GS Nguyễn Văn Tuấn: Không nên bổ nhiệm quan chức làm giáo sư (VNE)
Thứ nhất, nên thay đổi nhận thức về giáo sư. Chúng ta nên theo quy chế của đa số đại học trên thế giới và xem giáo sư là một chức vụ, chứ không phải là chức danh hay phẩm hàm.
Giáo sư Việt tại Australia đề xuất 10 điểm cần thay đổi trong việc xét tiêu chuẩn giáo sư ở Việt Nam nhằm bắt kịp với xu hướng thế giới.
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Đại học New South Wales (Australia)
nhận xét về sự tăng đột biến số giáo sư, phó giáo sư năm 2017 ở Việt Nam
và nêu 10 đề nghị cải cách quy trình và tiêu chuẩn cho chức vụ giáo sư.
Số giáo sư tăng đột biến không phải lần đầu
Báo chí và nhiều người trong giới học thuật đã nhận
xét số giáo sư và phó giáo sư năm nay tăng "đột biến" so với năm trước.
Tôi xem lại con số thì sự gia tăng chủ yếu là ở nhóm phó giáo sư (tăng
gần 80%, từ 638 lên 1.141), còn nhóm giáo sư thì tăng 30% (từ 65 lên 85
người). Đúng là có tăng bất thường.
Nhưng tôi nghĩ nếu nhìn lại quá khứ thì cũng đã có những đợt tăng đột
biến như thế. Có thể xem biểu đồ dưới đây để thấy xu hướng tôi vừa đề
cập. Quy chế phong giáo sư ở Việt Nam bắt đầu từ 1980 và năm đó có đến
83 người được phong giáo sư và 347 người là phó giáo sư.
Hai năm sau, số giáo sư và phó giáo sư lần lượt là 117 và 664, tính ra
tăng 82% so với năm 1980. Năm 1992, Nhà nước phong chức danh giáo sư cho
247 người, và con số này là kỷ lục trong suốt 38 năm qua. Ngay cả những
năm 1984, 1992, 1996 và 2002, con số giáo sư dao động trong khoảng 115
đến 210. Do đó, có thể nói con số giáo sư được công nhận năm 2017 không
phải là quá cao.
Tuy nhiên, con số phó giáo sư được công nhận năm 2017 thì đúng là cao
một cách bất thường so với suốt thời gian từ năm 1980 đến 2016.
![]() |
Biểu đồ thể hiện số giáo sư (màu hồng) và phó giáo sư (màu xanh) được phong hay công nhận từ năm 1980 đến 2017.
|
Để thấy những con số giáo sư, phó giáo sư của Việt Nam là bất bình
thường, hãy nhìn sang Thái Lan để so sánh. Số liệu năm 2015 của Bộ Giáo
dục Thái Lan cho biết các đại học hiện có 6376 associate professor (tức phó giáo sư) và 754 professor (tức
giáo sư). Tính chung, các đại học Thái Lan có khoảng 7.130 giáo sư và
phó giáo sư. Ở Việt Nam, tính từ 2001 đã có 981 giáo sư và 8.074 phó
giáo sư, tức tổng số cao hơn Thái Lan khoảng 27%.
10 đề nghị cải cách quy trình và tiêu chuẩn giáo sư
Tôi có năm đề nghị "nên" và năm "không nên":
Thứ nhất, nên thay đổi nhận thức về giáo sư. Chúng ta nên
theo quy chế của đa số đại học trên thế giới và xem giáo sư là một chức
vụ, chứ không phải là chức danh hay phẩm hàm.
Thứ hai, nên giao việc bổ nhiệm chức vụ giáo sư cho
trường đại học. Điều này đã được các nhà khoa học nêu lên rất nhiều
trong thời gian gần đây. Nếu chấp nhận giáo sư là chức vụ, mà chức vụ
thì gắn liền với một đại học, một cách hợp lý là nên chuyển việc xét
duyệt chức vụ giáo sư cho trường đại học.
Tuy nhiên, nhiều đại học Việt Nam chưa có năng lực độc lập để bổ
nhiệm giáo sư. Do đó, tôi đề nghị chỉ giao cho đại học có công bố quốc
tế thuộc nhóm "top 10" bổ nhiệm chức vụ giáo sư. Bộ Giáo dục và Đào tạo
chỉ cần quản lý quy trình và tiêu chí, chứ không nên can thiệp vào các
hội đồng bổ nhiệm của đại học.
Thứ ba, nên mở rộng ba cấp giáo sư: assistant professor (giáo sư trợ lý), associate professor (phó giáo sư) và professor (giáo sư). Đây
là xu hướng chung ở các đại học Âu Mỹ. Ngay cả ở Australia, nơi từng
theo hệ thống của Anh, nay cũng bắt đầu chuyển sang hệ thống ba cấp giáo
sư như Mỹ. Các nước trong vùng như Malaysia, Thái Lan, Philippines, Singapore,
Hàn Quốc cũng như vậy. Chuyển sang hệ thống này giúp các nhà khoa học
Việt Nam "dễ ăn nói" với đồng nghiệp nước ngoài.
