Dự Án Chính Trị: Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai (Chương 5)
Triết lý của một chế độ dân chủ, trái lại, coi xã hội dân sự là thành tố áp đảo và nền tảng của quốc gia; vì thế vai trò của nhà nước là làm cho các kết hợp công dân ngày càng đông đảo, không ngừng tiến lên và mạnh lên để đóng góp tích cực cho sự phồn vinh của xã hội. Nhà nước dân chủ đa nguyên tự coi mình là công cụ của xã hội dân sự với sứ mệnh bảo đảm hoạt động lành mạnh của xã hội dân sự, để xã hội dân sự tạo hạnh phúc cho các công dân. Đó không phải là một sự từ nhiệm mà là một triết lý chính trị mới của một chính quyền đủ tự tin để đặt lòng tin vào các công dân. Trong quan hệ với xã hội dân sự, nhà nước dân chủ đa nguyên tự coi mình là người trọng tài, phối hợp và thể hiện những nguyện vọng của xã hội dân sự. Nhà nước phục vụ chứ không khống chế xã hội dân sự.
V. Những định hướng lớn của mô thức Việt Nam
Để làm lại đất nước sau sự tàn phá của
chế độ cộng sản chúng ta sẽ phải đổi mới hoàn toàn hệ thống chính trị, kinh tế,
xã hội, quan hệ giữa nhà nước và người dân, quan hệ giữa nước ta và thế giới. Chúng
ta cũng sẽ phải xét lại vai trò của xã hội dân sự và tầm quan trọng của giáo dục,
chọn lựa những giải pháp dài hạn cho các vấn đề liên đới xã hội, môi trường và
dân số.
Trên nền
tàng tư tưởng vừa được trình bày chúng ta sẽ làm lại đất nước theo những định
hướng lớn sau đây.
1. Lấy
tự do làm động lực để phát huy óc sáng tạo và tinh thần cầu tiến
Dân tộc ta có truyền thống giữ nước vẻ
vang, nhưng bù lại ta cũng đã mất quá nhiều thời giờ và nghị lực cho cố gắng chống
ngoại xâm. Trong những tranh đấu cam go ấy ta luôn luôn phải đề cao kỷ luật và
sự nhất trí, luôn luôn phải gác lại những tranh cãi để đương đầu với những vấn đề
cấp bách. Lịch sử chật vật ấy một mặt
khiến chúng ta có khả năng thích nghi cao với điều kiện sinh sống nhưng mặt
khác cũng làm ta dần dần mất đi cái nhìn dài hạn, sáng kiến, óc phát minh và
tinh thần mạo hiểm.
Chúng ta có một bờ biển dài và một đại
dương hiền hậu, nhưng biển cả hầu như không có một tiếng gọi nào với chúng ta cả.
Chúng ta đã thiếu hẳn quyết tâm chinh phục và tận dụng đại dương. Chúng ta không có kỹ thuật đóng tàu và đi biển,
không có đội thương thuyền, không có những nhà hải hành lớn. Cho tới gần đây
chúng ta đã chỉ sống với đất như một dân tộc lục địa. Chúng ta đã hài lòng với
khuôn mẫu Khổng Mạnh từ đời này qua đời khác mà không ý thức rằng văn hóa Khổng
Giáo là một văn hóa nô lệ làm thui chột trí tuệ và tha hóa con người, trước hết
là trí thức. Khuôn mẫu độc đoán và hà khắc đó, sau khi đã cho phép chúng ta đạt
những thành tựu ban đầu, đã bắt chúng ta dẫm chân tại chỗ trong nhiều thế kỷ tiếp
theo.
Óc phê
phán và sáng tạo, tinh thần mạo hiểm và cầu tiến là những điều chúng ta phải học
và tập quen. Muốn như thế chúng ta phải khuyến khích và tôn vinh tự do suy nghĩ
và phát biểu. Chúng ta cần nâng lên hàng một nguyên tắc là trong nước Việt Nam
tương lai sẽ không thể có những vấn đề cấm bàn đến và cũng không thể có những ý
kiến cấm nêu ra. Không một người Việt Nam nào có thể bị trừng phạt vì lối sống
của mình hay vì những gì mình phát biểu, trừ trường hợp trực tiếp kêu gọi bạo lực.
