Công pháp quốc tế nào cho Ukraine ? (Thiên Cầm)

Toà án Hình sự Quốc tế: "Tội phạm xâm lược có nghĩa là lập kế hoạch, chuẩn bị, bắt đầu hoặc thực hiện, bởi một người ở một vị trí có thẩm quyền để thực hiện quyền kiểm soát hoặc chỉ đạo các hành động chính trị hoặc quân sự của một Quốc gia, hành động xâm lược mà xét theo đặc tính, mức độ nghiêm trọng và quy mô của nó, tạo thành một sự vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc”.  


PHẦN 1: Khái lược các tổ chức pháp luật và điều tra quốc tế.

Công pháp quốc tế hay luật pháp quốc tế có thể hiểu đơn giản là các quy định và các nguyên tắc phổ cập quốc tế có khả năng điều chỉnh hành vi của chính quyền các quốc gia trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, lãnh thổ....Công pháp quốc tế thể hiện ở nhiều dạng như hiến chương, công ước, hiệp ước, bản quy ước, nghị quyết. Xét về giá trị pháp lý thì luật quốc tế khi được quốc hội một quốc gia thông qua sẽ có thẩm quyền cao hơn các bộ luật quy định các điều tương tự của quốc gia đó. Có thể ví dụ về luật quy định thành lập tổ chức hội nhóm tại Việt Nam có giá trị pháp lý thấp hơn hai công ước quốc tế là Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa xã hội (International Covenant on Economic, Social and Cutural Rights) và Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (International Covenant on Civil and Politic Rights). Công pháp Quốc tế thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và từng cá nhân trong một quốc gia, giữa nhà nước này và nhà nước khác trên thế giới, giữa nhà nước và các tổ chức quốc tế, tổ chức xã hội dân sự...

Trong phần 1, chúng ta sẽ không đi sâu vào lịch sử của từng định chế quốc tế mà sẽ xem xét thẩm quyền của nó về hàng loạt các vấn đề như xâm lược lãnh thổ, sự lạm dụng nhân quyền của quân xâm lược, quyền lực của các phán quyết và nghị quyết....

lhq0

Đại hội đồng là một diễn đàn duy nhất bao gồm tất cả các quốc gia thành viên tham gia thảo luận đa phương về toàn bộ vấn đề quốc tế được quy định trong Hiến chương Liên Hợp Quốc.

1. Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc (United Nations General Assembly - UNGA).

Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc là một cơ quan hoạch định chính sách chính của Tổ chức Liên Hợp Quốc. Đại hội đồng là một diễn đàn duy nhất bao gồm tất cả các quốc gia thành viên tham gia thảo luận đa phương về toàn bộ vấn đề quốc tế được quy định trong Hiến chương Liên Hợp Quốc. Mỗi thành viên trong 193 quốc gia thuộc Liên Hợp Quốc có một phiếu bầu như nhau.

Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc cũng đưa ra các quyết định quan trọng cho Liên Hợp Quốc, bao gồm:

- Bổ nhiệm Tổng thư ký theo đề nghị của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

- Bầu chọn thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

- Phê duyệt ngân sách Liên Hợp Quốc.

Ngoài ra, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thường xuyên thảo luận và biểu quyết những vấn đề mà thế giới đang đối mặt như: dịch bệnh, phân biệt chủng tộc, nhân quyền, bất bình đẳng, biến đổi khí hậu, nghèo đói, xung đột vũ trang... nhằm xúc tiến các chương trình kinh tế, xã hội, văn hóa và giáo dục.

Những văn bản quyết định về những vấn đề được thảo luận và được biểu quyết theo đa số tại Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc được gọi là các nghị quyết. Nghị quyết tại Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc không mang tính ràng buộc pháp lý nhưng có sức nặng về chính trị. Điều đó có nghĩa rằng Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc không thể dùng nghị quyết của mình để bắt buộc Nga chấm dứt cuộc xâm lược trái công pháp quốc tế tại Ukraine, nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc chỉ thể hiện ý chí chung của đa số các quốc gia trên thế giới, nhưng là một áp lực ngoại giao cho Nga.

Tuy nhiên, nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc có thẩm quyền đối với các thành viên đang nắm giữ vị trí của các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc (Hội đồng Bảo an có tính lịch sử nên sẽ bàn sau). Vào ngày 7/4/2022, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đã đình chỉ tạm thời tư cách thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc của Nga sau các báo cáo về "các hành vi vi phạm và lạm dụng nhân quyền tổng thể và có hệ thống" trong khi quân đội Nga xâm lược ở Ukraine. Ngay sau đó Nga đã đệ đơn xin rút khỏi Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc vì cho rằng nghị quyết của Đại Hội đồng là một động thái mang tính chính trị do Hoa Kỳ dẫn đầu.

lhq2

Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc có trách nhiệm chính trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.

2. Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (United Nations Security Council - UNSC).

Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc có trách nhiệm chính trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Hội đồng có 15 thành viên và mỗi thành viên có một phiếu bầu. Theo điều 25, Hiến Chương của Liên Hợp Quốc, tất cả các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tuân thủ các quyết định của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đi đầu trong việc xác định sự tồn tại của các mối đe dọa hòa bình hoặc hành động xâm lược. Hội đồng kêu gọi các bên giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình và đề xuất các phương pháp điều chỉnh hoặc điều khoản giải quyết. Trong một số trường hợp, Hội đồng Bảo an có thể áp dụng những lệnh trừng phạt áp đặt hoặc thậm chí ủy quyền cho phép sử dụng vũ lực nhằm duy trì và khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế.

Trong 15 thành viên của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thì có 5 thành viên là thành viên thường trực (cố định, không qua bầu chọn) bao gồm Trung Quốc, Pháp, Nga, Anh, Hoa Kỳ. Mười thành viên còn lại là các thành viên không thường trực được bầu chọn tại Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc. Mười ghế không thường trực trong Hội đồng Bảo an được sắp xếp với định mức cho mỗi khu vực: 2 ghế cho mỗi khu vực châu Phi, châu Á - Thái Bình Dương, châu Mỹ Latin và Caribe, Tây Âu và nhóm các quốc gia khác, 1 ghế cho Đông Âu, và ghế còn lại luân phiên giữa châu Phi và châu Á.

Năm thành viên thường trực tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc là năm nước đã thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ Hai (riêng với trường hợp Trung Quốc thì sau chính quyền Cộng hòa nhân dân Trung Hoa giành được ảnh hưởng trên trường quốc tế và loại Chính quyền Dân Quốc Trung Hoa ra khỏi đại lục Trung Hoa thì quốc gia này đã tiếp nhận vị trí của Đài Loan tại Hội đồng. Trong khi đó Nga được cộng đồng quốc tế coi là quốc gia thừa kế hợp pháp của Liên Xô) và cũng là năm quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân.

Năm quốc gia thường trực có phiếu bầu với giá trị tương đương với 10 quốc gia không thường trực nhưng họ có quyền phủ quyết nghị quyết của Hội đồng Bảo an theo điều 27 của Hiến Chương Liên Hợp Quốc:

- Mỗi quốc gia của Hội đồng Bảo an có một phiếu bầu.

- Những quyết định của Hội đồng Bảo an về các vấn đề thủ tục được đưa ra bằng một cuộc bỏ phiếu khẳng định của chín thành viên.

- Các quyết định của Hội đồng Bảo an về các vấn đề khác sẽ được đưa ra bằng cuộc bỏ phiếu khẳng định của của chín thành viên bao gồm những phiếu bầu đồng tình của các thành viên thường trực; với điều kiện, trong các quyết định theo chương VI, và theo khoản 3 của điều 52, một bên tranh chấp sẽ không tham gia bỏ phiếu.

Điều này có nghĩa rằng trong tất cả các vấn đề cần thảo luận và đưa ra nghị quyết của Hội đồng Bảo an thì cần có ít nhất một đa số quá bán (9/15 = 60%) các nước đồng ý thông qua, riêng với vấn đề không thuộc các vấn đề mang tính thủ tục (bao gồm sửa đổi Hiến chương Liên Hợp Quốc, xác định tranh chấp hoặc tình thế theo quy định tại Chương VI và VII Hiến chương Liên Hợp Quốc, áp dụng các biện pháp cưỡng chế, đề nghị việc bầu Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, đình chỉ tư cách thành viên và khai trừ thành viên) thì trong 9 thành viên đồng ý thông qua nghị quyết phải có 5 thành viên thường trực. Nếu một thành viên thường trực bỏ phiếu chống thì nghị quyết không được thông qua. Tuy nhiên nếu thành viên thường trực vắng mặt (tự nguyện hoặc bắt buộc) hoặc bỏ phiếu trắng trong cuộc bỏ phiếu sẽ không ngăn được nghị quyết được thông qua. Các nghị quyết của Hội đồng Bảo an có tính pháp lý bắt buộc đối với các thành viên thuộc Liên Hợp Quốc và được thực thi bởi Lực lượng gìn giữ Hòa bình của Liên Hợp Quốc.

