều nghiên này sẽ đưa ra những phân tích và 
kết luận cho những đề nghị cần thiết cho tiến trình dân chủ 
hóa Việt Nam trong một hoặc hai thập niên tới, dựa trên những thất
 bại đã qua và các thành công nhỏ, nếu có. Để có giá trị thì cuộc nghiên
 cứu này đòi hỏi tính chuyên môn cao và tính độc lập hoàn toàn.
Hai, phát huy khả năng suy nghĩ phê phán trong mọi tầng lớp người Việt trong và ngoài nước.
Cả một dân tộc từ ngàn năm qua bị đầu độc bởi những tư 
tưởng, chủ thuyết và các giá trị chính trị và văn hóa có 
mục tiêu phục vụ cho chế độ cầm quyền hơn cho người dân, trong 
đó có Khổng giáo và Cộng sản. Văn hóa chính trị là cản trở 
chính của người Việt trong nhiều thập niên qua. Tôn trọng bằng 
cấp, suy nghĩ cục bộ, chạy theo các sự kiện nhất thời, không 
có tính kỷ luật bảo mật, nặng hình thức nhẹ nội dung, thù dai 
v.v... là điều nên dứt bỏ càng sớm càng tốt. Mở mang trí tuệ để nghiên 
cứu học hỏi sự thành công lẫn thất bại của nền chính trị Tây phương là 
vô cùng cần thiết. Quan trọng nhất là lối suy nghĩ phê phán.
Tập trung đào tạo lối suy nghĩ phê phán cũng đồng nghĩa với
 việc giúp cho người ta có một cái nhìn mới, cái suy nghĩ mang
 tính đa chiều, chấp nhận khác biệt, bỏ bớt đi thói quen chụp 
mũ bừa bãi hay nghe răm rắp những lời ngon ngọt của các chính 
trị gia mị dân, chẳng hạn. Nó giúp cho người ta biết suy nghĩ 
chín chắn hơn, sử dụng lý luận để nhận định thay vì cảm xúc. 
Một khi thu nạp được khả năng này thì người ta sẽ khó bị tuyên
 truyền. Khả năng này man tính phổ quát, phi chính trị, hữu 
ích cho mọi người, nhất là cho sinh viên sau khi tốt nghiệp đi 
kiếm việc làm, viết đơn xin việc, chuẩn bị phỏng vấn, tiến thân
 trên đường sự nghiệp v.v... Tính áp dụng cho kỹ năng này là vô 
hạn trong mọi xã hội, giảm thiểu các nạn mê tín dị đoan, các 
đồ giả và các tiên tri giả đang lan tràn trên khắp mọi miền 
đất nước. Sẽ rất là khó, nếu không phải là bất khả, cấm 
đoán hay hạn chế nếu người ta muốn học hỏi về kỹ năng này.
Kỹ năng này đã được các nhà giáo dục tại Hoa Kỳ quan tâm 
hơn, nhất là cho học sinh từ cấp bậc trung học trở lên, sau kỳ 
bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2016. Một nền dân chủ đích thực 
cần có những công dân hiểu biết (informed citizen), có lối suy 
nghĩ phê phán, nếu không thì nền dân chủ đó sớm muộn cũng bị 
suy thoái hay khủng hoảng.
Kỹ năng phi chính trị này có thể thay đổi toàn diện văn hóa chính trị.
Ba, phát huy truyền thông nhân ái (compassionate communication) 
hay còn gọi là truyền thông bất bạo động (non-violent 
communication).
Để cuộc vận động dân chủ thành công thì nên bắt đầu luyện tập 
truyền thông nhân ái/bất bạo động. Truyền thông ở đây có nghĩa 
rộng, bao hàm mọi cách thức truyền đạt thông tin từ một hay 
nhiều người sang một hay nhiều người khác. Trao đổi, thảo luận,
 tranh luận, phát biểu, cãi lộn v.v... đều là truyền thông giữa
 con người với nhau.
Một trong những vấn đề lớn nhất giữa người Việt với nhau, 
kể cả giữa những người đấu tranh cho dân chủ, là truyền thông. 
