Phan Châu Trinh - ánh đuốc duy tân xuyên thế kỷ. (Đoàn Xuân Kiên-Thông Luận)
Suốt
 đời, cụ Phan cho rằng quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận là tiền 
đề để thực hiện các quyền tự do căn bản khác của người dân. Ta biết rằng
 khi về nước diễn thuyết về "Đạo đức và luân lý Đông Tây", cụ có 
nói thế này : "…chí như đời bây giờ được tự do ngôn luận, được tự do 
xuất bản, được tự do diễn thuyết thì những người ra lo việc nước, việc 
đời bên họ biết là bao nhiêu." 
Những 
năm đầu thế kỉ XX báo hiệu một bước ngoặt lớn của lịch sử nước nhà về 
mọi mặt : chính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội do tác động trực tiếp và 
sâu bền của công cuộc duy tân mà cụ Phan và các bạn đồng chí hướng cùng 
gây thành một phong trào quần chúng sâu rộng.
 Phong 
trào duy tân dấy lên sôi động trong một thời gian ngắn, từ năm 1905 đến 
1908. Dù nhìn từ những góc độ nào, các nhà bình luận đều công nhận cụ 
Phan là lãnh tụ tiên phong của phong trào duy tân Việt Nam (chẳng hạn, ý
 kiến của học giả Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Xuân) (1). Từ ngày cụ Phan 
qua đời đến nay đã 88 năm rồi mà xem chừng hậu thế vẫn chưa khép lại 
những lời cái quan định luận. Bao nhiêu giấy mực xem ra vẫn chưa đủ nói 
về một con người đã nằm xuống, bao nhiêu lời tranh luận phát xuất từ 
nhiều góc nhìn xem chừng vẫn chưa ngã ngũ. Các nhà bình luận có thể đồng
 ý với nhau đến chừng mức như vậy, sau đó thì các ý kiến có vẻ phân tán :
 người thì bảo rằng chủ trương của cụ Phan là không tưởng (Phạm Văn Sơn)
 (2), người thì cho rằng cụ Phan đã thất bại trong việc lãnh đạo phong 
trào duy tân đến đích sau cùng của nó là làm thay đổi đất nước sang bước
 ngoặt mới (Huỳnh Lý)(2).  
Xã
 hội Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX đã chứng kiến một cuộc khủng 
hoảng về mọi mặt : (a) về mặt chính trị, đất nước dần mất chủ quyền vào 
tay thực dân Pháp. Công cuộc cần vương và văn thân đã bị đàn áp và tiêu 
trầm ; (b) về mặt kinh tế thì thực dân Pháp bắt đầu khống chế và khai 
thác thuộc địa ; (c) về mặt văn hoá, Nho học bị mất dần vai trò ý thức 
hệ chủ đạo. Chính trong thời gian này, làn sóng "tân thư" từ Trung Hoa 
tràn qua đã góp phần thức tỉnh một số nhà nho có ý thức cấp tiến. Kết 
quả là tại kinh đô Huế những năm ấy đã chuyền tay nhau bản luận văn "Thiên hạ đại thế luận"
 do nhà nho Nguyễn Lộ Trạch biên soạn. Năm 1903, khi vào kinh nhận chức 
quan thừa biện bộ Lễ tại Huế, cụ Phan đã sớm được đọc và tâm đắc với 
những luận điểm mới mẻ của thiên đại luận này. Những tư tưởng mới do tân
 thư đem lại đã sớm đưa cụ Phan và những nhà nho cấp tiến cùng thế hệ 
dứt khoát từ bỏ quan trường của chế độ phong kiến đương thời và đề xướng
 con đường duy tân mà các cụ tin tưởng sẽ đem lại tương lai mới cho đất 
nước. 
Thế
 là cụ Phan và hai người bạn đồng chí hướng là hai ông nghè Huỳnh Thúc 
Kháng và Trần Quý Cáp lên đường hô hào duy tân. Cơ duyên đầu tiên để 
phát động phong trào là tại trường thi khảo hạch Bình Định. Ba nhà trí 
thức trẻ học vấn uyên thâm đã làm kinh động quan khảo hạch cùng sĩ tử 
trong trường thi khi được nghe đọc quyển văn gồm có bài thơ "Chí thành 
thông thánh" và bài phú "Danh sơn lương ngọc" do chính ba nhà khoa bảng 
trẻ giả dạng làm một nho sinh vào trường khảo hạch. Quyển văn của ba vị 
khoa bảng thác danh là Đào Mộng Giác này đã công khai hô hào cảnh
 tỉnh học trò sĩ tử còn mê muội với từ chương thi phú, ham công danh 
quên đất nước đang chìm trong vòng nô lệ. Khi chính quyền địa phương 
truy lùng tác giả các bài trên thì các cụ đã rời trường thi mà tới Nha 
Trang trong nỗ lực tổ chức những hoạt động duy tân. 