2. Phát huy lòng yêu nước tự nguyện
Trong gần suốt dòng lịch sử chúng ta
đã chỉ sống dưới những chế độ quân chủ tuyệt đối coi đất nước là của riêng một
dòng vua, khi không bị ngoại thuộc. Lòng yêu nước của chúng ta vì vậy không có điều
kiện để phát triển. Khi ý niệm quốc gia như là của mọi người và phải được sự đóng
góp của mọi người xuất hiện, do hậu quả của một di sản trong đó vua là trời và
dân là nô lệ, nó đã mau chóng bị tuyệt đối hóa. Tổ quốc trở thành thiêng liêng,
tối thượng, không có trách nhiệm nào và không chấp nhận một đòi hỏi nào. Tổ quốc
đó đã được dùng làm chiêu bài cho quá nhiều tội ác. Chiến tranh, tang tóc, thất
vọng, sự chịu đựng quá lâu một chế độ độc tài vừa tồi dở vừa bạo ngược, mặc cảm
thua kém các dân tộc khác làm cho lòng yêu nước của chúng ta bị tổn hại trầm trọng.
Chính vì lòng yêu nước không mạnh mà chúng ta đã để cho Đảng Cộng Sản, một đảng
mà lý tưởng là phục vụ cho một phong trào quốc tế thay vì đất nước và tôn sùng
một chủ nghĩa chủ trương xóa bỏ quốc gia, lôi kéo được một số đông đảo đồng bào
và khống chế chính trường. Chính vì ý chí và lòng yêu nước đã hao mòn mà ngày
nay chúng ta đã không phản ứng đủ quyết liệt trước một chế độ độc tài đảng trị
coi đất nước là của riêng mình như các vua chúa ngày xưa, trong khi cả nhân loại
đang tiến về dân chủ và chính chúng ta cũng biết đất nước rất cần dân chủ.
Nhưng chúng ta là người Việt Nam, và
tương lai của chúng ta gắn liền với tương lai của đất nước Việt Nam. Chúng ta
không có chọn lựa nào khác hơn là xây dựng một tương lai Việt Nam chung. Và để
xây dựng tương lai chung đó, lòng yêu nước vẫn là mẫu số chung bắt buộc. Chúng
ta cần một sức bật mới của lòng yêu nước. Chúng ta cần phục hồi và phát minh lại
lòng yêu nước.
Chúng ta cần xác định lòng yêu nước
như một tình cảm tự nguyện của những con người tự do, ràng buộc mật thiết với
nhau để xây dựng một tương lai chung cho mình và cho con cháu. Chúng ta cần để
cho mỗi người yêu nước theo cách của mình, chúng ta không thể để cho lòng yêu
nước bị đồng hóa với sự tán thành một chủ nghĩa. Chúng ta cần hòa giải người Việt
Nam với đất nước. Chúng ta cần một tổ quốc hiền hòa thay vì dữ tợn, một tổ quốc
có trái tim thay vì có nanh vuốt, một tổ quốc đáng yêu thay vì đáng sợ và đáng
ghét, một tổ quốc khuyến khích thay vì cấm đoán, một tổ quốc có trách nhiệm và
gần gũi với mọi người thay vì quá thiêng liêng đến nỗi trở thành trừu tượng và
xa cách, một tổ quốc của nhân quyền và dân quyền.
Muốn
như thế chính quyền, người đại diện và hành động nhân danh tổ quốc, phải là một
chính quyền lương thiện, khiêm tốn, cần kiệm và tận tụy, quý trọng từng người
dân và để cho mỗi người thấy rõ ràng mình được quý trọng. Chính quyền ấy sẽ hóa
giải mọi hận thù, sẽ nhân danh sự liên tục quốc gia để xin lỗi, phục hồi danh dự
và bồi thường thiệt hại cho mọi nạn nhân của những oan ức. Chính quyền ấy sẽ thường trực cảnh giác để
không một thành phần dân tộc nào cảm thấy bị bỏ rơi. Chính quyền ấy sẽ không bắt ai phải yêu nước,
trái lại sẽ dồn mọi cố gắng tạo điều kiện để mọi người có thể yêu nước.
