Phan Châu Trinh - ánh đuốc duy tân xuyên thế kỷ. (Đoàn Xuân Kiên-Thông Luận)
Suốt
đời, cụ Phan cho rằng quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận là tiền
đề để thực hiện các quyền tự do căn bản khác của người dân. Ta biết rằng
khi về nước diễn thuyết về "Đạo đức và luân lý Đông Tây", cụ có
nói thế này : "…chí như đời bây giờ được tự do ngôn luận, được tự do
xuất bản, được tự do diễn thuyết thì những người ra lo việc nước, việc
đời bên họ biết là bao nhiêu."
Những
năm đầu thế kỉ XX báo hiệu một bước ngoặt lớn của lịch sử nước nhà về
mọi mặt : chính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội do tác động trực tiếp và
sâu bền của công cuộc duy tân mà cụ Phan và các bạn đồng chí hướng cùng
gây thành một phong trào quần chúng sâu rộng.
Phong
trào duy tân dấy lên sôi động trong một thời gian ngắn, từ năm 1905 đến
1908. Dù nhìn từ những góc độ nào, các nhà bình luận đều công nhận cụ
Phan là lãnh tụ tiên phong của phong trào duy tân Việt Nam (chẳng hạn, ý
kiến của học giả Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Xuân) (1). Từ ngày cụ Phan
qua đời đến nay đã 88 năm rồi mà xem chừng hậu thế vẫn chưa khép lại
những lời cái quan định luận. Bao nhiêu giấy mực xem ra vẫn chưa đủ nói
về một con người đã nằm xuống, bao nhiêu lời tranh luận phát xuất từ
nhiều góc nhìn xem chừng vẫn chưa ngã ngũ. Các nhà bình luận có thể đồng
ý với nhau đến chừng mức như vậy, sau đó thì các ý kiến có vẻ phân tán :
người thì bảo rằng chủ trương của cụ Phan là không tưởng (Phạm Văn Sơn)
(2), người thì cho rằng cụ Phan đã thất bại trong việc lãnh đạo phong
trào duy tân đến đích sau cùng của nó là làm thay đổi đất nước sang bước
ngoặt mới (Huỳnh Lý)(2).
Xã
hội Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX đã chứng kiến một cuộc khủng
hoảng về mọi mặt : (a) về mặt chính trị, đất nước dần mất chủ quyền vào
tay thực dân Pháp. Công cuộc cần vương và văn thân đã bị đàn áp và tiêu
trầm ; (b) về mặt kinh tế thì thực dân Pháp bắt đầu khống chế và khai
thác thuộc địa ; (c) về mặt văn hoá, Nho học bị mất dần vai trò ý thức
hệ chủ đạo. Chính trong thời gian này, làn sóng "tân thư" từ Trung Hoa
tràn qua đã góp phần thức tỉnh một số nhà nho có ý thức cấp tiến. Kết
quả là tại kinh đô Huế những năm ấy đã chuyền tay nhau bản luận văn "Thiên hạ đại thế luận"
do nhà nho Nguyễn Lộ Trạch biên soạn. Năm 1903, khi vào kinh nhận chức
quan thừa biện bộ Lễ tại Huế, cụ Phan đã sớm được đọc và tâm đắc với
những luận điểm mới mẻ của thiên đại luận này. Những tư tưởng mới do tân
thư đem lại đã sớm đưa cụ Phan và những nhà nho cấp tiến cùng thế hệ
dứt khoát từ bỏ quan trường của chế độ phong kiến đương thời và đề xướng
con đường duy tân mà các cụ tin tưởng sẽ đem lại tương lai mới cho đất
nước.
Thế
là cụ Phan và hai người bạn đồng chí hướng là hai ông nghè Huỳnh Thúc
Kháng và Trần Quý Cáp lên đường hô hào duy tân. Cơ duyên đầu tiên để
phát động phong trào là tại trường thi khảo hạch Bình Định. Ba nhà trí
thức trẻ học vấn uyên thâm đã làm kinh động quan khảo hạch cùng sĩ tử
trong trường thi khi được nghe đọc quyển văn gồm có bài thơ "Chí thành
thông thánh" và bài phú "Danh sơn lương ngọc" do chính ba nhà khoa bảng
trẻ giả dạng làm một nho sinh vào trường khảo hạch. Quyển văn của ba vị
khoa bảng thác danh là Đào Mộng Giác này đã công khai hô hào cảnh
tỉnh học trò sĩ tử còn mê muội với từ chương thi phú, ham công danh
quên đất nước đang chìm trong vòng nô lệ. Khi chính quyền địa phương
truy lùng tác giả các bài trên thì các cụ đã rời trường thi mà tới Nha
Trang trong nỗ lực tổ chức những hoạt động duy tân.
