Lại bàn chuyện định chuẩn mực cho tiếng Việt (Đoàn Xuân Kiên)

Bây giờ mà bàn chuyện ấn định chuẩn mực cho phát âm và chính tả tiếng Việt thì không tránh khỏi sự dè bỉu cuả một số người. Tuy vậy, những người có trách nhiệm giúp đỡ thế hệ trẻ Việt Nam không thể lảng tránh vấn đề. Sớm muộn gì thì chúng ta cũng sẽ phải đối diện với nó. Những gợi ý hôm nay có thể xem như là góp phần vào việc gọi mời sự quan tâm cuả các giới đối với việc giữ cho tiếng Việt được đúng quy củ cần có cuả một ngôn ngữ văn hoá.
 
 
Gửi các bạn trong Viện Ngôn Ngữ (Hà Nội) và các bạn có trách nhiệm của ngành truyền thông đại chúng.
 
Tiếng nói cuả một cộng đồng ngôn ngữ thường vẫn là một thể thống nhất nhưng đa dạng. Trong cái chung giống nhau vẫn có những sai biệt giưã các điạ phương. Những khác biệt điạ phương có thể là về cách phát âm, về lối dùng từ ngữ, và có thể cả mặt ngữ pháp nưã. Điều đó có nghiã là ở mỗi điạ phương, tiếng nói có những nét chung với nhau. Mỗi điạ phương như vậy đã hình thành một phương ngữ. Ý niệm "điạ phương" ở đây bao hàm một vùng điạ lí rộng lớn khả dĩ dung nạp những nét chung nhất cuả ngữ âm và từ ngữ sử dụng tại vùng đất đó. Trong một phương ngữ rộng lớn, có thể vẫn có một vài cách phát âm khác biệt với chuẩn mực chung cuả phương ngữ đó, gọi là thổ ngữ.

Tiếng Việt cũng không ra ngoài quy luật chung cuả mọi ngôn ngữ trên thế giới, nghiã là nó vẫn có những khác biệt điạ phương. Điều kiện điạ lí, hoàn cảnh lịch sử, và yếu tố thời gian tác động trên những giao lưu ngôn ngữ mà từ đó hình thành các phương ngữ tiếng Việt. Mặc dù có nhiều vùng nói tiếng khác nhau, mọi người cùng nói tiếng Việt có thể hiểu nhau dễ dàng, nếu so với các cộng đồng ngôn ngữ khác. Chẳng hạn, cùng nói tiếng Hoa mà người Trung Hoa ở Bắc Kinh nói khác người ở vùng Phúc Kiến hoặc Quảng Đông. Tiếng Việt không có tình trạng hai người thuộc hai điạ phương khác nhau cần có người thông ngôn để hiểu nhau. Sự kiện này nói lên tính cách thống nhất trong ngôn ngữ cuả chúng ta. Tuy nhiên, thống nhất không có nghiã là hoàn toàn đồng nhất.   
Đứng trước những sự sai biệt về tiếng nói, có nhiều quan điểm khác nhau đối với vấn đề thống nhất tiếng nói và chính tả tiếng Việt. Trong suốt thế kỉ XX đã có những cuộc thảo luận, những hội nghị bàn về việc thống nhất tiếng Việt. Trong bài này, chúng tôi góp thêm một tiếng nói vào cuộc thảo luận đã dài ngày nhưng chưa hẳn đã kết thúc: chuyện ấn định chuẩn mực cho việc phát âm và chính tả tiếng Việt.

Phương ngữ tiếng Việt

1          Phương ngữ tiếng Việt chia ra làm ba miền lớn:

(a) Phương ngữ bắc: trải rộng khắp miền bắc Việt Nam, đến Thanh Hoá;
(b) Phương ngữ trung: từ nam Thanh Hoá đến Phan Thiết;
(c) Phương ngữ nam: từ Phan Thiết vào Nam bộ.

Ranh giới giưã ba miền phương ngữ không phải là lằn ranh điạ lí dứt khoát. Thực tế cho thấy là các vùng ở giưã các miền phương ngữ thường có những tính cách chung cuả hai phương ngữ.