Thứ tư, nên tạo ra hai ngạch giáo sư: nghiên cứu khoa học, giảng dạy và đào tạo. Trong
thực tế có những nhà khoa học chỉ làm nghiên cứu khoa học, nhưng cũng
có nhiều người tập trung vào việc giảng dạy và đào tạo. Cả hai nhóm cần
được ghi nhận đúng mức. Dĩ nhiên, tiêu chuẩn cho hai ngạch giáo sư cũng
cần phải uyển chuyển để phản ảnh đúng đặc thù cho từng ngạch.
Thứ năm, nên có giáo sư nước ngoài bình duyệt (đối với một số ngành khoa học thực nghiệm và khoa học tự nhiên). Để
người được bổ nhiệm chức vụ giáo sư cảm thấy mình xứng đáng đứng trong
hàng ngũ giáo sư trên thế giới, tôi đề nghị mỗi hồ sơ của ứng viên phải
có ít nhất một giáo sư nước ngoài bình duyệt. Các giáo sư nước ngoài
phải được chọn cẩn thận (như thuộc các trường đại học "top 500") và có
thành tích khoa học tốt. Điều này có thể khó lúc đầu, nhưng Đại học Tôn
Đức Thắng đã làm và khá thành công.
Thứ sáu, không nên bổ nhiệm các quan chức làm giáo
sư. Việt Nam có lẽ là một trong vài nơi công nhận chức danh giáo sư cho
quan chức. Tôi nghĩ có thể có cách làm khác như ở Australia. Thay vì
công nhận chức danh giáo sư cho họ, có thể tạo ra một chức vụ mới gọi là
"giáo sư kiêm nhiệm" hay "Conjoint Professor" (có khi gọi là "Adjunct
Professor"). Theo quy chế này họ có quyền dùng chức danh "giáo sư kiêm
nhiệm", nhưng không được dùng "giáo sư".
Thứ bảy, không nên có những tiêu chuẩn cứng nhắc như viết sách. Viết
sách có thể xem là một tiêu chuẩn, nhưng không nên xem đó là yếu tố
quyết định cho các chức vụ giáo sư. Thành tựu khoa học của một cá nhân
không thể chỉ phản ánh qua sách. Thật ra, ở Australia, một số ngành
người ta không xem việc biên soạn sách là tiêu chuẩn quan trọng.
Thứ tám, không nên theo đuổi những tính toán máy móc như điểm
bài báo trên các tập san có bình duyệt ở nước ngoài tương đương hay cao
hơn một chút so với những bài báo công bố trên các tập san ở trong nước.
Các tập san khoa học nước ngoài, dù là có bình duyệt, cũng "thượng vàng
hạ cám", tức là rất khác nhau về phẩm chất. Một công trình trên tập san
New England Journal of Medicine, Lancet, JAMA, Nature, Science, Cell thì không thể xem tương đương với hay cao hơn chỉ 1-2 điểm so với một tập san như Medical Journal of Australia hay Y học thực hành được.
Thứ chín, không nên "bình quân hóa" trong xét duyệt công
trạng khoa học. Hiện nay, một số ngành có xu hướng đánh đồng công trạng
trong công trình nghiên cứu khoa học, mà theo đó rất nhiều ứng viên
không đóng vai trò quan trọng trong bài báo vẫn được tính điểm như các
tác giả khác (kể cả tác giả chủ trì). Cần nhớ rằng bổ nhiệm chức vụ giáo
sư là nhận dạng và khuyến khích tính độc lập của nhà khoa học, nên cần
đòi hỏi họ phải là tác giả chính các công trình khoa học quan trọng, chứ
không thể "ăn theo" mà vẫn có điểm. Điều này có ý nghĩa quốc gia, bởi
vì hơn 70% các bài báo khoa học trên các tập san quốc tế là do hợp tác
với nước ngoài và thường do người nước ngoài chủ trì. Chúng ta phải thay
đổi tình hình này bằng cách thay đổi tiêu chuẩn bổ nhiệm giáo sư.
Thứ mười, không nên quá chú trọng vào lượng.
Nhiều người có xu hướng quan trọng hóa số lượng bài báo quốc tế, số
chức danh "danh dự" như "giáo sư thỉnh giảng" hay số giải thưởng. Tuy
nhiên, vấn đề không phải là lượng mà là phẩm. Những ứng viên với vài
công trình quan trọng trên các tập san đỉnh hay có nhiều trích dẫn là
những người cần phải được quan tâm hơn những người công bố nhiều nhưng
không có tác động. Những chức danh mang tính ngoại giao như "giáo sư
thỉnh giảng" không có ý nghĩa hay trọng lượng gì trong việc bổ nhiệm
giáo sư cả, nhưng những người được mời nói chuyện trong các hội nghị
quốc tế tầm vài nghìn người chính là những người cần được ghi nhận.
Ông Nguyễn Văn Tuấn hiện là giáo sư của Đại học Công nghệ Sydney (UTS) và Đại học Notre Dame Australia, nhận được nhiều lời mời giảng và hợp tác nghiên cứu từ các trường, viện của Mỹ, châu Âu, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Hong Kong, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Ông có hơn 250 công trình khoa học công bố trên các tập san danh tiếng thế giới và là một trong những giáo sư y khoa được trích dẫn nhiều nhất thế giới. |