Đang có xu hướng hợp tác khu vực thay vì toàn cầu hóa trực tiếp, đặt Trung Quốc làm công xưởng thế giới như hiện nay. Ý kiến của các chuyên gia về những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI, chính quyền CSVN nên làm những gì để có thể cạnh tranh với những nước khác, đang rất tích cực mời gọi các doanh nghiệp nước ngoài nhằm tạo động lực tăng trưởng hậu Covid-19. Ảnh minh họa. Apple lần đầu tiên sẽ sản xuất hàng
triệu sản phẩm tai nghe không không dây AirPods tại Việt Nam trong quý
II năm 2020.
AFP.
Đề xuất lập tổ công tác đặc biệt
Trong một cuộc trao đổi với Zing.vn, đăng tải vào hôm 11/5, Tiến sĩ
Nguyễn Đình Cung, khẳng định rằng chắc chắn sẽ có một làn sóng dịch
chuyển vốn đầu tư và quan trọng nhất là Việt Nam cần phải định hướng thu
hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI để có thể chọn lọc được
dòng vốn chất lượng.
Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng, Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung
nhấn mạnh rằng trong bối cảnh đó, nếu Chính phủ lập một tổ công tác đặc
biệt, lấy thẩm quyền của Thủ tướng đi đàm phán với các tập đoàn, doanh
nghiệp có ý định dịch chuyển dây chuyền sản xuất thì Việt Nam sẽ chủ
động đặt ra những mục tiêu riêng thu hút vốn FDI như thế nào, cũng như
cần gì từ các nhà đầu tư.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung nói rằng “Phải hành động trong lúc này, đi
đón đầu, đi gặp gỡ để kéo được những dòng vốn mình cần về. Không thể
ngồi chờ vì nếu ngồi chờ thì các nước khác sẽ hớt hết những cái ngon
nhất. Những cái còn lại mới chạy đến Việt Nam.”
Cơ hội đầu tư FDI vào Việt Nam
Quỹ Tiền tệ Quốc tế-IMF, vào cuối tháng 4, công bố báo cáo Triển vọng
Kinh tế Thế giới 2020. Trong đó, IMF dự báo tăng trưởng GDP của Việt
Nam trong năm 2020 là 2,7% và năm 2021 là 7%. Với dự báo này, IMF xác
định Việt Nam là quốc gia có triển vọng tăng trưởng tốt nhất trong khối
ASEAN.
Nhà quan sát tình hình kinh tế thế giới, ông Nguyễn Gia Kiểng, cựu
Phụ tá Tổng trưởng Kinh tế của Việt Nam Cộng Hòa, từ Paris, Pháp vào
ngày 12/5 lên tiếng với RFA rằng ông đồng tình với đề xuất của Tiến sĩ
Nguyễn Đình Cung về lập tổ công tác đặc biệt để đàm phán thu hút FDI vào
Việt Nam.
Mặc dù vậy, ông Nguyễn Gia Kiểng cho rằng do tác động của đại dịch
COVID-19 trên toàn cầu nên dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam có thể bị ảnh
hưởng, khả quan nhất là bị chậm khỏang vài năm.
Ông Nguyễn Gia Kiểng phân tích nguyên nhân thứ nhất là do các tập
đoàn sản xuất, các nhà đầu tư Âu-Mỹ bị thiệt hại nặng, do đã không sản
xuất suốt hơn 2 tháng bởi dịch COVID-19 nên dòng vốn FDI dự định đầu tư
vào Việt Nam của các công ty đó gặp khó khăn và có thể bị hoãn lại. Ông
Nguyễn Gia Kiểng nói về nguyên nhân thứ hai:
“Trước đây, có khuynh hướng toàn cầu hóa một cách trực tiếp. Thế
nhưng gần đây ngay cả trước dịch COVID-19, có xu hướng cho rằng toàn cầu
hóa như vậy là không có lợi, mà trái lại toàn cầu hóa phải đi qua giai
đoạn gọi là hợp tác khu vực và dịch COVID-19 làm cho hợp tác khu vực trở
nên mạnh hơn trước. Có nghĩa là những công ty Âu Châu chủ yếu đầu tư ở
những nước công nhân rẻ, thí dụ như ở Đông Âu chẳng hạn. Còn ở Hoa Kỳ,
những công ty Mỹ có xu hướng dành cho Mexico chẳng hạn, đầu tư vào các
công ty ở chung quanh gần hơn.”