            Phương ngữ tiếng Việt ở cả ba miền đều có những sai chệch so với chuẩn mực như đã được mô tả trong các giáo trình ngữ âm tiếng Việt. Phần trình bày dưới đây sẽ luôn luôn quy chiếu về "chính tả", chỉ với ý nghiã là lấy những chuẩn mực đã mô tả trên kia để đối chiếu với đặc tính phát âm cuả mỗi phương ngữ.

Phương ngữ bắc  
      
2          Phương ngữ bắc hiện đại có những nét chung về ngữ âm như sau:
 
Hình 1: Đường nét sáu thanh
của tiếng Việt hiện đại
(1) Hệ thống thanh có đủ sáu thanh với những tính cách âm vị học khá chuẩn mực, như trong chính tả hiện đại [1].

(2) Hệ thống phụ âm đầu:

 -  phương ngữ bắc không phát âm các phụ âm s, r, d, tr  như trong chính tả, vì thế xoá nhoà đối lập âm vị học giưã các nhóm phụ âm đầu s / x , r / d / gi, và  tr / ch.

·        - lẫn lộn hai phụ âm  l và n.

(3) Hệ thống nguyên âm: có đủ các nguyên âm đơn như trong chính tả. Trong số các âm kép, phương ngữ bắc có khuynh hướng không phát âm ươu và ưu, vì thế đã xoá nhoà ranh giới âm vị học giưã hai cặp nguyên âm ươu /iêu và ưu / iu.

(4) Hệ thống âm cuối: có đủ các phụ âm cuối như trong chính tả.

Phương ngữ trung

3          Phương ngữ trung hiện đại có những đặc trưng âm vị học như sau:

(1) Hệ thống thanh điệu: có bốn thanh, khác hẳn hệ thống thanh cuả phương ngữ bắc về tính cách: phương ngữ trung không phát âm thanh sắc và ngã, phát âm các thanh hỏi - ngã - nặng cùng có nét âm điệu đi dốc xuống. Đặc biệt là khu vực phương ngữ trung-trên (Bình Trị Thiên), có một số nét đặc trưng về thanh khác hẳn các vùng dưới. So sánh hai hệ thống thanh ở bắc và trung:

           phương ngữ bắc         phương ngữ trung       phương ngữ trung trên
                   huyền             huyền               huyền
                   ngang             ngang               ngang
                   hỏi                  hỏi                    nặng    
                   ngã                 hỏi                    nặng
                   sắc                  sắc                    hỏi
                   nặng               nặng                  nặng

(2) Hệ thống phụ âm đầu:

·  - phương ngữ trung phát âm rõ ba phụ âm đầu s , gi , tr như trong chính tả;
·  - có âm rung / r /;
·  - tại một số vùng còn giữ thổ ngữ có hai phụ âm bật hơi kh  ph chứ không phải là hai phụ âm xát như lối phát âm ngày nay [2].
·  - có hiện tượng chuyển hoá phụ âm nh   >  d ,  d/gi   >   j (âm lỏng),  đ  > d . Ví dụ: nhà  >  dà/jà, (cây) đa  >  (cây) da

(3) Hệ thống nguyên âm: có đủ các nguyên âm đơn và kép-chúm môi-tăng dần như trong chính tả. Có hiện tượng âm ô dài : 
  / o / >  / o: /. Ví dụ: ông  > ôông, trốc   >  trốốc

(4) Hệ thống phụ âm cuối: không có phụ âm cuối / -n / và /-t / . Hai âm này chuyển sang hai âm cuá / -k / và / -ng / : san sát  >   sang sảc*, bùn đất   >  bùng đẩc*

Phương ngữ nam

4          Đặc tính nổi bật cuả phương ngữ này là có nhiều nét gần với phương ngữ bắc nếu so sánh với phương ngữ trung. Tính cách chung cuả phương ngữ nam là:

(1) Hệ thống thanh: có năm thanh tương ứng với thanh ngang, hỏi, sắc, huyền, nặng cuả phương ngữ bắc. Không có thanh ngã. So sánh kĩ về điệu tính thì năm thanh cuả phương ngữ nam vẫn có khác với cuả hai phương ngữ trên, nói chung là "nhẹ, mềm mại" hơn.