Sau
 chuyến nam du ấy, các cụ Phan, Huỳnh và Trần đã liên lạc với một số nhà
 nho trẻ và tiến bộ tại các nơi ba vị qua, nhằm mục đích thành lập các 
cơ sở doanh nghiệp, mở trường học chú trọng thực nghiệp, và tổ chức các 
nền nếp sinh hoạt theo tinh thần mới. Cơ sở nước mắm Liên Thành ra đời 
tại Phan Thiết, hàng loạt các cơ sở làm kinh tế hợp tác ra đời tại Quảng
 Nam : các thương hội, dệt các thứ vải dày có thể may âu phục. Cụ Phan 
đích thân làm gương cắt may, mặc bộ đồ tây bằng vải nội, hàng vải tơ lụa
 nội hóa được cải tiến. Lúc đó, làng Bảo An (Ðiện Bàn) nổi tiếng dệt 
đẹp, có thể cạnh tranh với tơ lụa Trung Hoa. Lần lượt các nông hội phát 
triển tại Yến Nê (Ðiện Bàn) rộng chừng 20 mẫu, trồng khoai, sắn, bắp, 
cho trồng cây dương liễu để cản gió theo hai bên bờ sông. Mỹ Sơn (Duy 
Xuyên) rộng khoảng 40 mẫu trồng hoa màu và cấy lúa, Bửu Sơn (Ðại Lộc) 
khai phá nông trường để trồng lúa.
Các
 thương hội lần lượt được tổ chức có phương pháp đã đạt những thành quả 
tốt, như thương hội Phong Thử (Ðiện Bàn) do Phan Thúc Duyên trông coi, 
địa điểm thuận lợi cho việc giao thông bằng đường thủy ghe lớn có thể 
cập bến được, tấp nập người đến buôn bán. Hội An thương cuộc do ông bang
 Kỳ Lam phụ trách bán đủ loại sĩ và lẻ các mặt hàng vải, gạo, đường, 
quế. Đặc biệt là các cơ sở thương nghiệp này cũng làm ăn theo cung cách 
mới : trên các món hàng bày bán đều có định giá rõ ràng, người bán hàng 
lịch sự tiếp khách… Phong trào duy tân tại Quảng Nam những năm ấy đã xây
 dựng được một cơ sở điển hình làm ngọn cờ đầu tại Phú Lâm (Tiên Phước) 
do Lê Cơ (1870-1918) tổ chức chương trình khuyến kích công thương 
nghiệp, chỉnh đốn cơ sở chính quyền, cơ sở giáo dục và sinh hoạt xã hội 
theo hướng duy tân. 
Những
 thành tựu đầu tiên tại Quảng Nam đã từ từ ảnh hưởng đến thay đổi sinh 
hoạt khắp nơi. Tại Nghệ An lúc ấy cũng đã hình thành cơ sở duy tân với 
những thương hội do các nhà nho cấp tiến như ông nghè Ngô Đức Kế dẫn 
đầu. Các nhà nho tiến bộ tại Hà Nội đứng ra khuếch trương thương nghiệp 
là ông Ðỗ Chân Thiết mở hiệu Ðồng Lợi Tế ở phố Mã Mây, mở tiệm thuốc Bắc
 Tụy Phương ở phố Hàng Cỏ, Hoàng Tăng Bí mở hiệu Ðông Thành Xương ở Hàng
 Gai. Tại Sài Gòn có Minh Tân Khách Sạn của ông Phủ Chiếu.
Ngoài
 các cơ sở nông hội và thương nghiệp, phong trào duy tân còn là cuộc 
cách mạng lớn trên mọi lãnh vực đầu thế kỉ 20. Các trường dạy thêm 
chương trình chữ quốc ngữ lan rộng trên khắp nẻo đường đất nước. Cao 
điểm của hoạt động văn hóa giáo dục duy tân là việc mở trường Đông Kinh 
Nghĩa Thục tại Hà Nội năm 1907. 