Vì không chịu đọc bản gốc hay không đọc kỹ, vì dễ dàng tin 
những lời đồn nhảm ác ý, vì không trao đổi thẳng thắn với 
nhau sợ mất lòng, vì không sử dụng ngôn ngữ chính xác để diễn
 đạt ý tưởng, vì sử dụng ngôn ngữ cảm xúc quá nhiều thay vì 
lý luận (chưa kể bị bẫy bởi những kẻ ác ý hay bàn tay của dư 
luận viên) v.v... cho nên người Việt dễ hiểu lầm nhau, dễ gây và 
xa nhau. Không phải chỉ riêng người Việt, người Tây cũng gặp 
những vấn đề tương tự. Nhưng mức độ của vấn đề này thì chúng
 ta gấp nhiều lần người Tây phương. Chúng ta chưa kịp nghe là đã
 có đầy định kiến; chưa kịp hiểu là đã đánh giá rồi, mà đa 
phần lại đánh giá trật nữa, nên làm hư mọi sự. 
Trong truyền thông
 của người Việt, thay vì tìm hiểu một người nói một điều gì 
đó, trong thâm tâm họ có ý gì, và họ thật sự muốn gì, thì 
lại tập trung kết luận họ là gì trước. Chúng ta quá dễ dàng 
chụp mũ mạ lỵ nhau, tự biến thành những quan toà mù để kết 
tội người khác một cách vô tội vạ. Kết quả: không chỉ chúng 
ta làm rối và làm thối mọi sự. Trong quan hệ gia đình, bạn 
bè, đồng nghiệp, cộng đồng, xã hội v.v... cũng làm hư hỏng nốt. 
Có cộng đồng Việt Nam nào trên khắp thế giới mà không chia năm 
xẻ bảy, tuy có cùng chung mục đích? Khi bất đồng ý kiến hay có vấn
 đề, chúng ta đã dùng những ngôn từ nặng nề nhất để dành cho 
nhau, ngay cả cho những người bạn cùng chung lý tưởng với mình 
suốt cuộc đời, để rồi bây giờ không còn nhìn mặt nhau nữa?
Cái thói quen này xảy ra một cách vô ý thức tưởng chừng như
 không có lối thoát. Chúng ta biết mình bị tổn thương nhưng lại
 tiếp tục làm như thế với người khác. Chúng ta phát ngôn bừa 
bãi, vô ý thức và vô trách nhiệm. Hậu quả là sự bôi nhọ nhau,
 kéo nhau xuống vũng lầy, đưa đến sự leo thang của bạo lực và 
bạo động. Ai sung sướng hưởng kết quả này? Chế độ cầm quyền 
chỉ muốn người dân tuân phục và khiếp nhược, cảm tính và bạo 
động, chứ không phải công dân có tư duy và lý luận. Chế độ nào 
người dân đó, và người dân nào chế độ đó. Một vòng luẩn quẩn 
không lối thoát, rất nguy hiểm trừ phi chính mỗi chúng ta ý 
thức rõ ràng về trách nhiệm của mình cho cách hành xử, suy 
nghĩ và cảm xúc của mình.
Rất may trong vấn đề này có nhiều sách vở, tài liệu có thể 
giúp cho mỗi chúng ta nhìn ra được nguyên do nào chúng ta thường
 sử dụng loại truyền thông mang đầy chia rẽ, và làm sao mỗi 
chúng ta có thể luyện tập, một cách ý thức và tự chủ, sử 
dụng truyền thông nhân ái. Tác phẩm “Truyền thông bất bạo động:
 Một ngôn ngữ của cuộc sống” của tiến sĩ Marshall B. Rosenberg, 
chẳng hạn, sẽ giúp chúng ta nhìn ra vấn đề [4]. Nó hoàn toàn hữu 
ích cho mỗi cá nhân, cho gia đình, và nhất là cho công cuộc vận
 động dân chủ hiện nay và mai sau. Ngôn ngữ, lồng trong tư tưởng 
và lý luận, sẽ mạnh hơn gươm, hơn thép. Cho nên biết sử dụng 
truyền thông nhân ái cho người thân thương và biết truyền đạt lý
 luận sắt bén với kẻ thù gian hiểm thì đó chính là sức mạnh
 vô biên vậy.
Yêu nước là quan niệm đã bị lợi dụng, lạm dụng và đánh 
tráo quá nhiều, cho nên thay vì kêu gọi yêu nước, tôi kêu gọi 
hãy yêu và hãy như nước.