Câu hỏi được nhiều người đặt ra là Nga hiện đang là một bên tranh chấp về vấn đề lãnh thổ Ukraine thì Nga không có tư cách bỏ phiếu dù Nga đang là một thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Hai lý do được đưa ra là: Thứ nhất là trước khi xảy ra chiến sự Ukraine, Nga đã chiếm giữ trái phép bán đảo Crimea, sau sự kiện đó, Ukraine và Nga đều là hai bên trong vụ tranh chấp bán đảo Crimea. Thứ hai, hành động "quân sự đặc biệt" của Nga tại Ukraine thực chất là một hành vi xâm lược mang danh nghĩa "bảo vệ vùng nói tiếng Nga và giải trừ vũ khí của chính quyền tân phát xít", giao tranh quân sự đã xảy ra và hiện Nga đang nắm vùng Donbass trong tay, Nga và Ukraine là hai bên trong vụ tranh chấp Donbass. Nếu Nga vắng mặt hoặc bỏ phiếu trắng như điều 27 của Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định, thì nghị quyết sẽ được thông qua. Nhưng điều mà chúng ta thấy lại ngược lại: Nga liên tục có mặt trong các cuộc bỏ phiếu tại Hội đồng Bảo an và cũng liên tục bỏ phiếu chống không cho các dự thảo nghị quyết được thông qua, phải giải thích điều này như thế nào?

Chúng ta cùng nhau bàn về một dự thảo nghị quyết đầu tiên sau khi Nga xâm lược Ukraine: "buộc Nga phải chịu trách nhiệm cho hành vi xâm lược chống lại Ukraine, bảo vệ dân thường, bao gồm cả trẻ em, và kêu gọi hỗ trợ nhân đạo nhanh chóng, an toàn và không bị cản trở cho những người cần". Dự thảo nghị quyết do Hoa Kỳ đề xướng đã được 52 thành viên tại Đại Hội đồng Liên Hợp quốc tán thành bảo trợ. Kết quả của cuộc bỏ phiếu tại Hội đồng Bảo an ngày 25/02/2022 cho thấy mười một nước đồng ý với nghị quyết gồm Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Albania. Brazil. Gabon, Ghana, Ireland, Kenya, Mexico và Na Uy; ba nước bỏ phiếu trắng gồm Trung Quốc, Ấn Độ, các tiểu vương quốc UAE; duy nhất Nga bỏ phiếu chống và Nga lúc đó đang là chủ tịch của Hội đồng Bảo an (ghế chủ tịch Hội đồng sẽ được trao luân phiên cho các nước từng tháng). Việc Nga ngồi tại Hội đồng Bảo an và bỏ phiếu trong lúc đang là một bên tranh chấp với Ukraine đã vi phạm trắng trợn điều 27 của Hiến Chương Liên Hợp Quốc, và không cần phải lý luận gì nhiều cả, chỉ có thể đưa ra một kết luận duy nhất: Nga đã dẫm đạp lên luật pháp quốc tế bất chấp sự phản đối của đa số thành viên thuộc Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, có một cách giải thích khác được đưa ra một cách lúng túng từ các chuyên gia trong Hội đồng Bảo an: Các nước là thành viên thường trực không viện dẫn điều 27 để thách thức hành động bất hợp pháp của Nga là vì họ muốn để mở khả năng phủ quyết của họ trong tương lai nếu họ có liên quan đến một vụ việc tương tự. Cách giải thích này, đã nói lên rằng việc cấm quyền biểu quyết của điều 27 thể hiện xung đột lợi ích không có ý nghĩa gì cả.

-

Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc là một tổ chức bao gồm 47 quốc gia thành viên chịu trách nhiệm cho việc thúc đẩy và bảo vệ tất cả quyền con người trên toàn cầu.

3. Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (United Nations Human Rights Council) và Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc (Office of High Commissioner for Human Rights).

Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc là một tổ chức liên chính phủ trực thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc bao gồm 47 quốc gia thành viên chịu trách nhiệm cho việc thúc đẩy và bảo vệ tất cả quyền con người trên toàn cầu. Hội đồng họp ít nhất 3 phiên mỗi năm ở Geneva, Thụy Sĩ.

Vai trò của hội đồng là tăng cường xúc tiến và bảo vệ nhân quyền trên toàn cầu và nêu lên tình trạng vi phạm nhân quyền và khuyến nghị để xử lý các hành vi vi phạm nhân quyền, đặc biệt là vi phạm nhân quyền trắng trợn có hệ thống. Hội đồng có khả năng thảo luận tất cả vấn đề và tình hình Nhân quyền cần được chú ý xuyên suốt mỗi năm.

Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc là cơ quan thư ký của Hội đồng Nhân Quyền.

Được bầu theo nhiệm kỳ ba năm, các nước thành viên của Hội đồng thảo luận, hành động và thông qua các nghị quyết liên quan đến những khoản mục khác nhau trong chương trình nghị sự thường trực:

1. Các vấn đề tổ chức và thủ tục.

2. Báo cáo thường niên của Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc và các báo cáo của Văn phòng Cao ủy và Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc.