Sau
 chuyến bắc du ra Nghệ An và Hà Nội, cụ Phan đã sang Nhật qua đường dây 
Đông du để đích thân điều nghiên tình hình công cuộc Đông du cầu ngoại 
viện của cụ Phan Bội Châu. Từ chuyến Nhật du trở về, cụ Phan đã gửi một 
bức thư dài đề ngày 01/10/1906, gửi Toàn quyền Beau, nội dung phê phán 
đường lối cai trị cùa nhà đương cục. Cụ Phan nêu ra ba nguyên nhân dẫn 
đến tình cảnh bi đát của nước nhà buổi ấy, ấy là : (a) chính phủ Bảo hộ 
dung túng quan lại Việt Nam thành ra cái tệ "cô tức" ; (b) chính phủ 
khinh rẻ dân Việt Nam thành ra cái tệ xa cách ; (c) các quan lại Việt 
Nam nhận ra cái tệ xa cách ấy mà thành ra cái tệ hà hiếp dân. Bức thư 
này thường được sách vở gọi là "Đầu Pháp chính phủ thư", đưa ra 
một số đề nghị cải cách lề lối cai trị theo hướng khai hóa dân trí, mở 
mang giáo dục và chấn chỉnh chế độ quan lại. Bức thư này có thể xem là 
mở đầu cho hàng loạt nỗ lực nêu cao chủ trương "khai dân trí, chấn dân 
khí, hậu dân sinh" mà cụ Phan bền bỉ theo đuổi suốt đời. Bức thư năm 
1906 của cụ Phan sau đó cũng được chuyền tay khắp nơi, đã gây chấn động 
trong công chúng cũng như giới quan lại.
Chỉ
 trong một thời gian ngắn, ba năm (1905-1907), các cơ sở công thương và 
nông nghiệp, trường học đã dấy lên làn sóng duy tân cao độ, khiến nhà 
nước bảo hộ lo ngại. Khi phát khởi phong trào nông dân biểu tình kháng 
thuế tại Trung kì năm 1908, nhà nước bảo hộ đã nhân cơ hội này ra tay 
trấn áp dữ dội, bắt bớ các nhà nho bị xếp vào sổ đen những người cầm đầu
 phong trào dân chúng có hành vi bạo động phản kháng chính quyền bảo hộ 
qua cuộc biểu tình rầm rộ mà sử sách gọi là cuộc "Trung Kì Dân Biến". Cụ
 Phan và hàng loạt các nhà nho lãnh đạo phong trào duy tân mới dấy khởi 
lần lượt bị bắt bớ, và xử án rất nặng, hoặc là đày ra Côn Đảo (cụ Phan 
và rất đông các vị lãnh đạo phong trào tại khắp nơi), hoặc bị xử chém 
(cụ nghè Trần Quý Cáp, Trần Thuyết, Ông Ích Đường...). Sau đợt bắt bớ tù
 đày đó là cuộc khủng bố toàn diện nhằm mục đích xóa bỏ mọi dấu vết của 
phong trào duy tân vừa phát khởi và còn non trẻ.
Dầu
 vậy, ngọn lửa duy tân không hề tắt. Do kết quả của các vận động trong 
công luận Pháp thông qua các nhà trí thức hoạt động trong Hội Nhân Quyền
 Pháp, cụ Phan và các vị lãnh đạo phong trào duy tân lần lượt được trở 
về đất liền. Cụ Phan đã chọn con đường sang Pháp đấu tranh tại chính xứ 
sở của cuộc cách mạng dân quyền. Từ đây cụ Phan bắt đầu những ngày tháng
 hoạt động duy tân tại đất Pháp. 
Ngay
 từ những buổi đầu tại Paris, cụ Phan liên kết được với một số nhà trì 
thức Việt Pháp để cùng hoạt động. Cụ Phan cùng Phan Văn Trường trở thành
 cột trụ của phong trào Việt Kiều tại Pháp trong buổi đầu. Hai vị soạn 
các bản điều trần gởi cho chính phủ Pháp, nêu rõ tình cảnh Việt Nam dưới
 chế độ bảo hộ Pháp : không có tự do, bị bắt bớ tù đày... Cụ Phan soạn "Trung Kỳ Dân Biến Thỉ Mạt Kí",
 Jules Roux dịch sang Pháp văn để đệ trình chính phủ Pháp nhằm kêu oan 
cho Trần Quý Cáp và nỗi oan ức của người Việt bị trấn áp sau đợt dân 
chúng biểu tình xin giảm sưu thuế tại Trung kì, gửi thư phản đối chính 
sách bảo hộ tại Việt Nam. 