(2) Hệ thống phụ âm đầu:

·      - có các phụ âm s, x, tr
·      - d,gi chuyển sang âm lỏng như ở phương ngữ trung
·      - có âm rung r
·      - không có âm v, hay đúng hơn là chuyển thành âm môi ướt vj mà nay chỉ còn dấu vết trong từ điển de Rhodes
·      - chuyển dịch phụ âm đầu / k / chúm môi , âm hầu / h / trong âm tiết có chúm môi, thành âm / g / : quá quắt  >  goá goắc , huy hoàng  > guy goàng

(3) Hệ thống nguyên âm:

·   - các nguyên âm đơn bậc cao ở cả hàng trước, hàng giưã và hàng sau / i / , / ư /, / u /  trong âm tiết mở có khuynh hướng trượt giảm dần với phụ âm cuối / j /  : đi   >  đij, (cá)  ngừ  > ngừj,  vi vu  >  vij vuj
·   - vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi có khuynh hướng dịch âm: âm giưã thấp / a /  lên âm hàng giưã bậc trung /ươ /, và nguyên âm sau tròn môi / o / về âm  giưã-thấp / a /: ai đó >  ưa đá ,  nòng nọc  >  nàng nạc

·   - nguyên âm / i / chuyển thành âm / ư / ngắn: xinh xắn > xưn xắng

·   - nguyên âm chúm môi mở đầu âm tiết chuyển thành âm tiết có âm đầu / g / : uy quyền  >  guy guyềng,  oan uổng  >   goang guổng

·   - nguyên âm rộng hàng giưã chúm môi / ua /  lại mất chúm môi: hoàn toàn  > hàng tàng  

·    - nguyên âm kép chúm môi hàng trên trượt có khuynh hướng mất âm mở rộng ở sau, là / ê / và / ơ / : kiếm > kím, kì diệu >  kì dịu, cương thường   >  cưjng thừjng

 (4) Hệ thống phụ âm cuối: không có phụ âm cuối / -n / và /-t / . Hai âm này chuyển sang hai âm cuá / -k / và / -ng / như ở phương ngữ trung: san sát  >  sang sác, bùn đất >  bùng đấc

Định chuẩn mực ngữ âm

5          Đứng trước tình trạng sai biệt giưã các phương ngữ, có hai quan điểm giải quyết:

(1) Khuynh hướng tôn trọng sự phát triển tự nhiên cuả ngôn ngữ. Đây là quan điểm cuả ngôn ngữ học (miêu tả) khách quan Mĩ vào những năm sau Bloomfield. Ở Việt Nam cũng từng có quan điểm như thế khi chủ trương rằng nhà ngữ học không được đặt ra những phép tắc quy định rằng người ta phải nói cách này, phải dùng cách đặt câu kia, hay là phải đọc chữ này cách nọ mới đúng. Nhà ngữ học chỉ quan sát xem người ta nói thế nào, dùng cách đặt câu nào, và đọc cách nào, rồi thì mô tả đúng những điều mình quan sát thôi. Chẳng hạn, nếu cho rằng học sinh miền Nam-Ngãi phát âm / mi  hạc ưa đá / là sai, và buộc phải học nói " mày học ai đó" mới đúng là trái tự nhiên, cũng như thầy giáo bắt học sinh miền bắc phải nói  "con trâu" chứ không được nói "con châu" thì rồi trong ý thức cuả cháu, tiếng "châu" đó có thể cũng không khác gì với "châu" trong tiếng  "châu chấu" mà cháu vẫn thường nói. Như vậy thì những quy định chuẩn mực ngôn ngữ chỉ là những áp đặt phi tự nhiên.

 (2)          Một khuynh hướng khác lại cho rằng phải sưả lại những sai chệch do căn bệnh điạ phương gây ra. Phải thống nhất ngôn ngữ như là một biểu hiệu cho thống nhất dân tộc.

            Đến nay, việc định chuẩn mực ngữ âm cần được đặt ra trong một chừng mực là làm trong sáng tiếng Việt sau bao nhiêu năm tháng không ngừng bị bỏ quên không được quan tâm đúng mức: một phần do chiến tranh phân hoá mà ngay ngôn ngữ cũng đã ít nhiều biến thành một công cụ tranh thắng về chính trị, mặt khác các nhà nước tiếp nhau đều chưa có một chính sách ngôn ngữ và giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ.