Tuy nhiên, ông Nguyễn Gia Kiểng vẫn có cái nhìn lạc quan về thị trường vốn FDI của Việt Nam trong một vài năm tới:
“Nhưng tôi đồng ý rằng Việt Nam dù có bị chậm lại trong vòng một vài
năm thì vẫn có một tương lai đầy triển vọng là sẽ có nhiều nguồn FDI tới
Việt Nam. Và như vậy, chắc chắn phải có một ủy ban để nghiên cứu cách
xử lý FDI, làm thế nào để tạo cho họ những điều kiện dễ nhất.”
Dự án gang thép Hưng Nghiệp Formosa, dự án FDI lớn
thứ nhì đầu tư vào Việt Nam gây ô nhiễm môi trường biển hồi tháng
04/16. AFP Thách thức nào cản trở nguồn vốn FDI?
Trong khi đó, Tiến sĩ Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế ở Việt Nam, lại khẳng định với RFA rằng:
“Theo quan điểm cá nhân tôi thì trong bối cảnh hiện nay phải tạo được
môi trường kinh doanh thật tốt, lành mạnh và kiểm soát tốt dịch bệnh
thì đấy là nhân tố, điều kiện quan trọng để thu hút vốn đầu tư vào. Còn
dù có thành lập tổ đặc biệt đi chăng nữa mà môi trường đầu tư kinh doanh
không tốt thì cũng chẳng thu hút được ai cả. Đồng thời, khi chưa kiểm
soát được dịch bệnh thật tốt thì cũng chưa ai vào đầu tư.”
Hồi hạ tuần tháng 2, Viện trưởng Viện nghiên cứu Phát triển thành phố
Hồ Chí Minh-Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân, trong cuộc phỏng vấn với Báo mạng
Trí Thức Trẻ, đã rất lạc quan nói rằng Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đánh
giá rất cao khả năng ứng phó với bệnh dịch của Việt Nam. Điều này mang
lại niềm tin rất lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài đến làm ăn, kinh
doanh tại Việt Nam.
Một thông tin trong đầu tháng 5 cho thấy tín hiệu tích cực tại thị
trường đầu tư FDI Việt Nam, qua bản tin của tờ Nikkei Asian Review loan
đi cho biết tập đoàn Apple lần đầu tiên sẽ sản xuất hàng triệu sản phẩm
tai nghe không không dây AirPods tại Việt Nam trong quý II năm nay. Việc
sản xuất này được nói là dấu hiệu đa dạng hóa thị trường sản xuất của
Apple vượt ra ngoài Trung Quốc trong bối cảnh đại dịch COVID-19.
Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, ông Đỗ Nhất Hoàng, vào ngày 11/5
được Zing.vn dẫn lời rằng “Đây là một cơ hội tốt cho Việt Nam với hy
vọng đón dòng vốn dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc”. Tuy nhiên,
Việt Nam hiện còn nhiều trở ngại chưa đáp ứng được yêu cầu của các công
ty FDI như thiếu điện, thiếu nhân lực và công nghiệp phụ trợ cũng như
trở ngại về chi phí kho vận, đặc biệt là chi phí vận tải đường bộ quá
cao.
Tiến sĩ Ngô Trí Long ghi nhận về tình hình tực tế trong thu hút FDI tại Việt Nam:
“Nói chung thế này, nguồn lực ở trong quyết định mặc dù nguồn lực bên
ngoài hết sức là quan trọng. Trong điều kiện đặc biệt về nguồn lực của
Việt Nam có nhu cầu rất lớn. Thứ nhất thu hút vốn đầu tư không những thu
hút về tài chính mà về mặt công nghệ, về mặt kỹ thuật, về mặt kinh
nghiệm. Tất nhiên muốn thu hút thì phải đầy đủ về những điều kiện đó.