Cùng với
dân chủ, tự do, ý kiến và sáng kiến, nhưng trên tất cả, lòng yêu nước sẽ là một
vũ khí chủ yếu giúp chúng ta chấp nhận di sản mà Đảng Cộng Sản để lại và nắm
tay nhau cùng chinh phục tương lai.
3. Tôn trọng và phát huy xã hội dân sự
Mọi quốc gia văn minh đều phải đặt nền
tảng trên xã hội dân sự. Một trong những lý do chính khiến chúng ta tụt hậu bi
đát so với các nước khác là sự thiếu vắng một xã hội dân sự đúng nghĩa. Xã hội
dân sự là toàn thể các giáo hội, hiệp hội, câu lạc bộ, các tổ chức thiện nguyện,
các nghiệp đoàn, hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp. Nói chung, đó là tất cả các
kết hợp của người dân, được thành lập ngoài chính quyền để cùng theo đuổi một số
mục đích chung và không nhắm tranh giành quyền lực chính trị.
Ý niệm xã hội dân sự đã xuất hiện cùng
một lúc với các xã hội văn minh; trong nhiều ngôn ngữ phương Tây cụm từ xã hội
dân sự cũng có nghĩa là xã hội văn minh. Đó là những sợi dây chằng chịt gắn bó
những con người với nhau và gắn bó con người với xã hội. Những sợi dây nối kết đan
xen đó tạo ra sự phong phú và bền chắc của quốc gia. Các kết hợp công dân tạo
thành xã hội dân sự cũng là những cái nôi cho ý kiến, sáng kiến và tiến bộ. Một
xã hội dân sự mạnh bảo đảm các ý kiến mới được nảy sinh nhanh chóng, các mâu
thuẫn được phát hiện và giải quyết kịp thời, xã hội không ngừng tiến hóa trong
hòa bình và trật tự. Quan trọng hơn, một xã hội dân sự lành mạnh còn đem lại điều
mà ta có thể gọi là phép mầu của sự kết hợp. Đó là hiệu ứng vượt trội, nghĩa là
hiện tượng một kết hợp có thể làm nẩy sinh những đặc tính và khả năng hoàn toàn
mới không hề có trong các thành tố cấu tạo. Thí dụ như sự kết hợp của các hạt
cơ bản trong những điều kiện đặc biệt khác nhau đã tạo ra các nguyên tử; đến lượt
các nguyên tử kết hợp với nhau tạo ra các phân tử, rồi các phân tử kết hợp với
nhau làm nẩy sinh sự sống. Hay sự chuyển động phối hợp của các nơ-ron tạo ra
tình cảm và ý kiến. Các chế độ độc tài, nhất là độc tài cộng sản, trong khi bóp
nghẹt xã hội dân sự đã làm mất đi của các dân tộc khả năng vượt trội này. Có thể
đây là lý do giải thích sự hơn hẳn của các xã hội dân chủ so với các chế độ độc
tài.
Trong mô hình xã hội của dự án chính
trị này, xã hội dân sự sẽ được trân trọng và khuyến khích, hơn thế nữa còn được
giao phó một vai trò quan trọng là thực hiện liên đới xã hội, giúp đỡ và bênh vực
những người yếu kém và thiếu may mắn.
Mọi kết hợp đều tạo ra sức mạnh. Sức mạnh
của xã hội dân sự là sức mạnh tổng hợp, nhưng không bao giờ thống nhất, của các
kết hợp công dân có khi cùng hướng với nhau, có khi biệt lập với nhau và cũng
có khi đối chọi với nhau. Sức mạnh của xã hội dân sự từng lúc và từng cơ hội
hòa nhập với nhà nước hay đối lập với nhà nước, nhưng lúc nào cũng ảnh hưởng
trên nhà nước và không bao giờ có tham vọng tranh quyền với nhà nước bởi vì nó
không có và không thể có tham vọng chính trị.
Xã hội dân sự đảm bảo sự năng động của
xã hội và đồng thời cũng bảo đảm tự do, dân chủ, nhân quyền, ngăn chặn mọi ý đồ
độc tài chuyên chính. Mọi chế độ độc tài bạo ngược đều nhắm trước hết tiêu diệt
xã hội dân sự. Bản chất của các chế độ độc tài là dựa trên một thiểu số để khống
chế một xã hội phân hóa. Các bạo quyền không cần dân chúng tin yêu mình mà chỉ
cần người dân đừng gắn bó với nhau để không có sức đề kháng. Không gì thỏa mãn
các tập đoàn độc tài hơn là sự thờ ơ và vô cảm của một quần chúng bất lực vì
chia rẽ.