Sau
chuyến nam du ấy, các cụ Phan, Huỳnh và Trần đã liên lạc với một số nhà
nho trẻ và tiến bộ tại các nơi ba vị qua, nhằm mục đích thành lập các
cơ sở doanh nghiệp, mở trường học chú trọng thực nghiệp, và tổ chức các
nền nếp sinh hoạt theo tinh thần mới. Cơ sở nước mắm Liên Thành ra đời
tại Phan Thiết, hàng loạt các cơ sở làm kinh tế hợp tác ra đời tại Quảng
Nam : các thương hội, dệt các thứ vải dày có thể may âu phục. Cụ Phan
đích thân làm gương cắt may, mặc bộ đồ tây bằng vải nội, hàng vải tơ lụa
nội hóa được cải tiến. Lúc đó, làng Bảo An (Ðiện Bàn) nổi tiếng dệt
đẹp, có thể cạnh tranh với tơ lụa Trung Hoa. Lần lượt các nông hội phát
triển tại Yến Nê (Ðiện Bàn) rộng chừng 20 mẫu, trồng khoai, sắn, bắp,
cho trồng cây dương liễu để cản gió theo hai bên bờ sông. Mỹ Sơn (Duy
Xuyên) rộng khoảng 40 mẫu trồng hoa màu và cấy lúa, Bửu Sơn (Ðại Lộc)
khai phá nông trường để trồng lúa.
Các
thương hội lần lượt được tổ chức có phương pháp đã đạt những thành quả
tốt, như thương hội Phong Thử (Ðiện Bàn) do Phan Thúc Duyên trông coi,
địa điểm thuận lợi cho việc giao thông bằng đường thủy ghe lớn có thể
cập bến được, tấp nập người đến buôn bán. Hội An thương cuộc do ông bang
Kỳ Lam phụ trách bán đủ loại sĩ và lẻ các mặt hàng vải, gạo, đường,
quế. Đặc biệt là các cơ sở thương nghiệp này cũng làm ăn theo cung cách
mới : trên các món hàng bày bán đều có định giá rõ ràng, người bán hàng
lịch sự tiếp khách… Phong trào duy tân tại Quảng Nam những năm ấy đã xây
dựng được một cơ sở điển hình làm ngọn cờ đầu tại Phú Lâm (Tiên Phước)
do Lê Cơ (1870-1918) tổ chức chương trình khuyến kích công thương
nghiệp, chỉnh đốn cơ sở chính quyền, cơ sở giáo dục và sinh hoạt xã hội
theo hướng duy tân.
Những
thành tựu đầu tiên tại Quảng Nam đã từ từ ảnh hưởng đến thay đổi sinh
hoạt khắp nơi. Tại Nghệ An lúc ấy cũng đã hình thành cơ sở duy tân với
những thương hội do các nhà nho cấp tiến như ông nghè Ngô Đức Kế dẫn
đầu. Các nhà nho tiến bộ tại Hà Nội đứng ra khuếch trương thương nghiệp
là ông Ðỗ Chân Thiết mở hiệu Ðồng Lợi Tế ở phố Mã Mây, mở tiệm thuốc Bắc
Tụy Phương ở phố Hàng Cỏ, Hoàng Tăng Bí mở hiệu Ðông Thành Xương ở Hàng
Gai. Tại Sài Gòn có Minh Tân Khách Sạn của ông Phủ Chiếu.
Ngoài
các cơ sở nông hội và thương nghiệp, phong trào duy tân còn là cuộc
cách mạng lớn trên mọi lãnh vực đầu thế kỉ 20. Các trường dạy thêm
chương trình chữ quốc ngữ lan rộng trên khắp nẻo đường đất nước. Cao
điểm của hoạt động văn hóa giáo dục duy tân là việc mở trường Đông Kinh
Nghĩa Thục tại Hà Nội năm 1907.
