Những Khái niệm Cơ bản và Chiến lược về Đấu tranh Bất bạo động (Chương 3) (Robert L. Helvey)
Phong trào tranh đấu cần phải thức tỉnh
nhân dân và giải thích tại sao họ cần phải quan tâm về thời cuộc vì nếu
không thì họ và con cháu của họ sẽ phải làm nô lệ cho độc tài suốt đời.
Chương 3: Sự Tuân phục Chế độ Độc tài của Quần chúng
Bằng cách nào một lãnh tụ hay một nhóm độc tài có thể khuất phục và cai trị hàng chục triệu người?
Nói cách khác: tại sao hàng chục triệu dân dù không thích vẫn để cho một nhóm cai trị họ?
Chương này sẽ phân tích thái độ tuân phục của người dân trong một chế
độ độc tài và cho thấy nó xuất phát từ thói quen, sợ hãi và tư lợi.
Nếu không có sự tuân phục này, chế độ độc tài không thể nào tồn tại.
1. Thói quen/quán tính
Con người từ bé đã được dạy thói phục tòng cha mẹ thầy cô nên đã quen
chấp nhận thẩm quyền quyết định của những ai mà họ xem là có quyền uy,
dù chỉ là một biểu tượng.
Trong một chế độ độc tài, thói tuân
phục được dạy dổ cho con dân từ tấm bé với các tổ chức hội đoàn với cấu
trúc có thủ trưởng và thành viên. Sự phân biệt giữa hai giai cấp thống
trị và bị trị được mặc định là bình thường và cần thiết cho trật tự xã
hội.
Cũng như trong quân ngũ, con dân của một chế độ độc tài được luyện tập để tuân phục mệnh lệnh của lãnh đạo một cách phản xạ.
Thói quen này chỉ bớt khi người dân có nhận thức và quyết định một cách mạnh mẽ là họ sẽ không tuân phục độc tài nữa.
2. Sợ bị trù dập
Một nhà nước độc tài công an trị có thể dùng nhiều biện pháp để trừng
trị những ai không tuân phục họ. Vì không bị kềm chế bởi ‘tam quyền phân
lập’, nhà nước độc tài có thể tận dụng lực lượng công an hùng hậu, luật
pháp tuỳ tiện và cơ chế hành chánh phân biệt đối xử để trừng trị bất cứ
ai chống lại chế độ hay chỉ vì họ nói lên sự thật hay lời kêu gọi của
lương tâm. Sự trừng phạt này có thể là sa thải, uy hiếp, đánh giết, tước
đoạt quyền tự do, tù đày và cô lập hoá (bằng thủ đoạn hành chánh hoặc
đe doạ những người chung quanh). Nhà nước độc tài cũng hay dùng biện
pháp trù dập ai đó để làm gương răn đe nhiều người khác.
3. Ích kỷ
Vì lợi ích và sinh tồn của cá nhân, con dân của một nhà nước độc tài có
thể tiếp tục phục vụ đắc lực trong guồng máy độc tài dù họ biết là nó
xấu xa.
Chế độ độc tài cũng biết cách ban ân huệ cho những ai
trung thành với họ. Với những nước độc đảng lãnh đạo thì tư cách đảng
viên là cách duy nhất để chóng thăng quan tiến chức. ‘Sổ hưu’ cũng là
một sợi dây lệ thuộc để trói cán bộ công chức vào guồng máy độc tài.
Với đông đảo dân chúng thì khộng bị công an sách nhiễu đã là một ân huệ.
Bộ máy nhà nước luôn tuyên truyền về cái gọi là “công ơn” của đảng cầm
quyền để dân chúng có cái mặc cảm là họ phải hàm ơn tất cả những gì tốt
đẹp hay ít nhất là không xấu trong cuộc sống của họ, và nếu không có chế
độ độc tài thì số phận của họ sẽ xấu hơn.
Phong trào tranh đấu
không nên lên án tất cả những ai phục vụ chế độ vì miếng cơm manh áo.