Triết lý của một chế độ dân chủ, trái
lại, coi xã hội dân sự là thành tố áp đảo và nền tảng của quốc gia; vì thế vai
trò của nhà nước là làm cho các kết hợp công dân ngày càng đông đảo, không ngừng
tiến lên và mạnh lên để đóng góp tích cực cho sự phồn vinh của xã hội. Nhà nước
dân chủ đa nguyên tự coi mình là công cụ của xã hội dân sự với sứ mệnh bảo đảm
hoạt động lành mạnh của xã hội dân sự, để xã hội dân sự tạo hạnh phúc cho các
công dân. Đó không phải là một sự từ nhiệm mà là một triết lý chính trị mới của
một chính quyền đủ tự tin để đặt lòng tin vào các công dân. Trong quan hệ với
xã hội dân sự, nhà nước dân chủ đa nguyên tự coi mình là người trọng tài, phối
hợp và thể hiện những nguyện vọng của xã hội dân sự. Nhà nước phục vụ chứ không
khống chế xã hội dân sự.
Sẽ
không thể có một cản trở nào cho sự thành lập và phát triển của các kết hợp
công dân. Đặc biệt các hiệp hội không có mục đích lợi nhuận sẽ chỉ cần khai báo
sự thành lập chứ không cần giấy phép hoạt động. Các hiệp hội có mục đích văn
hóa, xã hội còn có quyền đòi hỏi nhà nước giúp đỡ.
4. Xác định Việt Nam là đất nước xây dựng
trên các cộng đồng
Đất nước ta tuy có một lịch sử dài
nhưng lại là một đất nước mới. Miền Trung mới hội nhập xong từ thế kỷ 17, miền
Nam từ thế kỷ 18. Nước ta đã tiếp nhận rất nhiều đóng góp mới về đất đai và chủng
tộc. Tuy vậy tổ chức của ta lại không thích nghi với những thay đổi đó và vẫn được
quan niệm một cách sai lầm như là đất nước của một cộng đồng duy nhất: cộng đồng
người Kinh. Lịch sử của ta là lịch sử của người Kinh. Văn hóa của ta là văn hóa
của người Kinh. Các quan niệm về đạo lý, xã hội, luật pháp đều dựa trên người
Kinh và chủ yếu nhắm phục vụ cho người Kinh. Có lẽ là quá trình mở nước và giữ
nước khó khăn của ta đã không cho ta thời giờ và phương tiện để suy nghĩ một
cách nghiêm túc về một chính sách cộng đồng, nhưng phải nói thực là chúng ta rất
thiếu sót về điểm này. Trong suốt dòng lịch
sử, trừ một vài ngoại lệ ít ỏi, người Kinh hầu như chưa hề nhìn nhận một trách
nhiệm nào đối với các sắc tộc ít người mà chỉ áp đặt khuôn mẫu của mình, nếu cần
bằng bạo lực. Tình trạng này nếu không được nhận định rõ rệt để kịp thời có
chính sách thỏa đáng có thể dẫn tới những hậu quả rất tai hại, nhất là trong bối
cảnh thế giới hiện nay và sắp tới. Nhiều quốc gia đang và sẽ còn phải khốn đốn
vì những cuộc nổi dậy cuồng nhiệt của các sắc tộc ít người vùng lên đòi bản thể.
Nếu chúng ta không cảnh giác để cho tình trạng này xảy ra thì hai vùng rộng lớn
của đất nước là miền núi phía Bắc và miền Cao Nguyên Trung Phần có thể trở
thành bất ổn và không phát triển được.
Các cộng đồng đều phải được tôn trọng
như nhau trong một đất nước Việt Nam được định nghĩa như là đất nước của các cộng
đồng. Cộng đồng người Việt gốc Khmer đã sống từ ngàn xưa tại miền Nam, cộng đồng
người Việt gốc Hoa đã góp công lớn khai mở ra miền Nam phải được coi là những
người Việt Nam trọn vẹn trước luật pháp cũng như trong tình cảm dân tộc.