Sau
chuyến bắc du ra Nghệ An và Hà Nội, cụ Phan đã sang Nhật qua đường dây
Đông du để đích thân điều nghiên tình hình công cuộc Đông du cầu ngoại
viện của cụ Phan Bội Châu. Từ chuyến Nhật du trở về, cụ Phan đã gửi một
bức thư dài đề ngày 01/10/1906, gửi Toàn quyền Beau, nội dung phê phán
đường lối cai trị cùa nhà đương cục. Cụ Phan nêu ra ba nguyên nhân dẫn
đến tình cảnh bi đát của nước nhà buổi ấy, ấy là : (a) chính phủ Bảo hộ
dung túng quan lại Việt Nam thành ra cái tệ "cô tức" ; (b) chính phủ
khinh rẻ dân Việt Nam thành ra cái tệ xa cách ; (c) các quan lại Việt
Nam nhận ra cái tệ xa cách ấy mà thành ra cái tệ hà hiếp dân. Bức thư
này thường được sách vở gọi là "Đầu Pháp chính phủ thư", đưa ra
một số đề nghị cải cách lề lối cai trị theo hướng khai hóa dân trí, mở
mang giáo dục và chấn chỉnh chế độ quan lại. Bức thư này có thể xem là
mở đầu cho hàng loạt nỗ lực nêu cao chủ trương "khai dân trí, chấn dân
khí, hậu dân sinh" mà cụ Phan bền bỉ theo đuổi suốt đời. Bức thư năm
1906 của cụ Phan sau đó cũng được chuyền tay khắp nơi, đã gây chấn động
trong công chúng cũng như giới quan lại.
Chỉ
trong một thời gian ngắn, ba năm (1905-1907), các cơ sở công thương và
nông nghiệp, trường học đã dấy lên làn sóng duy tân cao độ, khiến nhà
nước bảo hộ lo ngại. Khi phát khởi phong trào nông dân biểu tình kháng
thuế tại Trung kì năm 1908, nhà nước bảo hộ đã nhân cơ hội này ra tay
trấn áp dữ dội, bắt bớ các nhà nho bị xếp vào sổ đen những người cầm đầu
phong trào dân chúng có hành vi bạo động phản kháng chính quyền bảo hộ
qua cuộc biểu tình rầm rộ mà sử sách gọi là cuộc "Trung Kì Dân Biến". Cụ
Phan và hàng loạt các nhà nho lãnh đạo phong trào duy tân mới dấy khởi
lần lượt bị bắt bớ, và xử án rất nặng, hoặc là đày ra Côn Đảo (cụ Phan
và rất đông các vị lãnh đạo phong trào tại khắp nơi), hoặc bị xử chém
(cụ nghè Trần Quý Cáp, Trần Thuyết, Ông Ích Đường...). Sau đợt bắt bớ tù
đày đó là cuộc khủng bố toàn diện nhằm mục đích xóa bỏ mọi dấu vết của
phong trào duy tân vừa phát khởi và còn non trẻ.
Dầu
vậy, ngọn lửa duy tân không hề tắt. Do kết quả của các vận động trong
công luận Pháp thông qua các nhà trí thức hoạt động trong Hội Nhân Quyền
Pháp, cụ Phan và các vị lãnh đạo phong trào duy tân lần lượt được trở
về đất liền. Cụ Phan đã chọn con đường sang Pháp đấu tranh tại chính xứ
sở của cuộc cách mạng dân quyền. Từ đây cụ Phan bắt đầu những ngày tháng
hoạt động duy tân tại đất Pháp.
Ngay
từ những buổi đầu tại Paris, cụ Phan liên kết được với một số nhà trì
thức Việt Pháp để cùng hoạt động. Cụ Phan cùng Phan Văn Trường trở thành
cột trụ của phong trào Việt Kiều tại Pháp trong buổi đầu. Hai vị soạn
các bản điều trần gởi cho chính phủ Pháp, nêu rõ tình cảnh Việt Nam dưới
chế độ bảo hộ Pháp : không có tự do, bị bắt bớ tù đày... Cụ Phan soạn "Trung Kỳ Dân Biến Thỉ Mạt Kí",
Jules Roux dịch sang Pháp văn để đệ trình chính phủ Pháp nhằm kêu oan
cho Trần Quý Cáp và nỗi oan ức của người Việt bị trấn áp sau đợt dân
chúng biểu tình xin giảm sưu thuế tại Trung kì, gửi thư phản đối chính
sách bảo hộ tại Việt Nam.