3. Xúc tiến và bảo vệ tất cả các nhân quyền: quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, kể cả quyền phát triển.

4. Những tình hình nhân quyền cần được sự chú ý của Hội đồng.

5. Các cơ quan và cơ chế nhân quyền.

6. Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát.

7. Tình hình nhân quyền ở Palestine và các vùng lãnh thổ Ả-rập bị chiếm đóng.

8. Theo dõi và thực hiện Tuyên bố và Chương trình Hành động Vienna.

9. Nạn phân biệt sắc tộc, phân biệt chủng tộc, bài ngoại, và các hình thức bất dung có liên quan; theo sát và thực hiện Tuyên bố và Chương trình Hành động Dubai.

10. Hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực.

Hội đồng cân nhắc các hoạt động của những sứ mệnh nhân quyền và cơ chế nhân quyền cấp dưới, và có thể tổ chức các cuộc thảo luận nhóm cũng như các sự kiện đặc biệt để tăng cường đối

thoại và hiểu biết lẫn nhau về những vấn đề cụ thể. Bên cạnh các phiên họp thông thường, Hội đồng còn có thể tổ chức các phiên đặc biệt liên quan đến các vấn đề theo chuyên đề hay vấn đề của từng nước cụ thể.

Ngoài những nước thành viên Hội đồng, các quan sát viên – bao gồm những nước không phải là thành viên, các tổ chức liên chính phủ, các định chế nhân quyền quốc gia, các tổ chức phi chính phủ (Non-Governmental Organization - NGOs) cũng có thể tham gia vào một phiên họp. Một đại diện tiêu biểu của NGOs là tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) có trụ sở tại New York, Hoa Kỳ.

Cao ủy Nhân Quyền Liên Hợp Quốc có thẩm quyền yêu cầu mở các cuộc điều tra vi phạm nhân quyền và ra các thông cáo báo chí về các vấn đề Nhân quyền. Các nghị quyết mà Hội đồng Nhân quyền thông qua chỉ có vai trò là trở thành một chuẩn mực nhân quyền chung, giá trị thực thi của nó do các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc đảm nhận. Điều này có mặt hạn chế trong việc phổ cập các giá trị nhân quyền vì chỉ những nước có ý chí chung về nhân quyền mới tích cực đưa ra các biện pháp trừng phạt các nước vi phạm nhân quyền, ví dụ rõ nhất các quốc gia phương Tây và Hoa Kỳ đã thi hành nhiều biện pháp trừng phạt kinh tế lên Nga nhằm đáp trả các hành vi vi phạm nhân quyền có hệ thống được tiến hành bởi quân đội Nga ở Bucha, Ukraine. Một số nước Châu Á cùng chia sẻ các giá trị với phương Tây như Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore ủng hộ các lệnh trừng phạt và đồng thời cũng áp đặt các lệnh trừng phạt của họ lên nước Nga. Ngược lại, các nước độc tài ngoài việc vi phạm nhân quyền và ủng hộ lẫn nhau hành vi vi phạm nhân quyền còn luôn viện cớ các tổ chức Nhân quyền phi chính phủ "đã giúp các chính quyền nước ngoài" can thiệp công việc nội bộ, vi phạm điều 2, Hiến chương Liên Hợp Quốc 1945 về nguyên tắc cấm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Trong khi đó các tổ chức nhân quyền phi chính phủ chỉ tiến hành các công việc điều tra và báo cáo tình hình nhân quyền lên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, không hề có chuyện "can thiệp" như các chính quyền độc tài đã nói dối trắng trợn.

4. Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice - ICJ).

Tòa án Công lý Quốc tế là một cơ quan tài phán quan trọng của Liên Hợp Quốc. Tòa án được thành lập vào tháng 6 năm 1945 bởi Liên Hợp Quốc và bắt đầu đi vào hoạt động vào tháng 4 năm 1946.

Trụ sở của Tòa án là Cung điện Hòa bình ở La Hay (Hà Lan). Trong số sáu cơ quan chính của Liên Hợp Quốc, tòa án là cơ quan duy nhất không tọa lạc tại New York (Hợp chủng quốc Hoa Kỳ).

Vai trò của tòa án là giải quyết, theo luật pháp quốc tế, các tranh chấp pháp lý được đệ trình lên tòa án bởi các quốc gia và đưa ra các ý kiến tư vấn về các câu hỏi pháp lý do các các cơ quan có thẩm quyền của Liên Hợp Quốc và các cơ quan chuyên môn đề cập đến. Tòa án phán quyết các tranh chấp giữa các quốc gia, dựa trên sự tình nguyện tham gia của các quốc gia liên quan. Nếu một quốc gia đồng ý tham gia một thủ tục tố tụng, thì quốc gia đó có nghĩa vụ tuân theo phán quyết của tòa án.