Thử thách của phong trào tranh đấu là làm sao để người dân nhận thức
được rằng trong trường kỳ, thân phận của họ và con cháu họ sẽ khá hơn
trong một thể chế dân chủ tự do và công bằng.
4. Ràng buộc đạo đức
Một nhà nước độc tài biết là họ không thể dựa vào một chủ nghĩa để buộc
dân chúng phải tuân phục nên họ dùng bình phong là những giá trị truyền
thống cao cả để biện minh cho tư cách cầm quyền của họ - tỉ như tự ban
cho cho họ hào quang của các khái niệm “chống ngoại xâm”, “giải phóng
đất nước”, “anh minh vĩ đại”, “đỉnh cao trí tuệ”, và khuyến khích nhân
dân nên có “tinh thần tập thể”, “uống nước nhớ nguồn”, v.v…
Trong
thập niên gần đây, việc ĐCSTQ thành lập nhiều Viện Khổng Tử ở nước
ngoài cũng là một trong những ‘sáng kiến’ nhằm đánh đồng quyền lực thống
trị của ĐCS với nền đạo đức truyền thống.
Thói ‘bầy đàn’ đóng một vai trò quan trọng trong sự ràng buộc của tập thể này.
5. Thần thánh hoá lãnh tụ
Các chế độ độc tài đều dựng nên hình ảnh của một lãnh tụ toàn năng. Họ
dùng đủ cách thổi phồng, nguỵ tạo và thần thoại hoá nhân cách của lãnh
tụ. Khi lãnh tụ của họ chết, họ hay ướp xác để người dân luôn có một sự
nhắc nhở.
Về mặt này, độc tài CS rất giống những triều đại vua
chúa vốn xem sự thống trị của mình là một thần quyền đã được Tạo hoá an
bài.
Cách duy nhất để hoá giải tâm lý lạc hậu này là phơi bày sự thật để vô hiệu hoá sự tuyên truyền của nhà nước.
6. Tâm lý bầy đàn ‘về phe’ với kẻ thống trị
Con người thường thích đứng về phe mạnh hay phe thắng cuộc. Với những
dân tộc vừa trải qua chiến tranh, sự kết nối và đồng cảm với bên thắng
cuộc là lẽ thường.
Phong trào tranh đấu cần phải thuyết phục dân
chúng rằng cái gọi là “công lao cách mạng” và “giải phóng đất nước” của
chế độ chỉ là những chiêu bài để họ thống trị và cai trị.
7. Vô cảm/Thụ động
Sự bất lực của người dân trong một chế độ toàn trị khiến cho người dân
mất tự tin và không cho rằng họ có chút quyền lực hay quyền lợi nào cả.
Họ biện minh cho thái độ thụ động của họ bằng nhiều cách và muốn thấy ai
cũng thụ động như họ.
Phong trào tranh đấu cần phải thức tỉnh
nhân dân và giải thích tại sao họ cần phải quan tâm về thời cuộc vì nếu
không thì họ và con cháu của họ sẽ phải làm nô lệ cho độc tài suốt đời.
8. Thiếu tự tin
Nền giáo dục ngu dân và mị dân của chế độ độc tài làm cho dân chúng mất
tính độc lập, tự tin và tự chủ. Với họ, việc thử thách vai trò thống
trị của đảng thống trị là chuyện không tưởng. Sự thụ động của họ đến từ
một hỗn hợp của tin phục và sợ hãi.
Phong trào tranh đấu cần phải
phục hồi sự tự tin của nhân dân, giúp họ tin rằng họ có đủ thẩm quyền
và trí năng để phán xét lãnh đạo cũng như đảng thống trị.
The Albert Einstein Institution
http://www.aeinstein.org/wp-content/uploads/2013/09/OSNC.pdf
(Trần Hạnh diễn dịch và tóm tắt)
http://www.aeinstein.org/wp-content/uploads/2013/09/OSNC.pdf
(Trần Hạnh diễn dịch và tóm tắt)
FB Nga Thi Bich Nguyen