Ngày nay, bàn đến việc định chuẩn mực ngôn ngữ là một việc làm hoàn toàn xác đáng dưạ trên chính sự vận động ngôn ngữ. Tuy nhiên, không thể định chuẩn dựa trên những quyết định hành chính áp đặt. Muốn có được chuẩn mực ngôn ngữ thì ngoài giới chức quản lí văn hoá-giáo dục, cần có sự vận động đồng bộ trong nhà trường các cấp và ngành truyền thông báo chí, xuất bản.

            Trước hết và trên hết cả, chuẩn hoá không phải là độc đoán đề ra những luật lệ ngôn ngữ mà không đếm xiả gì những quy luật phát triển khác cuả ngôn ngữ, là quy luật tiết kiệm và sự vận động cuả ngôn ngữ qua thời gian. Những âm bật hơi cuả tiếng Việt hãy còn tồn tại đủ khoảng đầu thế kỉ XX, khi Maspéro tìm hiểu nó; nhưng đến giờ / ph / và   / kh / đã chuyển thành âm xát, chỉ còn sót lại ở vài ốc đảo ngôn ngữ không đáng kể. Một trường hợp khác: ba âm / s  /, / tr /, / r /  hãy còn nghe thấy ở phương ngữ bắc vài thập niên trước, mà nay hầu như không còn dùng trong thế hệ trẻ. Còn rất nhiều thí dụ cho sự chuyển dịch phát âm qua thời gian như thế.

            Sau nưã là sự liên tục và đồng bộ. Định chuẩn mực ngôn ngữ là một vận động ngôn ngữ trong toàn xã hội, trong đó phương tiện nhà trường và truyền thông đại chúng cần phải đóng vai trò chủ yếu. Những cuộc vận động ngôn ngữ trước nay thường chỉ thu lại trong một số bộ phận nào đó (chủ yếu là những bàn cãi giưã các nhà nghiên cứu chuyên môn đưa đến những quyết định hoàn toàn có tính cach hành chính) mà chưa thật sự là công trình chung cuả toàn xã hội.

6          Chuẩn mực phát âm và chính tả nào dùng để định chuẩn cho việc học nói, học đọc trong nhà trường?

            Trước nay có nhiều quan điểm khác nhau về việc chọn chuẩn phát âm. Một quan điểm cho phương ngữ Hà Nội là chuẩn mực, và dùng nó làm hệ quy chiếu mọi khác biệt thành "phi chuẩn", "phi ngôn ngữ văn học" (Đoàn: 1977). Quan điểm khác lại cho rằng phương ngữ Vinh (Nghệ Tĩnh) bao gồm nhiều điểm trội về ngữ âm, xứng đáng làm ngôn ngữ chuẩn (Hoàng: 1962).

            Các quan điểm vưà kể chính là một quan điểm định chuẩn đã áp dụng tại nhiều quốc gia, dưạ trên những lợi điểm rõ rệt cuả những phương ngữ dùng làm chuẩn mực. Tiếng Việt hiện đại không có phương ngữ nào có được ưu thế tuyệt đối. Quan điểm phải chăng nhất là tránh tinh thần bản vị điạ phương, để tìm một phương ngữ nào ít những sai biệt nhất làm chuẩn mực, sau khi đã bổ sung những thiếu sót cuả nó.

            Dưạ trên tiêu chí kể trên, có thể thấy là chọn phương ngữ bắc làm chuẩn mực phát âm sẽ là biện pháp tiết kiệm công sức nhất, vì phương ngữ bắc có đủ sáu thanh, là một chuẩn đúng nghiã nhất. Tuy nhiên, muốn trở thành một chuẩn mực ngữ âm, phương ngữ bắc có một số điểm cần bổ sung từ những phương ngữ đàng trong. Dưới đây là năm điểm cần được bổ sung cho phương ngữ bắc để có thể được định chuẩn:

1.    phát âm các phụ âm đầu  s, tr, r  căn cứ trên lối phát âm phương ngữ trung;

2.    phát âm và phân biệt các phụ âm đầu  l , n;

3.    phát âm  d , gi  theo những chuẩn phát âm trong "truyền thống" như đã lưu lại trong chính tả; bằng không thì phải chọn giải pháp là chấp nhận rằng ngôn ngữ đã thay đổi, và toàn xã hội phải thích nghi với sự thay đổi đã diễn ra và đã hoàn tất. Nói thế là vì phương ngữ trung và nam đều đã chuyển hai âm này thành âm lỏng / j / mà có tác giả gọi đó là bán âm đầu;

4.   khôi phục hai âm kép  ươu, ưu.