Tòa án Công lý Quốc tế bao gồm 15 thẩm phán được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc (UNGA) và Hội đồng Bảo an (UNSC) bầu chọn với nhiệm kỳ chín năm. Tòa án bao gồm các thẩm phán với quốc tịch không trùng nhau. Hơn nữa, toàn bộ Tòa án phải đại diện cho các hình thức chính của nền văn minh và các hệ thống nguyên tắc pháp lý của thế giới. Những cơ quan này (UNGA và UNSC) bỏ phiếu đồng thời nhưng riêng biệt. Để được bầu chọn, một ứng viên phải nhận một đa số tuyệt đối phiếu bầu từ cả hai cơ quan (UNGA và UNSC). Điều này thỉnh thoảng làm cho một số vòng bỏ phiếu cần thiết phải được thực hiện. Để đảm bảo một biện pháp liên tục, 1/3 thành viên của toà án sẽ được bầu lại ba năm 1 lần. Các thẩm phán có đủ tư cách để tái cử. Nếu một thẩm phán qua đời hoặc từ chức trong thời gian thuộc nhiệm kỳ của mình, một cuộc bỏ phiếu đặc biệt được tổ chức sớm nhất có thể nhằm chọn một thẩm phán mới thay thế vào phần nhiệm kỳ chưa hết hạn của vị thẩm phám đã rời khỏi Toà án.

Thẩm phán tạm thời (ad-hoc) là một chức vụ thẩm phán được quy định trong điều 31, khoản 2 và 3, quy chế của Toà án. Một quốc gia thành viên của một vụ kiện trước Toà án Công lý Quốc tế mà không có một thẩm phán có quốc tịch của mình trong hàng ghế thẩm phán, quốc gia đó có thể chọn một vị thẩm phán tạm thời, trường hợp cụ thể này được qui định từ Điều 35 đến Điều 37 của Quy chế Toà án. Trước khi nhận nhiệm vụ của mình, một thẩm phán tạm thời được yêu cầu tuyên thệ trang trọng giống như một thành viên được bầu vào Toà án. Họ không nhất thiết phải (và thường không phải) là một công dân của nước chỉ định họ.

Các thẩm phán tạm thời tham gia vào bất kỳ quyết định nào liên quan đến vụ việc trên điều kiện hoàn toàn bình đẳng với những đồng nghiệp của họ và nhận một khoản phí cho mỗi ngày họ thực hiện nhiệm vụ của mình, có nghĩa là mỗi ngày họ ở La Hay để tham gia công việc của Toà án, cộng với mỗi ngày xem xét vụ án bên ngoài La Hay. Một bên tranh chấp phải thông báo càng sớm càng tốt ý định chọn một thẩm phán tạm thời. Trong trường hợp có nhiều hơn hai bên tranh chấp (trường hợp này không thường xuyên xảy ra), quy tắc là các bên hành động cùng lợi ích bị hạn chế chỉ có duy nhất một thẩm phán tạm thời giữa họ và điều đó (hành động cùng một lợi ích), nếu một trong số các bên (hành động cùng một lợi ích) đã có một thẩm phán thuộc quốc tịch của mình trên hàng ghế thẩm phán, họ không được quyền chọn một thẩm phán tạm thời. Do đó nhiều khả năng đã xảy ra trong thực tế tại toà án: có hai thẩm phán thường trực có quốc tịch của các bên cùng lợi ích; hai thẩm phán tạm thời; một thẩm phán thường trực có quốc tịch của một trong các bên cùng lợi ích và một thẩm phán tạm thời; không có thẩm phán thường trực có quốc tịch của một trong các bên cùng lợi ích cũng như không có thẩm phán tạm thời.

Theo đó, thành phần thẩm phán của Toà án Công lý Quốc tế sẽ thay đổi theo từng vụ việc số lượng thẩm phán ngồi trong một vụ việc không nhất thiết là 15. Có thể ít hơn, nếu một hoặc nhiều thẩm phán được bầu chọn không ngồi trên hàng ghế thẩm phán, hoặc nhiều nhất là 16 hoặc 17 nếu có những thẩm phán tạm thời; về lý thuyết số lượng có thể thậm chí hơn 17 thẩm phán trên hàng ghế toà án nếu có một số bên trong trong một vụ án không hành động cùng một lợi ích. Thành phần thẩm phán của Toà án đôi khi thay đổi từng giai đoạn của một vụ án: nói cách khác, thành phần thẩm phán không nhất thiết phải giống các biện pháp tạm thời, các phản đối sơ bộ và các lý lẽ phải trái. Tuy nhiên, một khi Toà án cuối cùng đã được thành lập cho một giai đoạn nhất định của một vụ án, tức là từ khi mở đầu mở đầu vụ kiện vấn đáp trong giai đoạn đó cho đến khi đưa ra phán quyết liên quan đến vụ kiện, thì thành phần thẩm phán sẽ không thay đổi.