Trong
14 năm hoạt động tại Pháp, cụ Phan không ngừng vận động trong giới kiều
bào tại Pháp cùng dư luận bản xứ trong nỗ lực vận động duy tân cho nước
nhà. Cụ Phan cùng các bạn Việt Pháp dùng phương tiện báo chí, diễn
thuyết để hoạt động liên tục trong thời gian này. Lần lượt, cụ Phan và
nhóm bạn kiều bào trong Hội đồng bào thân ái tại Paris đã liên tục có
những hoạt động theo chủ trương duy tân. Năm 1913, cụ viết báo phản đối
việc làm thiếu đạo đức của Khâm sứ Mahé trong việc đào lăng vua Tự Ðức
tìm vàng, đi diễn thuyết trong tập thể kiều bào, kêu gọi lòng yêu nước
hướng về quê hương và thường tiếp xúc với người Pháp có lòng nhân đạo
bác ái, bày tỏ nguyện vọng của mình và chỉ trích chính sách cai trị tàn
ác của Pháp ở Ðông Dương...
Năm
1919, Cụ Phan và luật sư Phan Văn Trường đưa ra bản yêu sách 8 điểm gửi
Hội nghị Versailles năm 1919 mà yêu sách thứ 3 có liên quan đến quyền
tự do báo chí và tự do tư tưởng.
Suốt
đời, cụ Phan cho rằng quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận là tiền
đề để thực hiện các quyền tự do căn bản khác của người dân. Ta biết rằng
khi về nước diễn thuyết về "Đạo đức và luân lý Đông Tây", cụ có
nói thế này : "…chí như đời bây giờ được tự do ngôn luận, được tự do
xuất bản, được tự do diễn thuyết thì những người ra lo việc nước, việc
đời bên họ biết là bao nhiêu."
Một
chi tiết khác dưới đây cũng cho thấy thêm niềm xác tín của cụ Phan về
quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng : khoảng những năm 1922-1923, cụ
Phan và một bạn Việt kiều tên là Trần Lê Luật có ý định thành lập một
"diễn đàn" của người Việt tại Paris. Bản kế hoạch lập "Việt kiều diễn
đàn" cho rằng : "Diễn thuyết không bằng cách ‘định luận’, nghĩa là
lời diễn thuyết dù phải dù chẳng (phải) không ai được cãi lại, nhưng
dùng cách ‘nghịch luận’ để ai nấy được tự do biện luận cho xác lẽ phải
chăng". Điều này cho thấy cụ Phan đã đi sớm trước thời đại mình và
xây dựng một quan niệm về đa nguyên tư tưởng rất phù hợp với phương pháp
tư duy khoa học hiện đại.
Nhân
chuyến du hành của vua Khải Định sang Pháp dự cuộc đấu xảo tại
Marseilles năm 1922, cụ Phan biện soạn một bức thư dài mà về sau được
gọi là "Thư thất điều", gửi cho vua, trong đó cụ hài ra bảy tội lớn của ông vua bù nhìn này : (1) tôn quân quyền, (2) thưởng phạt không công bình, (3) chuộng
sự quỳ lạy, (4) xa xỉ vô đạo, (5) phục sức không đúng phép, (6) du hạnh
vô độ, (7) sự ám muội trong việc Pháp du. Kết thư, cụ Phan cho rằng
không những vua xứng đáng bị phế truất mà chính cái chế độ "quân
chủ hiện tại phải truất, mà xét đến nguồn gốc nguyên nhân sâu xa, thời
quân chủ các thời đã qua cũng không tránh khỏi búa rìu công luận của
quốc dân vậy".
Bức
thư dài này sẽ hô ứng rất nhịp nhàng với những luận đề chính mà cụ Phan
nêu ra trong hai bài diễn thuyết tại Sài Gòn năm 1925, khi cụ về tới
Sài Gòn : "Đạo đức và luân lý Đông Tây" và "Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa".