Trong
 14 năm hoạt động tại Pháp, cụ Phan không ngừng vận động trong giới kiều
 bào tại Pháp cùng dư luận bản xứ trong nỗ lực vận động duy tân cho nước
 nhà. Cụ Phan cùng các bạn Việt Pháp dùng phương tiện báo chí, diễn 
thuyết để hoạt động liên tục trong thời gian này. Lần lượt, cụ Phan và 
nhóm bạn kiều bào trong Hội đồng bào thân ái tại Paris đã liên tục có 
những hoạt động theo chủ trương duy tân. Năm 1913, cụ viết báo phản đối 
việc làm thiếu đạo đức của Khâm sứ Mahé trong việc đào lăng vua Tự Ðức 
tìm vàng, đi diễn thuyết trong tập thể kiều bào, kêu gọi lòng yêu nước 
hướng về quê hương và thường tiếp xúc với người Pháp có lòng nhân đạo 
bác ái, bày tỏ nguyện vọng của mình và chỉ trích chính sách cai trị tàn 
ác của Pháp ở Ðông Dương...
Năm
 1919, Cụ Phan và luật sư Phan Văn Trường đưa ra bản yêu sách 8 điểm gửi
 Hội nghị Versailles năm 1919 mà yêu sách thứ 3 có liên quan đến quyền 
tự do báo chí và tự do tư tưởng. 
Suốt
 đời, cụ Phan cho rằng quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận là tiền 
đề để thực hiện các quyền tự do căn bản khác của người dân. Ta biết rằng
 khi về nước diễn thuyết về "Đạo đức và luân lý Đông Tây", cụ có 
nói thế này : "…chí như đời bây giờ được tự do ngôn luận, được tự do 
xuất bản, được tự do diễn thuyết thì những người ra lo việc nước, việc 
đời bên họ biết là bao nhiêu." 
Một
 chi tiết khác dưới đây cũng cho thấy thêm niềm xác tín của cụ Phan về 
quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng : khoảng những năm 1922-1923, cụ 
Phan và một bạn Việt kiều tên là Trần Lê Luật có ý định thành lập một 
"diễn đàn" của người Việt tại Paris. Bản kế hoạch lập "Việt kiều diễn 
đàn" cho rằng : "Diễn thuyết không bằng cách ‘định luận’, nghĩa là 
lời diễn thuyết dù phải dù chẳng (phải) không ai được cãi lại, nhưng 
dùng cách ‘nghịch luận’ để ai nấy được tự do biện luận cho xác lẽ phải 
chăng". Điều này cho thấy cụ Phan đã đi sớm trước thời đại mình và 
xây dựng một quan niệm về đa nguyên tư tưởng rất phù hợp với phương pháp
 tư duy khoa học hiện đại. 
Nhân
 chuyến du hành của vua Khải Định sang Pháp dự cuộc đấu xảo tại 
Marseilles năm 1922, cụ Phan biện soạn một bức thư dài mà về sau được 
gọi là "Thư thất điều", gửi cho vua, trong đó cụ hài ra bảy tội lớn của ông vua bù nhìn này : (1) tôn quân quyền, (2) thưởng phạt không công bình, (3) chuộng
 sự quỳ lạy, (4) xa xỉ vô đạo, (5) phục sức không đúng phép, (6) du hạnh
 vô độ, (7) sự ám muội trong việc Pháp du. Kết thư, cụ Phan cho rằng 
không những vua xứng đáng bị phế truất mà chính cái chế độ "quân
 chủ hiện tại phải truất, mà xét đến nguồn gốc nguyên nhân sâu xa, thời 
quân chủ các thời đã qua cũng không tránh khỏi búa rìu công luận của 
quốc dân vậy".
Bức
 thư dài này sẽ hô ứng rất nhịp nhàng với những luận đề chính mà cụ Phan
 nêu ra trong hai bài diễn thuyết tại Sài Gòn năm 1925, khi cụ về tới 
Sài Gòn : "Đạo đức và luân lý Đông Tây" và "Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa".