Ngày 16/3/2022, ICJ đã ra một phán quyết sơ bộ yêu cầu Nga chấm dứt các hành động quân sự tại Ukraine (chi tiết sẽ được bàn vào phần 3 của bài viết: "Các công pháp quốc tế được áp dụng đối với Nga và Ukraine. Khát vọng dân chủ không thể bị đảo ngược"). Trong phiên toà ngày 7/3/2022, Ukraine đã tố cáo Nga sử dụng diễn ngôn diệt chủng người Nga tại miền đông Ukraine nhằm thanh minh cho hành động xâm lược. Trong khi đó Nga bác bỏ thẩm quyền tài phán của Toà án và từ chối cử đại diện tham dự, chỉ gửi bản đệ trình lập trường biện hộ của Nga cho ICJ. ICJ tuyên bố rằng Nga thiếu các bằng chứng chứng minh có tội ác diệt chủng người Nga tại miền đông Ukraine, và Nga không có quyền can thiệp vào lãnh thổ của Ukraine ngay cả khi tộc ác diệt chủng thực sự đã xảy ra ở Ukraine, Nga với tư cách là một thành viên của Công ước về Diệt chủng 1948 (Ukraine cũng là thành viên của công ước này) chỉ có thể áp dụng các biện pháp can thiệp phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế như tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không sử dụng vũ lực và đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Với những lý do đó, Ukraine được hưởng quyền không bị Nga tấn công quân sự. Phán quyết của toà án được 13/15 thẩm phán thông qua (Ukraine chỉ định một thẩm phán thường trực trở thành thẩm phán tạm thời của họ), quốc tịch của 2 thẩm phán không đồng ý thông qua phán quyết không được tiết lộ nhưng được báo chí nhắc tới có khả năng cao là cặp bài trùng Nga - Trung.

Phán quyết của ICJ là chung thẩm và có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý với các bên tham gia. Tuy vậy, Nga đã từ chối tuân theo phán quyết của Toà án với lý do ICJ không có thẩm quyền xét xử vụ việc, tuyên bố rằng hành động quân sự không dựa trên cáo buộc về diệt chủng (phải chăng Nga đang ám chỉ lý do khác là "phi phát xít hoá Ukraine"? Nhưng nếu Nga lấy lý do đó thì họ vẫn không có đủ bằng chứng để kết tội chính quyền Ukraine là một chính quyền tân phát xít). Lập luận của Nga đã bị ICJ bác bỏ hoàn toàn. Dù phán quyết của ICJ có giá trị pháp lý nhưng Toà không có lực lượng thi hành, Ukraine buộc phải đưa vụ việc ra giải quyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc - cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế thi hành bằng tất cả biện pháp, kể cả bạo lực. Nhưng Nga là uỷ viên thường trực của Hội đồng Bảo an, có quyền phủ quyết mọi vấn đề được đưa ra ở cơ quan này. Do đó, việc sử dụng cơ chế Hội đồng Bảo an để cưỡng chế thi hành phán quyết của ICJ ngày 16/3 là bất khả thi.

lhq4

Đại sứ Nga tại Liên Hợp Quốc

5. Tòa án Hình sự Quốc tế (International Criminal Court - ICC).

Toà án Hình sự quốc tế là một toà án quốc tế thường trực được thành lập nhằm điều tra, truy tố và xét xử các cá nhân bị buộc tội phạm những tội ác nghiêm trọng nhất mà cộng đồng quốc tế quan tâm, cụ thể là những tội ác diệt chủng, tội ác chống lại loài người, tội ác chiến tranh và tội ác xâm lược.

Khác với Toà án Công lý Quốc tế có thẩm quyền tài phán với các vụ việc tranh chấp giữa các quốc gia, Toà án Hình sự Quốc tế có thẩm quyền xét xử các cá nhân có liên quan đến những tội ác chống nhân loại như đã liệt kê. Toà án Hình sự Quốc tế cũng có trụ sở ở La Hay, Hà Lan.

Tiền thân của Toà án Hình sự Quốc tế là các toà án xét xử tội phạm chiến tranh trong thế chiến thứ hai, có thể kể đến là các toà án ở Nuremberg và Tokyo được thành lập để xét xử những kẻ đầu sỏ phát xít. Vào năm 1948, khi Công ước về Ngăn ngừa và Trừng phạt tội ác Diệt chủng (Convention on the Prevention and Punishment of the Crime of Genocide, được viết vắn tắt là Genocide Convention) được thông qua, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc công nhận sự cần thiết phải có một toà án quốc tế thường trực để giải quyết các hành động tàn bạo đã xảy ra.