Trong
những công trình biên soạn thời gian 14 năm tại Pháp và thời gian về
tại Sài Gòn, cụ Phan đã lần lượt đưa ra những nét lớn về quan niệm đầy
đủ của mình về công cuộc duy tân đất nước toàn diện và triệt để. Công
cuộc ấy vẫn thuỷ chung như nhất với chủ trương ban đầu từ những năm xưa,
khi vừa dấy khởi phong trào duy tân : "khai dân trí, chấn dân khí, hậu
dân sinh".
Thật
vậy, nếu trong những năm đầu khi mới phát động duy tân ở quê nhà, cụ
Phan chỉ mới kịp đưa ra những tuyên cáo cùng quốc dân về những tệ trạng
của đất nước trong chế độ bảo hộ thuộc địa Pháp, và hô hào duy tân cải
cách để phế bỏ nguyên do đầu tiên và cuối cùng của tệ trạng ấy (là văn
hóa ngu dân nấp dưới vỏ Nho học suy đồi, chế độ quan trường hủ lậu), thì
trong thời gian 14 năm tại Pháp, cụ Phan đã có nhiều dịp khai triển rõ
thêm những quan niệm chủ trương lớn, làm nên một cương lĩnh chính trị mà
cụ theo đuổi cho đến cuối đời. Bàng bạc trong một loạt các công trình
biên soạn trong thời gian này, gồm có "Tỉnh quốc hồn ca" (bài 2), Yêu sách 8 điểm gửi hội nghị Versailles, "Thư thất điều", "Pháp Việt liên hợp hậu chi Tân Việt Nam", "Đông dương chính trị luận", "Đạo đức và luân lý Đông Tây" và "Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa",
có thể nói cụ Phan đã đề ra những chủ trương lớn cho một khung chính
trị tương lai cho một nước Việt Nam thời duy tân. Trong một nỗ lực nhận
diện bước đầu, một nhà hoạt động dân quyền thời hiện đại đã nêu lên những nét chính của cương lĩnh chính trị duy tân này (3). Đáng
chú ý là những nét lớn về một cương lĩnh chính trị như kể trên, đặt vào
thời điểm những thập niên đầu thế kỉ XX, khi mà cả nước đang chìm đắm
trong màn đêm phong kiến & thuộc địa, có thể nhận ra tính chất cách
mạng của chủ trương chính trị duy tân do cụ Phan đề ra. Rồi đây, khi cụ
Phan qua đời, những trí thức trẻ về sau như Nguyễn An Ninh và Phan
Khôi... tiếp tục cổ vũ trên các diễn đàn báo chí trong Nam do các vị này
bỉnh bút.
Chúng
ta cũng lại biết rằng, bánh xe lịch sử đã ngăn trở việc thực hiện rốt
ráo những chủ trương chính trị duy tân. Khi đất nước giành lại được độc
lập từ tay Pháp, năm 1945, nhà nước dân chủ cộng hoà đã thiết lập một
chế độ chính trị khác với giấc mơ duy tân Việt Nam mà cụ Phan và các bạn
đồng chí đề ra từ những năm đầu thế kỉ.
Theo
quan điểm của nhà nước dân chủ nhân dân tại miền Bắc trong giai đoạn
1945 trở về sau, quan điểm duy tân của cụ Phan và các nhà nho cấp tiến
đầu thế kỉ XX bị xem là chủ trương chính trị ảo tưởng (vì muốn đòi được
tự trị trong tay thực dân Pháp), cải lương nửa vời theo chủ nghĩa dân
chủ tư sản dân quyền Pháp trong khi thời đại đã tiến qua kỉ nguyên dân
chủ vô sản (4). Tại miền Nam, trong thời kì chia cắt 1954-1975 cũng có
những nhà phê bình cho rằng chủ trương chính trị của cụ Phan là không
tưởng (2).
Tuy nhiên, lí luận dù được mệnh danh là khoa học đến đâu thì cũng không qua được thực tiễn cuộc sống. Kể
từ khi phong trào duy tân dấy khởi đến nay đã hơm 100 năm, đất nước
chúng ta đã trải qua bao nhiêu biến chuyển. Các chế độ cộng hoà nối tiếp
nhau trên đất nước ta từ 1945 đến nay không những đã không tạo lập được
những chế độ xã hội theo ước nguyện của thế hệ những nhà nho duy tân,
mà ngược lại, có thể nói không ngoa rằng cho đến ngày nay, đất nước
chúng ta vẫn nguyên vẹn là một xã hội chìm đắm trong đêm trước của một
cuộc duy tân đúng nghĩa.