Quốc gia Việt Nam phải gạt bỏ hẳn ý đồ
đồng nhất hóa để mưu tìm đồng tiến trong dị biệt. Chúng ta phải khẳng định rằng đất nước Việt
Nam không được định nghĩa bằng một chủng tộc mà bằng sự chấp nhận xây dựng và
chia sẻ một tương lai chung.
Ngày nay người Kinh đã chiếm đa số
trên khắp lãnh thổ, giải pháp thành lập những vùng tự trị cho các sắc tộc không
còn khả thi nữa, nhưng tản quyền sẽ cho phép các sắc tộc có tiếng nói đáng kể
trong các chính quyền địa phương. Văn hóa, ngôn ngữ của các sắc tộc ít người phải
được coi là thành phần của văn hóa Việt Nam mà nhà nước có nhiệm vụ gìn giữ. Lịch
sử Việt Nam cũng phải được xét lại và được coi như lịch sử của các sắc dân đã hợp
lại để tạo thành đất nước Việt Nam.
Tinh thần tôn trọng các cộng đồng cũng
phải được mở rộng ra tới các cộng đồng tôn giáo, các cộng đồng tư tưởng, các cộng
đồng nghề nghiệp và các cộng đồng không thành hình thái do nếp sống khác nhau của
từng địa phương mà có. Các cộng đồng này phải được đảm bảo chỗ đứng và tiếng
nói trong sinh hoạt quốc gia.
Kể từ ngày 30-4-1975 chúng ta lại có
thêm một cộng đồng quan trọng mới: cộng đồng người Việt hải ngoại. Những người
Việt Nam này đã phải bỏ nước ra đi vì không thể chịu đựng những biện pháp hạ nhục,
trù dập và phân biệt đối xử. Đất nước Việt Nam phải mở rộng vòng tay và tấm
lòng đối với họ. Họ phải được nhìn nhận quyền công dân tức khắc và trọn vẹn,
cho họ cũng như cho con cái sinh ra tại nước ngoài.
Sự hình
thành của cộng đồng Việt Nam hải ngoại là một yếu tố rất mới và một may mắn lớn
cho đất nước. Nhờ cộng đồng này người Việt Nam đã làm quen được với mọi nếp sống
và mọi nền văn minh, đã thử nghiệm mọi khuôn mẫu tổ chức xã hội, đã len lỏi vào
mọi bộ môn khoa học kỹ thuật. Cộng đồng
này, một khi nối lại được quan hệ bình thường với đất nước, sẽ là một bảo đảm rằng
Việt Nam sẽ là một nước cởi mở, sẽ rũ bỏ được mọi cố chấp và thành kiến, sẽ
vĩnh viễn ra khỏi ngõ cụt cố chấp. Cộng đồng này tuy chưa đông đảo và còn cần
được tăng cường nhưng có tiềm năng đóng góp lớn cho đất nước. Người Việt hải
ngoại sẽ là những đầu cầu khoa học, kỹ thuật, văn hóa, thương mại vô cùng quý
báu mà nhà nước Việt Nam không có phương tiện để tạo ra. Kinh nghiệm cho thấy rằng
các quốc gia phát triển mau chóng trong những năm gần đây đều đã nhờ sự đóng
góp của một cộng đồng hải ngoại hùng mạnh. Bất cứ một nhà nước Việt Nam khôn
ngoan nào cũng phải khuyến khích liên lạc giữa trong và ngoài nước, nhìn nhận một
thực thể Việt Nam Hải Ngoại và tìm mọi sáng kiến để cộng đồng Việt Nam hải ngoại
ngày một lớn hơn, mạnh hơn.
5. Dứt khoát chọn lựa một nền kinh tế
thị trường lấy tư doanh làm nền tảng
Kinh nghiệm thế giới trong nhiều thập
niên qua đã chứng tỏ rằng các chính sách kinh tế tập thể, quốc doanh đều dẫn đến
thất bại. Kinh nghiệm cũng đã cho thấy rằng thị trường tự do là hướng dẫn chính
xác nhất cho sản xuất và là bảo đảm chắc chắn nhất cho một sự phân phối hiệu
nghiệm. Chọn lựa kinh tế phải có cho Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, lấy
xí nghiệp tư làm nền tảng, lấy óc kinh doanh và sáng kiến làm sức mạnh, lấy
tinh thần cầu tiến và làm giàu làm động cơ, lấy lợi nhuận làm phần thưởng và chất
kích thích.