Ý tưởng về một hệ thống tư pháp hình sự quốc tế lại được nổi lên sau chiến tranh lạnh. Tuy nhiên, trong khi các cuộc đàm phán về Quy chế ICC đang được tiến hành tại Liên Hợp Quốc, thế giới phải chứng kiến những tội ác kinh hoàng trong lãnh thổ của Nam Tư cũ và ở Rwanda. Để đáp lại những hành động vô nhân tính, Hội Đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã thành lập một toà án đặc biệt cho những tình huống này.

Vào 17/7/1998, một hội nghị gồm 160 quốc gia đã thành lập hiệp ước đầu tiên dựa trên toà án hình sự quốc tế thường trực. Hiệp ước được thông qua trong hội nghị đó được biết đến là Quy chế Rome của Toà án Hình sự Quốc tế. Hiệp ước đặt các tội phạm thuộc thẩm quyền của ICC, các quy tắc thủ tục và cơ chế để các quốc gia hợp tác với ICC. Những quốc gia đồng ý với các quy tắc này được gọi là các quốc gia thành viên và được đại diện tại Hội đồng các quốc gia thành viên.

Hội đồng quốc gia thành viên họp ít nhất một năm một lần, quy định những chính sách quản lý chung của toà án và xem xét các hoạt động của toà án. Trong những cuộc họp, các quốc gia thành viên xem lại các hoạt động của các nhóm công tác đã được thành lập bởi các quốc gia và bất kỳ vấn đề nào khác liên quan đến ICC, thảo luận những dự án mới và thông qua nhân sách hàng năm của ICC.

Căn cứ vào Quy chế Rome và hành động quân sự của Nga tại Ukraine, các cá nhân và chính quyền Liên Bang Nga đã phạm vào 2 tội được quy định trong Quy chế là tội ác xâm lược và tội ác chiến tranh (chi tiết tham khảo bài viết "Từ Chiến tranh Nga-Ukraine nhìn về thẩm quyền của Tòa án Hình sự Quốc tế" của trang Nghiên cứu quốc tế).

Putin, các quan chức và tướng lĩnh Nga chính là tội phạm xâm lược theo Khoản 1, Điều 8bis, Quy chế Rome 1998 về Toà án Hình sự Quốc tế: "Tội phạm xâm lược có nghĩa là lập kế hoạch, chuẩn bị, bắt đầu hoặc thực hiện, bởi một người ở một vị trí có thẩm quyền để thực hiện quyền kiểm soát hoặc chỉ đạo các hành động chính trị hoặc quân sự của một Quốc gia, hành động xâm lược mà xét theo đặc tính, mức độ nghiêm trọng và quy mô của nó, tạo thành một sự vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc”. Ngoài ra, hành vi xâm lược của Nga nhằm vào Ukraine đã vi phạm một số mục trong Khoản 2, Điều 8bis của Quy chế Rome 1998 về Tòa án hình sự quốc tế có định nghĩa lại hành vi xâm lược trên cơ sở định nghĩa của Nghị quyết 3314 ngày 14/12/1974 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.

Tiếp theo, căn cứ vào Khoản 2, Điều 8 Quy chế Rome 1998. Các hành vi của quân đội Nga đã thực hiện tại Ukraine đã cấu thành tội phạm chiến tranh, bao gồm các hành vi nhiều lần tấn công vào các mục tiêu phi quân sự như khu dân cư, chung cư cao tầng, bệnh viện, bệnh viện phụ sản, trường học, các khu chợ, nhà hát, viện bảo tàng...Đặc biệt, việc tìm thấy những hố chôn tập thể ở một số vùng trước đây bị quân Nga chiếm đóng mà nay đã rút đi như Bucha, hay Mariupol càng làm tăng thêm sự nghi ngờ về những hành vi phạm tội phạm chiến tranh mà Nga tiến hành ở Ukraine. Hiện tại, ngoài Cơ quan Công tố của Toà án Hình sự Quốc tế và các tổ chức quốc tế độc lập, một nhóm điều tra chung (JIT) do 6 quốc gia gồm Estonia, Slovakia, Latvia, Ba Lan, Litva, Ukraine dưới sự điều hành của Eurojust đang thu thập và tập trung bằng chứng để lập danh sách và truy tố các cá nhân trong quân đội Nga đã tham gia vào tội ác chiến tranh.

lhq5

Putin, các quan chức và tướng lĩnh Nga chính là tội phạm xâm lược theo Khoản 1, Điều 8bis, Quy chế Rome 1998 về Toà án Hình sự Quốc tế.