5.  khôi phục sáu thanh đúng của tiếng Việt tiêu chuẩn [3] 

       Một bảng đề mục chỉnh đốn như thế không phải là quá khó khăn trong việc giải quyết chuẩn mực phát âm cho tiếng Việt.

Chuẩn hoá chính tả

7          Tiếng Việt hiện đại được viết ra bằng chữ "quốc ngữ", là loại chữ ghi âm. Phải nhận là trong số những chữ viết ghi âm đề xướng và áp dụng xấp xỉ cùng thời, cho các nước Á Đông (Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Hoa), "chữ quốc ngữ" của Việt Nam thành công nhất nên tồn tại đến nay. Nói chung, chính tả chữ quốc ngữ  theo nguyên tắc kí âm, nghĩa là phát âm làm sao thì viết ra như thế, và mỗi âm được biểu thị bằng một kí hiệu (một hay nhiều chữ cái). Lí thuyết thì như thế; nhưng trên thực tế thì chính tả tiếng Việt hiện nay có những điểm không sát hợp với phát âm.

            Nguyên nhân cuả những hiện tượng sai chệch giưã phát âm và chính tả có thể quy về hai loại:

(1)       Thay đổi ngữ âm qua thời gian mà nay chữ viết chưa theo kịp. Thuộc loại này có hai đồ vị kh, ph nguyên là âm bật hơi, nay hầu như đã biến mất cách phát âm bật hơi (tức là yếu tố được ghi bằng chữ cái h), thế nhưng chữ viết ngày nay vẫn để nguyên đồ vị kh, ph.

            Một trường hợp khác là các đồ vị d , gi gần như biến mất khỏi ngữ âm ba miền, mà đã chuyển thành z (ở phương ngữ bắc)và j (ở trung và nam). Tuy vậy, chữ viết vẫn ghi là d và gi.

(2)       Đồ vị [4] không ghi đúng theo cách phát âm "chuẩn" (hiểu theo nghiã là những chuẩn mực chung cho cả ba phương ngữ). Thuộc loại này có khá nhiều:

·    - ba đồ vị c, k, q dùng để ghi một âm / k /,
·    - hai đồ vị g , gh để ghi một âm / g /,
·    - hai đồ vị ng , ngh để ghi âm /  ng /,
·    - đồ vị gi  khi thì viết có khi  thì không,
·    - thể ngắn cuả vưà ghi với  vưà ghi với ă : căn, may, mặt dày
·    - thể chúm cuả nguyên âm kép trượt về hàng giưã thấp khi thì viết oa khi thì uahoa quả, khoái quá,
·    - âm chúm môi hàng sau viết là uô / ua, nhưng cũng có thể viết : muôn thuả = muôn thuở,
·    - trầm trọng nhất là hiện tượng viết tuỳ tiện và trong chính tả. [5]
·    - đặt vị trí đồ vị thanh không thống nhất, và không hợp nguyên tắc ghi âm là dấu thanh bỏ trên nguyên âm nhiễm thanh mạnh nhất [6].

8          Trong vấn đề chính tả, có những việc thuộc về thói quen cuả xã hội. Ngôn ngữ cũng cần có những bất quy tắc để tăng thêm hứng thú học và vận dụng tư duy để nhận thức những quy tắc nghịch thường. Tuy nhiên, trong chừng mực mà giáo dục có thể giúp chúng ta có ý thức viết đúng chính tả, thì có hai việc nhà trường có thể đóng góp phần mình vào việc định chuẩn cho chính tả. Đó là giúp học sinh học phát âm chuẩn từ lúc mới học đọc, và giúp học sinh khắc phục từ sớm những lối viết chính tả tuỳ tiện.

(1)       Như đã trình bày ở phần trên, phương ngữ đã tạo ra những sai chệch về phát âm và có ảnh hưởng đến chính tả. Người nam viết  *tuyệc dịu (tuyệt diệu) hoặc là *kiêm lang (kim lan) là vì ảnh hưởng cuả lối phát âm điạ phương mà ra. Một học sinh thuộc phương ngữ bắc viết * chường cuả cháu xẽ nàm rản rị sôi (“trường cuả cháu sẽ làm giản dị thôi”) cũng là do viết theo thói quen phát âm điạ phương. Tại miền Bắc trước 1954 và miền Nam trước 1975 có hiện tượng là các nhà in/xuất bản ghi chữ quốc ngữ theo giọng đọc địa phương của mình. Ta có thể gặp những lỗi chính tả đại loại như: thiếu xót (< thiếu sót), rằng sé (<giằng xé), Tân sơn nhứt ( < Tân sơn nhất), chánh tả ( < chính tả), nhơn duơn (< nhân duyên)...  