Tình yêu giúp cho chúng ta hướng đến chân thiện mỹ. Yêu 
người, yêu thiên nhiên, yêu động vật, yêu công bằng lẽ phải và 
sự thật. Yêu minh bạch, yêu công lý, yêu bình đẳng, yêu hòa 
bình, yêu tinh thần trách nhiệm, yêu thử thách, yêu trí tuệ, yêu
 kiến thức, yêu nỗ lực, yêu dấn thân, yêu sự kính trọng nhau, 
yêu giá trị đạo đức. Yêu cái gì cũng tốt cả, ngoại trừ cái 
tham sân si, cái lười, cái ác, cái độc, nhất là độc tài và 
độc đoán. Nhưng trên hết xin hãy yêu người, yêu mạng sống của 
mình và những người chung quanh. Mạng sống con người là quan 
trọng nhất. Hy sinh là hành động cao cả, nhưng phải đúng lúc 
đúng chỗ. Đừng hy sinh một cách vô ích và vô lý khi chưa cần 
thiết. Đấu tranh là quyết tâm phải sống để thấy thành quả 
mình góp phần xây dựng nên, và để tiếp tục đóng góp cho tiến 
trình dân chủ đầy cam go trong thời gian tới.
Tại sao phải như nước? Vì nước là hơi thở, là sự sống. 
Trong các bí quyết truyền lại, Lý Tiểu Long nhấn mạnh một triết lý 
hay: hãy như nước, bạn ơi (be like water, my friend) [5]. Nước chảy
 đá mòn. Không có gì linh động, uyển chuyển, biến hóa, vô 
dạng, vô hình, đa nguyên, như nước cả. Không có gì mạnh mẽ và 
có sức tàn phá cao độ trên trái đất này như nước. Sức dân được 
ví như sức nước.
Để bắt đầu tiến trình này, trong bối cảnh đất nước ngày 
hôm nay, tôi cho rằng chúng ta cần bình tĩnh sáng suốt để nhìn 
rõ mọi hiểm nguy, thử thách, cơ hội, tiềm năng và điểm yếu 
của mình và của chế độ cầm quyền. Không nên lấy trứng chọi 
đá để mất đi tiềm lực cần thiết. Hãy hoạt động có tổ chức 
để nương tựa vào nhau, xây dựng sức mạnh. Hãy tìm cách phát 
huy suy nghĩ phê phán. Hãy cố gắng đối xử nhau một cách văn 
minh và nhân bản bằng truyền thông nhân ái để xây dựng lại một 
văn hóa đã bị độc hóa quá lâu mà rồi không ai còn có thể đối
 thoại một cách nghiêm túc với nhau.
Không đối thoại được thì xây dựng được cái gì chung chứ!
Những điều căn bản đó, tuy nói dễ nhưng làm vô cùng khó. Nó 
đòi hỏi thay đổi thói quen suy nghĩ. Nó bắt đầu bằng cái tư 
duy, tư tưởng. Phải có ý thức và quyết tâm thì mới thực hiện 
được. Nhưng muốn làm người tử tế văn minh, muốn dân tộc thoát 
khỏi gọng kìm của độc tài áp bức, muốn đất nước sánh vai 
với các con rồng con hổ, thì phải bắt đầu bằng cái đầu thôi.
Phạm Phú Khải
Úc Châu, 04/05/2018 (VOA)
Úc Châu, 04/05/2018 (VOA)
Tài liệu tham khảo:
1. Triết lý được định nghĩa là “lẽ tinh vi quyền diệu trong triết 
học”, mà triết học là “môn học nghiên cứu về nguyên lý của vũ trụ/vạn 
vật”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức. Theo tự điển 
tiếng Anh như Oxford Dictionary of English thì triết học là sự nghiên 
cứu về bản chất căn bản của kiến thức, thực tế và hiện hữu, đặc biệt khi
 được xem như là một lĩnh vực học thuật. Do đó triết học chính trị có 
thể được định nghĩa là sự nghiên cứu các vấn đề nền tảng về nhà nước, 
chính quyền, chính trị, bang giao quốc tế, tự do, công lý, hòa bình v.v…
2. Ngày nay những ai muốn tìm hiểu triết học chính trị chỉ 
cần dùng Google thì sẽ tìm kiếm bao nhiêu tài liệu gốc hay 
được soạn thảo lại một cách hệ thống. Nếu không đọc được 
tiếng Anh thì nhóm Tinh Thần Khai Minh, thành lập năm 2014, có đăng tải vô số tài liệu được dịch sang tiếng Việt về tự do, dân chủ và pháp quyền.
3. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã nói nhiều về đề tài này. Mời đọc “Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai” của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên.
4. Marshall B. Rosenberg, “Nonviolent Communication”, A Language of Life, PuddleDancer Press, 2015.
5. Có thể xem phát biểu này của Bruce Lee qua các phim ảnh hay phỏng vấn trên Youtube (dùng google để truy tìm).