Nói
như nhà văn Nguyên Ngọc khi dẫn lại một nhận định của một nhà sử học
Pháp, những nan đề xã hội Việt Nam vẫn như còn nguyên vẹn sau hơn trăm
năm nay (5). Có thể thay nhóm từ nói về chế độ quân chủ hủ bại và chế độ
thực dân thuộc địa Pháp trong các tác phẩm của cụ Phan bằng các từ ngữ
liên quan đến xã hội hiện tại, chúng ta có thể vẫn nhận ra những nét
tương đồng khá lớn của xã hội Việt Nam cách nhau hàng trăm năm. Vẫn là
xã hội nhiều tệ nạn, giới cầm quyền ham mê quyền chức mà không vì dân vì
nước, vẫn là một nền giáo dục giáo điều, nhồi nhét xa rời thực tiễn...
Sau
những năm tháng dài sống trong chế độ toàn trị, ngày hôm nay, thế hệ
thanh niên sinh viên Việt Nam đã và đang trui rèn để vượt qua nỗi sợ mà
giúp nhau chấn dân khí trong thời đại mới. Nhưng như thế vẫn chưa nói đủ
bức tranh duy tân của thời đại hôm nay, nếu chúng ta dừng lại ở đấy.
Không, cụ Phan đã một đời dấn thân hoạt động nhiều mặt, từ viết sách,
diễn thuyết, vận động chính trị, xây dựng tổ chức hoạt động chính trị
duy tân bất bạo động. Chính cụ đã không ngần ngại tự nhận mình là một
"nhà hoạt động chính trị ở vương quốc An Nam". Cuộc vận động chính trị
duy tân ngày hôm nay đang diễn ra dưới dạng thức cập nhật của thời đại.
Cũng vẫn là chủ trương khai dân trí và chấn dân khí, các nhóm bạn
blogger, những hội quần chúng tại khắp nơi nơi đang xây đắp nền móng cho
hoạt động xã hội dân sự. Thế hệ hôm nay đang học tập để vận dụng những
sách lược đấu tranh đa dạng mà thế hệ cụ Phan đã từng vận dụng, để thích
ứng với hoàn cảnh đất nước hiện tại. Nhà nước toàn trị hiện nay cũng
như chính phủ bảo hộ trăm năm trước, ra sức trấn áp hoạt động xã hội dân
sự, cũng vì họ rất lo ngại tầm ảnh hưởng của những "diễn biến hoà bình"
theo tinh thần duy tân mà cụ Phan đề xướng từ trăm năm trước.
Xem
vậy thì những gì cụ Phan ấp ủ trăm năm trước đến nay vẫn còn tính cách
rất mới, rất bức thiết, đòi hỏi quốc dân phải suy ngẫm lại để tiếp tục
con đường duy tân ngõ hầu đưa đất nước đi đến phồn vinh và văn minh thật
sự. Ngày nay, trên khắp vùng đất nước cũng như tại hải ngoại, phương
tiện truyền thông hiện đại đang góp phần của nó trong việc phát huy chủ
trương khai dân trí và chấn dân khí, giúp cho thế hệ trẻ tuổi nắm bắt
đúng mạch đập của thời đại để nhận ra những gì cụ Phan và thế hệ duy tân
đầu tiên đưa ra đến nay vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự của nó. Đây
chính là những dấu hiệu đáng mừng cho công cuộc duy tân dở dang mà cụ
Phan còn để lại cho thế hệ chúng ta.
Đoàn Xuân Kiên
Chú thích :
(1) Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh Nghĩa Thục. Nxb. Lá Bối, 1967 ; Nguyễn Văn Xuân, Phong trào duy tân. Nxb. Lá Bối, 1971
(2) Xem : Huỳnh Lý, mục từ Phan Châu Trinh trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004 ; Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Q. 5, tập Trung). Tác giả tự xuất bản, 1963.
(3) Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975, trang 120.
(4) Xem : Mai Thái Lĩnh, "Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh", Talawas, 02/11/2010
(5) Nguyên Ngọc, "Xây dựng con người tự chủ, để dân tộc tự chủ, chương trình vĩ đại bị dở dang của Phan Châu Trinh", Diễn Đàn, 22/03/2011.