Trong
 những công trình biên soạn thời gian 14 năm tại Pháp và thời gian về 
tại Sài Gòn, cụ Phan đã lần lượt đưa ra những nét lớn về quan niệm đầy 
đủ của mình về công cuộc duy tân đất nước toàn diện và triệt để. Công 
cuộc ấy vẫn thuỷ chung như nhất với chủ trương ban đầu từ những năm xưa,
 khi vừa dấy khởi phong trào duy tân : "khai dân trí, chấn dân khí, hậu 
dân sinh".
Thật
 vậy, nếu trong những năm đầu khi mới phát động duy tân ở quê nhà, cụ 
Phan chỉ mới kịp đưa ra những tuyên cáo cùng quốc dân về những tệ trạng 
của đất nước trong chế độ bảo hộ thuộc địa Pháp, và hô hào duy tân cải 
cách để phế bỏ nguyên do đầu tiên và cuối cùng của tệ trạng ấy (là văn 
hóa ngu dân nấp dưới vỏ Nho học suy đồi, chế độ quan trường hủ lậu), thì
 trong thời gian 14 năm tại Pháp, cụ Phan đã có nhiều dịp khai triển rõ 
thêm những quan niệm chủ trương lớn, làm nên một cương lĩnh chính trị mà
 cụ theo đuổi cho đến cuối đời. Bàng bạc trong một loạt các công trình 
biên soạn trong thời gian này, gồm có "Tỉnh quốc hồn ca" (bài 2), Yêu sách 8 điểm gửi hội nghị Versailles, "Thư thất điều", "Pháp Việt liên hợp hậu chi Tân Việt Nam", "Đông dương chính trị luận", "Đạo đức và luân lý Đông Tây" và "Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa",
 có thể nói cụ Phan đã đề ra những chủ trương lớn cho một khung chính 
trị tương lai cho một nước Việt Nam thời duy tân. Trong một nỗ lực nhận 
diện bước đầu, một nhà hoạt động dân quyền thời hiện đại đã nêu lên những nét chính của cương lĩnh chính trị duy tân này (3). Đáng
 chú ý là những nét lớn về một cương lĩnh chính trị như kể trên, đặt vào
 thời điểm những thập niên đầu thế kỉ XX, khi mà cả nước đang chìm đắm 
trong màn đêm phong kiến & thuộc địa, có thể nhận ra tính chất cách 
mạng của chủ trương chính trị duy tân do cụ Phan đề ra. Rồi đây, khi cụ 
Phan qua đời, những trí thức trẻ về sau như Nguyễn An Ninh và Phan 
Khôi... tiếp tục cổ vũ trên các diễn đàn báo chí trong Nam do các vị này
 bỉnh bút.
Chúng
 ta cũng lại biết rằng, bánh xe lịch sử đã ngăn trở việc thực hiện rốt 
ráo những chủ trương chính trị duy tân. Khi đất nước giành lại được độc 
lập từ tay Pháp, năm 1945, nhà nước dân chủ cộng hoà đã thiết lập một 
chế độ chính trị khác với giấc mơ duy tân Việt Nam mà cụ Phan và các bạn
 đồng chí đề ra từ những năm đầu thế kỉ.
Theo
 quan điểm của nhà nước dân chủ nhân dân tại miền Bắc trong giai đoạn 
1945 trở về sau, quan điểm duy tân của cụ Phan và các nhà nho cấp tiến 
đầu thế kỉ XX bị xem là chủ trương chính trị ảo tưởng (vì muốn đòi được 
tự trị trong tay thực dân Pháp), cải lương nửa vời theo chủ nghĩa dân 
chủ tư sản dân quyền Pháp trong khi thời đại đã tiến qua kỉ nguyên dân 
chủ vô sản (4). Tại miền Nam, trong thời kì chia cắt 1954-1975 cũng có 
những nhà phê bình cho rằng chủ trương chính trị của cụ Phan là không 
tưởng (2). 
Tuy nhiên, lí luận dù được mệnh danh là khoa học đến đâu thì cũng không qua được thực tiễn cuộc sống. Kể
 từ khi phong trào duy tân dấy khởi đến nay đã hơm 100 năm, đất nước 
chúng ta đã trải qua bao nhiêu biến chuyển. Các chế độ cộng hoà nối tiếp
 nhau trên đất nước ta từ 1945 đến nay không những đã không tạo lập được
 những chế độ xã hội theo ước nguyện của thế hệ những nhà nho duy tân, 
mà ngược lại, có thể nói không ngoa rằng cho đến ngày nay, đất nước 
chúng ta vẫn nguyên vẹn là một xã hội chìm đắm trong đêm trước của một 
cuộc duy tân đúng nghĩa. 