Hiện tượng sai chạy chính tả này phổ biến khắp nơi chứ chẳng riêng gì vùng miền nào của phương ngữ tiếng Việt. Chỉ có giáo dục và báo chí thông tấn, biên tập nhà xuất bản mới có thể góp phần giúp mọi người rèn luyện và thiết lập chuẩn mực ngôn ngữ viết cho mình. Rèn luyện, và rèn luyện phát âm đúng, và được tiếp xúc với ngôn ngữ chuẩn thường xuyên đều đặn. Đó là điều kiện tối ưu để giữ chuẩn mực ngôn ngữ (viết) cho học sinh, mà chỉ có nhà trường mới làm được.

(2)       Có những sai chệch là do sự tuỳ tiện cuả những người sử dụng ngôn ngữ mà ra. Xã hội nói chung, và nhà trường nói riêng, phải có trách nhiệm sưả lại những cái sai do thói quen dễ dãi gây nên. Ở đây cần có sự can thiệp cuả giới chức có trách nhiệm để có được chính sách ngôn ngữ đúng đắn cho toàn thể xã hội. Nhà trường chỉ có thể đóng vai trò cảnh sát cho ý thức ngôn ngữ văn hoá, để giúp giữ gìn và nuôi dưỡng ngôn ngữ  tiêu chuẩn cuả một cộng đồng ngôn ngữ. Ngoài trường học, xã hội cũng cần có những đóng góp cần thiết và hữu hiệu cho một cuộc vận động xã hội của ngành truyền thông báo chí, ngành in và xuất bản sách. Sau hết và cũng cần thiết không kém là vai trò của các định chế quản lí xã hội: nhà nước và giới quản lí lãnh đạo ngành giáo dục và văn hoá quốc gia.

9          Bây giờ mà bàn chuyện ấn định chuẩn mực cho phát âm và chính tả tiếng Việt thì không tránh khỏi sự dè bỉu cuả một số người. Tuy vậy, những người có trách nhiệm giúp đỡ thế hệ trẻ Việt Nam không thể lảng tránh vấn đề. Sớm muộn gì thì chúng ta cũng sẽ phải đối diện với nó. Những gợi ý hôm nay có thể xem như là góp phần vào việc gọi mời sự quan tâm cuả các giới đối với việc giữ cho tiếng Việt được đúng quy củ cần có cuả một ngôn ngữ văn hoá. 

Đoàn Xuân Kiên (Phố tịnh.com)
 