Thế thì phương hướng được đưa ra rất chuẩn, nhưng việc thực thi được
triển khai hoàn toàn rất chậm và khó khăn. Phải nói thẳng như vậy! Cho
nên bị ảnh hưởng rất lớn. Vì thế, đối với tất cả chủ trương, chính sách
của Nhà nước Việt Nam có gì sai đâu. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện
thì khâu kiểm tra chế độ thực hiện còn nhều vấn đề phải xem xét.” Trong một dịp trao đổi qua ứng dụng mesenger về những rào cản thu hút
FDI tại Việt Nam, Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Huy Vũ, ở Na-Uy từng đưa ra 4
nguyên nhân chính bao gồm: "- Hạ tầng còn yếu kém. Mạng viễn thông đắt đỏ. Hệ thống truyền Internet tốc độ chậm. Hệ thống cầu cảng, bốc dỡ còn chậm.
- Thiếu mạng lưới các công ty cung cấp linh kiện, bộ phận đủ chất lượng. -Việt Nam thiếu lực lượng nhân lực có tay nghề và thạo tiếng Anh để
có thể nhanh chóng cập nhật các công nghệ mới. Thiếu cả các quản lý bậc
trung và cao cấp có kinh nghiệm quốc tế. - Tình trạng tham nhũng lan tràn, hệ thống hành chính nhiêu khê và
không rõ ràng. Điều này làm nản lòng những nhà đầu tư ở Âu Mỹ, nhất là
khi mà luật pháp nước sở tại của họ cấm đút lót, hối lộ.”
Tiến sĩ kinh tế Vũ Quang Việt, từng làm việc tại Cục Thống kê-Liên
Hiệp Quốc lưu ý rằng Chính phủ Hà Nội phải rất thận trọng trong việc
tính toán, cân nhắc về lợi ích và thiệt hại đối với Việt Nam như thế nào
qua nỗ lực thu hút FDI. Tiến sĩ Vũ Quang Việt trưng dẫn Tập đoàn
Samsung là nhà đầu tư FDI hàng đầu tại Việt Nam, thế nhưng kết quả:
“Phần Việt Nam có được là chỉ trong GDP, là phần trả lương cho
công nhân của Việt Nam. Còn phần tiền lương rất cao trả cho chuyên gia
của Nam Hàn thì sau đó chuyển ra nước ngoài và lợi nhuận của Samsung
chuyển về nước ngoài. Tôi tính sơ lược là số tiền Samsung chuyển ra nước
ngoài hàng năm lớn hơn số tiền đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam hằng
năm.”
Tiến sĩ Vũ Quang Việt cũng từng cảnh báo rằng nếu như Việt Nam cố
gắng lôi kéo các tập đoàn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, mà những tập
đoàn đó chỉ hưởng lợi nhiều và chia chác cho quan chức thì Việt Nam sớm
muộn gì cũng trở thành bãi rác công nghệ của thế giới.
Dự án Gang thép Hưng nghiệp Formosa, một dự án FDI lớn thứ nhì đầu tư
vào Việt Nam gây ô nhiễm môi trường biển hồi tháng 4 năm 2016, có thể
xem như là một trường hợp điển hình.
Báo mạng Zing.vn đăng tải một bài viết của Tiến sĩ Hồ Quốc Tuấn,
giảng viên Đại học Bristol, Anh có tựa đề “Điểm sáng Việt Nam và cơ hội
không nên bỏ lỡ”. Tiến sĩ Hồ Quốc Tuấn nhận định rằng để không lỡ mất cơ
hội trong bối cảnh hiện tại, Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng
và rà soát lại các điều kiện kinh doanh, quy định lạc hậu để đẩy nhanh
cải cách, thể hiện cho nhà đầu tư nước ngoài thấy Việt Nam không chỉ là
điểm đến an toàn mà còn đang chuyển mình cải cách rất nhanh.