Chọn lựa ấy có nghĩa là nhà nước sẽ
không làm những gì mà tư doanh có thể làm được. Vai trò kinh tế chủ yếu của nhà
nước là bảo đảm sự ổn vững của đồng tiền, ngăn ngừa những cạnh tranh bất chính,
đầu tư vào những ngành nhiều triển vọng mà tư nhân chưa dám hoặc chưa đủ khả năng
đầu tư, đảm nhận một số công trình khảo cứu, nghiên cứu và dự phòng cần thiết. Nhà
nước cũng có chức năng cảnh giác trước những khuynh hướng kinh doanh có hại và
khuyến khích những hoạt động kinh tế có lợi, nhưng nhà nước thực hiện chức năng
này chủ yếu bằng thông tin và nâng đỡ chứ không phải bằng mệnh lệnh và cấm đoán.
Nhà nước sẽ dồn mọi cố gắng bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ trật tự an
ninh, bảo vệ công lý, bảo vệ môi trường sinh sống, phát huy các mối bang giao
quốc tế có lợi, xây dựng và củng cố đồng thuận dân tộc, nghĩa là làm đúng chức
năng của một nhà nước.
Để làm
trọn chức năng đó và bảo đảm sinh hoạt kinh tế thị trường lành mạnh nhà nước phải
liên tục nỗ lực xây dựng một hệ thống luật pháp đúng đắn trên tinh thần thực
nghiệm, bắt đầu từ những căn bản đúng đắn và không ngừng được bổ sung dựa trên
những án lệ.
6. Tiến tới một nền kinh tế công nghiệp
và dịch vụ
Với đất đai canh tác tuy ít nhưng phì
nhiêu, Việt Nam có tiềm năng nông nghiệp đáng kể. Nông nghiệp trong ngắn hạn là
đòn bẩy cho sự hồi sinh và là điểm khởi đầu của phát triển kinh tế. Do đó nông
nghiệp là trọng tâm kinh tế tức khắc của chúng ta và cũng sẽ còn là trọng tâm
kinh tế của chúng ta trong một thời gian khá dài.
Tuy nhiên, vì đất đai chật hẹp và dân
số đông đảo, Việt Nam không thể tiếp tục là một nước nông nghiệp. Ngược lại vị
trí của ta thuận lợi, nhân lực của ta dồi dào và tinh nhuệ. Chức năng tự nhiên
của chúng ta là chức năng của một quốc gia công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ
và hàng hải. Chúng ta phải chuẩn bị ngay
từ bây giờ cho tương lai đó, nhất là sự chuyển hóa đó cho phép biến nhiều vùng
núi không thể sử dụng cho nông nghiệp thành diện tích sinh hoạt, nghĩa là còn
có tác dụng mở rộng đất nước trên thực tế.
Mục tiêu kinh tế của chúng ta trong
hai mươi năm tới là chuyển hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh
tế công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Điều này có nghĩa là trọng lượng của
nông nghiệp trong tổng sản lượng quốc gia cũng như trong phối trí nhân lực sẽ
giảm dần đi. Bước đầu của cố gắng chuyển hóa này là phát triển -và nâng thật
cao phẩm chất- những ngành công nghiệp gắn bó với nông nghiệp như công nghiệp
thực phẩm, chế tạo phân bón, thuốc trừ sâu, nông cơ, v.v. song song với cố gắng
tìm thị trường xuất khẩu cho nông phẩm. Một mục tiêu quốc gia của giai đoạn
chuyển hóa này là thực phẩm Việt Nam được thế giới biết đến như là có phẩm chất
siêu cao, nông cụ và nông cơ Việt Nam vô địch về tỷ lệ phẩm chất/giá.
Ngoài những cố gắng dồn vào những
ngành mà triển vọng đã thấy rõ như ngư nghiệp, du lịch, chúng ta sẽ đặc biệt
chú trọng tới hai triển vọng mới là dịch vụ thương cảng và tin học. Cả hai
ngành này đều đòi hỏi một chính sách mở cửa trọn vẹn, thẳng thắn ra thế giới
bên ngoài.