Toà án Hình sự Quốc tế là một định chế tư pháp bổ trợ hệ thống tư pháp các quốc gia thành viên. Khi toà án xét xử tội ác chiến tranh của một quốc gia "không thể" (do lo sợ những quy định tư pháp của bản thân quốc gia đó khác với những quy định tư pháp của nước có tội phạm đang bị xét xử, cũng có thể do năng lực chuyên môn của hệ thống tư pháp của quốc gia đó không đáp ứng được tiêu chuẩn) hoặc "không muốn" xét xử các tội thuộc 4 nhóm tội phạm theo Quy chế Rome thì ICC sẽ có thẩm quyền xét xử. Nhưng nếu quốc gia thành viên của Quy chế có khả năng vẫn được tiến hành phiên toà. Tuy nhiên, Ukraine (và cả Nga) không là thành viên của Quy chế Rome nên việc xét xử tội phạm chiến tranh sẽ theo hệ thống pháp luật của Ukraine, điển hình là vào tháng 5, toà án Ukraine đã tuyên án chung thân một chỉ huy xe tăng với tội danh giết chết một dân thường trong phiên toà đầu tiên xét xử tội ác chiến tranh kể từ khi Nga xâm lược Ukraine. Bởi vì hành vi phạm tội ác chiến tranh của quân đội Nga xảy ra tại Ukraine nên chỉ có những toà án của Ukraine và ICC mới có thẩm quyền xét xử vụ án còn toà án Nga thì không.

Nhưng việc xét xử những kẻ trực tiếp gây ra cuộc chiến Nga - Ukraine rất khó khăn vì: Thứ nhất là ICC đã được thành lập, việc thành lập các toà án tạm thời (ad-hoc) để giải quyết những vụ việc cụ thể không cần thiết và bất khả thi (điều kiện thành lập các toà án tạm thời này có một điểm chú ý trong lịch sử: các toà án tạm thời được lập ra để xét xử các tội phạm chiến tranh của các quốc gia bị cưỡng chế quân sự và chính quyền các quốc gia đó có những sự thay đổi trong giai đoạn chuyển giao, điển hình là Tòa án Nuremberg 1946 và Tòa án Tokyo 1946 vì hành vi phạm tội phạm chiến tranh, Tòa án Ruanda 1994 và Tòa án Nam Tư 1993 được lập ra để xét xử các tội phạm chiến tranh và tội diệt chủng). Thứ hai là Nga hiện đang là một thành viên của Hội đồng Bảo an, có quyền phủ quyết bất kỳ Nghị quyết nào của Hội đồng, bao gồm cả những Nghị quyết yêu cầu Hội đồng Bảo an hỗ trợ ICC trong việc tiến hành điều tra những hành vi có dấu hiệu phạm tội thuộc 4 loại tội ác được quy định trong Quy chế Rome. Thứ ba là Nga chưa phải là một thành viên của Quy chế Rome, rất có thể Nga sẽ không công nhận phán quyết của ICC như khi đã làm với ICJ, do đó việc truy cứu tội ác của các binh sĩ Nga sẽ khó thực hiện. Thứ tư là Ukraine - quốc gia là nơi đang xảy ra các hành vi có dấu hiệu phạm tội cũng chưa phải là một thành viên của Quy chế Rome nên ICC không có thẩm quyền đương nhiên đối với các hành vi của quân đội Nga thực hiện trên lãnh thổ Ukraine.

Thiên Cầm

(14/6/2022)

Tài liệu tham khảo:

Hiến chương Liên Hợp Quốc (Charter of the United Nations). Nguồn tham khảo: https://www.un.org/en/about-us/un-charter....

Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc (United Nations General Assembly). Nguồn tham khảo: https://www.un.org/en/ga/

Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (United Nations Security Council). Nguồn tham khảo: https://www.un.org/securitycouncil/ và https://www.uuworld.org/arti.../uu-nations-russia-2022-03-01

Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (United Nations Human Rights Council) và Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc (Office of High Commissioner for Human Rights) . Nguồn tham khảo: https://www.ohchr.org/en/hr-bodies/hrc/about-council và https://www.icj.org/.../12/HR-Council-Guide-Vietnamese.pdf.

Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice). Nguồn tham khảo: https://www.un.org/.../model.../international-court-justice và https://www.icj-cij.org/en/judges-tạm thời

Tóm tắt phán quyết sơ bộ của ICJ về chiến sự Nga - Ukraine. Nguồn tham khảo: https://www.europarl.europa.eu/.../EPRS_ATA(2022)729350...

Tòa án Hình sự Quốc tế (International Criminal Court - ICJ). Nguồn tham khảo: https://www.icc-cpi.int/.../Pub.../understanding-the-icc.pdf

Từ Chiến tranh Nga-Ukraine nhìn về thẩm quyền của Tòa án Hình sự Quốc tế. Nguồn tham khảo: https://nghiencuuquocte.org/.../tu-chien-tranh-nga.../