[1] Những cứ liệu thực nghiệm cuả Hoàng Cao Cương trong một bài viết về thanh của tiếng Việt cho rằng đường nét âm điệu cuả thanh hỏi ở phương ngữ bắc chỉ còn nét đi xuống. Đây là một vấn đề cần nghiên cứu thêm vì thực tiễn nói năng không hề xác nhận một kết luận như vậy, ngoại trừ lối phát âm không đúng chuản của một nhóm nhỏ địa phương Bắc bộ. Vậy thì có thể có vấn đề chọn mẫu khi nghiên cứu thực nghiệm trong trường hợp này chăng? (Xem Hoàng: 1986).
[2] Ở một vài địa phương miền trung và miền nam, còn có thể gặp lối phát âm hai từ khổ và phở có âm đầu bật hơi, nghe như /k'o-3/ và /p' ə-3/. Các nhà đông phương học như Cadière, Maspéro và Haudricourt chú ý nghiên cứu phương ngữ miền này (vẫn thường gọi là phương ngữ trung-trên), vì nó chưá nhiều yếu tố tiếng Việt cổ nhất so với các phương ngữ khác.
[3] Đây là một việc nặng nhọc và khẩn cấp vì nhiều lẽ: những người phát thanh viên đài truyền thanh và truyền hình là những người đang đứng ở tuyến đầu cho việc giữ gìn chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt, nhưng hiện nay đang có tình trạng thả nổi cho việc phát âm tuỳ tiện của nhiều người thiếu trình độ ngữ âm tiếng Việt, khiến cho sáu thanh tiếng Việt hiện đại nay đang lâm vào tình trạng xáo trộn. Đáng buồn hơn nữa là trong khi những thanh của phương ngữ trung và nam nói chung vẫn giữ đúng các bậc thanh của vùng miền mình, thì những người phát thanh viên nói giọng bắc lại gây xáo trộn nhiều nhất cho việc giữ chuẩn các thanh tiếng Việt. Chẳng hạn, một câu nói: "Bà cho cháu Hải cái kẹo đã." có thể được mấy cô xướng ngôn thiếu học phát âm nghe na ná như: "Ba chó chảu Hại cải kèo đá", trong đó: thanh huyền [`] bị nâng lên gần thanh ngang; thanh ngang [-] (đường số 2 trong Hình 1) lại nâng lên cao gần thanh sắc [']; trong khi đó thì thanh sắc lại chuyển sang thanh hỏi (đường số 4); thanh hỏi (xem đường nét thanh hỏi ở đường số 4) lại ngừng ở đoạn đi xuống và không vượt lên cao ở đoạn sau; cũng thế, thanh nặng [.] (đường số 6) bị nâng lên như thanh huyền [`]; thanh ngã [~] cũng bị đứt mất phần nửa đầu lượn xuống và dừng ở một âm tắc họng trước khi lướt lên cao như thanh sắc xem đường nét thanh ngã ở đường số 3). Kiểu phát âm như thế không thể là của những xướng ngôn viên truyền thanh và truyền hình quốc gia mà trên nguyên tắc phải là những người hiểu rõ chuẩn ngôn ngữ mình sử dụng. Sở dĩ có hiện tượng xáo trộn sáu thanh tiêu chuẩn như thế là vì những người làm việc phát thanh truyền hình kia thiếu vắng một trình độ tối thiểu về sáu thanh tiếng Việt. Những người đó đã góp phần làm hỏng việc học nói và viết tiếng Việt cho đúng chuẩn ở trong nước. Cũng thật là đáng buồn khi một số cơ sở truyền thanh ở hải ngoại như Đài Á Châu Tự Do (RFA), Đài Radio Francaise Internationale (RFI) cũng tuyển vào những xướng ngôn viên ngọng líu ngọng lo như thế.
[4] Đồ vị (grapheme) là hình thức ghi lại các âm bằng chữ viết theo tương quan một đối một. Đồ vị tiếng Việt có thể là một hay nhiều chữ cái. Chẳng hạn, âm / ɔ  / viết bằng chữ “o”, âm  /iê/ viết bằng chữ “iê”, âm / t' / viết bằng chữ “th”…
[5] Chúng tôi đã bàn về đề tài này trong bài viết về “chữ i và y trong chính tả tiếng Việt”. Xem Định Hướng số 15 (mùa xuân 1998), tr 96-112, nay lưu lại ở đây: http://www.xn--phtnh-s81bqb.com/2017/09/chu-i-va-y-trong-chinh-ta-tieng-viet.html
 [6] Chúng tôi có bàn về vấn đề này trong bài “bàn về chuyện đánh dấu thanh tiếng Việt” trong Định Hướng số 17 (muà thu 1998), tr. 109-121, nay lưu lại ở đây: http://www.xn--phtnh-s81bqb.com/2017/09/ban-ve-chuyen-anh-dau-thanh-trong-tieng.html


Tài liệu tham khảo: 

Đoàn Thiện Thuật (1977), Ngữ Âm Tiếng Việt. Hà Nội: Nxb. ĐH & THCN.

Hoàng Cao Cương (1986) "Suy nghĩ thêm về thanh điệu tiếng Việt" in Ngôn Ngữ  số 69 (3.1986), pp 19-38.

Hoàng Tuệ (1962) "Hệ thống ngữ âm và ngữ pháp tiếng Việt" trong Hoàng Tuệ et. al.(1962), Giáo Trình về Việt Ngữ (sơ thảo), tập I. Hà Nội: Nxb. Giáo Dục.

Rubin, Joan & Jernudd Bjorn (1975): Can Language Be Planned? Honolulu: East-West Center Book.