Nói
 như nhà văn Nguyên Ngọc khi dẫn lại một nhận định của một nhà sử học 
Pháp, những nan đề xã hội Việt Nam vẫn như còn nguyên vẹn sau hơn trăm 
năm nay (5). Có thể thay nhóm từ nói về chế độ quân chủ hủ bại và chế độ
 thực dân thuộc địa Pháp trong các tác phẩm của cụ Phan bằng các từ ngữ 
liên quan đến xã hội hiện tại, chúng ta có thể vẫn nhận ra những nét 
tương đồng khá lớn của xã hội Việt Nam cách nhau hàng trăm năm. Vẫn là 
xã hội nhiều tệ nạn, giới cầm quyền ham mê quyền chức mà không vì dân vì
 nước, vẫn là một nền giáo dục giáo điều, nhồi nhét xa rời thực tiễn...
Sau
 những năm tháng dài sống trong chế độ toàn trị, ngày hôm nay, thế hệ 
thanh niên sinh viên Việt Nam đã và đang trui rèn để vượt qua nỗi sợ mà 
giúp nhau chấn dân khí trong thời đại mới. Nhưng như thế vẫn chưa nói đủ
 bức tranh duy tân của thời đại hôm nay, nếu chúng ta dừng lại ở đấy. 
Không, cụ Phan đã một đời dấn thân hoạt động nhiều mặt, từ viết sách, 
diễn thuyết, vận động chính trị, xây dựng tổ chức hoạt động chính trị 
duy tân bất bạo động. Chính cụ đã không ngần ngại tự nhận mình là một 
"nhà hoạt động chính trị ở vương quốc An Nam". Cuộc vận động chính trị 
duy tân ngày hôm nay đang diễn ra dưới dạng thức cập nhật của thời đại. 
Cũng vẫn là chủ trương khai dân trí và chấn dân khí, các nhóm bạn 
blogger, những hội quần chúng tại khắp nơi nơi đang xây đắp nền móng cho
 hoạt động xã hội dân sự. Thế hệ hôm nay đang học tập để vận dụng những 
sách lược đấu tranh đa dạng mà thế hệ cụ Phan đã từng vận dụng, để thích
 ứng với hoàn cảnh đất nước hiện tại. Nhà nước toàn trị hiện nay cũng 
như chính phủ bảo hộ trăm năm trước, ra sức trấn áp hoạt động xã hội dân
 sự, cũng vì họ rất lo ngại tầm ảnh hưởng của những "diễn biến hoà bình"
 theo tinh thần duy tân mà cụ Phan đề xướng từ trăm năm trước. 
Xem
 vậy thì những gì cụ Phan ấp ủ trăm năm trước đến nay vẫn còn tính cách 
rất mới, rất bức thiết, đòi hỏi quốc dân phải suy ngẫm lại để tiếp tục 
con đường duy tân ngõ hầu đưa đất nước đi đến phồn vinh và văn minh thật
 sự. Ngày nay, trên khắp vùng đất nước cũng như tại hải ngoại, phương 
tiện truyền thông hiện đại đang góp phần của nó trong việc phát huy chủ 
trương khai dân trí và chấn dân khí, giúp cho thế hệ trẻ tuổi nắm bắt 
đúng mạch đập của thời đại để nhận ra những gì cụ Phan và thế hệ duy tân
 đầu tiên đưa ra đến nay vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự của nó. Đây 
chính là những dấu hiệu đáng mừng cho công cuộc duy tân dở dang mà cụ 
Phan còn để lại cho thế hệ chúng ta. 
Đoàn Xuân Kiên
Chú thích :
(1) Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh Nghĩa Thục. Nxb. Lá Bối, 1967 ; Nguyễn Văn Xuân, Phong trào duy tân. Nxb. Lá Bối, 1971
(2) Xem : Huỳnh Lý, mục từ Phan Châu Trinh trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004 ; Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Q. 5, tập Trung). Tác giả tự xuất bản, 1963.
(3) Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975, trang 120.
(4) Xem : Mai Thái Lĩnh, "Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh", Talawas, 02/11/2010
(5) Nguyên Ngọc, "Xây dựng con người tự chủ, để dân tộc tự chủ, chương trình vĩ đại bị dở dang của Phan Châu Trinh", Diễn Đàn, 22/03/2011.