Do vị trí và bờ biển thuận lợi của ta, Việt
Nam có thể có những thương cảng rất lớn. Chúng ta sẽ sẵn sàng ký những hợp đồng
xây dựng và khai thác dài hạn một số thương cảng với các tổ hợp nước ngoài. Nhưng
điều quan trọng để thu hút những dịch vụ thương mại quốc tế là tình hình trật tự
an ninh phải ổn định, thể chế chính trị phải cởi mở, chính quyền phải lương thiện
và hệ thống viễn thông phải hoàn chỉnh.
Người Việt Nam ta khá có khiếu về
ngành tin học. Đây là một ngành còn nhiều tiềm năng phát triển và còn cần rất
nhiều chuyên viên với giá cao. Tin học nếu được sử dụng đúng đắn cũng là dụng cụ
quản lý khách quan cho phép loại trừ nhiều nguyên nhân đưa tới tham nhũng. Nước
ta hiện đang có rất nhiều nhu cầu tin học hóa khu vực công có hy vọng được các định
chế quốc tế tài trợ. Chúng ta có thể lấy việc thực hiện các dự án này làm bàn đạp
để đào tạo một đội ngũ chuyên viên tin học giỏi và cập nhật về kỹ thuật. Triển
vọng càng cao vì các tiến bộ về truyền thông ngày càng cho phép thực hiện những
hợp đồng tin học trên khắp thế giới mà không cần xuất ngoại.
Nhà nước phải lấy làm mục tiêu nối kết
mọi gia đình vào mạng lưới Internet để sử dụng tối đa mạng lưới này như một
phương tiện thông tin, học hỏi, trao đổi và mua bán.
Chúng ta sẽ không thiết lập các khu
kinh tế với quy chế đặc biệt như kiểu "khu chế xuất" mà sẽ dành mọi
khuyến khích và dễ dãi cho các hoạt động kinh tế trên cả nước, với một luật
kinh doanh chung cho toàn lãnh thổ.
Đất nước ta may mắn là một quốc gia
duyên hải, các vùng đông dân đều không xa bờ biển và cũng không xa các cảng tốt.
Dựa vào ưu thế đó chúng ta sẽ thiết lập các khu công nghiệp trải đều trên khắp
lãnh thổ. Chính sách này đòi hỏi một đầu tư quan trọng cho cơ sở hạ tầng, giao
thông và truyền thông nhưng bù lại sẽ tiết kiệm được những tốn kém còn quan trọng
hơn về di dân, và đồng thời cũng tránh được nạn nhân mãn tại các thành phố lớn
mà các quốc gia đang mở mang đều gặp. Cần nhấn mạnh rằng mọi chính sách tương
lai đều hoàn toàn không mang tính cưỡng bách. Tái phối trí dân số và lực lượng
lao động là hiện tượng thường trực và tự nhiên trong mọi quốc gia, nhất là tại
các quốc gia đang phát triển, nhưng cách hay nhất vẫn là để người dân toàn quyền
chọn lựa nghề nghiệp và nơi sinh sống sau khi được thông tin đầy đủ về các cơ hội.
Đó là phương thức để trí tuệ cá nhân và sách lược quốc gia bổ túc cho nhau và điều
chỉnh lẫn nhau.
Điều kiện
thành công của cuộc chuyển hóa trọng đại này là phải có quan hệ tốt với mọi quốc
gia, nhất là các nước phát triển, và được chấp nhận trọn vẹn trong những khối hợp
tác lớn, như khối Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương.
7. Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường nội địa
Chúng ta sẽ lấy thị trường trong nước
làm bàn đạp để tiến lên. Với gần 100 triệu dân, nước ta là một thị trường rất lớn
và sự trao đổi giữa những người Việt Nam với nhau tự nó đã là một động cơ kinh
tế vô cùng quan trọng. Trong bất cứ một nền kinh tế nào, ngay cả trong kỷ
nguyên toàn cầu hóa, trừ trường hợp rất đặc biệt của các nước xuất khẩu dầu lửa,
thị trường nội địa bao giờ cũng quan trọng hơn hoạt động xuất nhập cảng. Thị
trường nội địa vừa quan trọng về khối lượng, vừa là nơi thử nghiệm cho hàng xuất
khẩu, lại vừa là kho trái độn cần thiết để đương đầu với những biến thiên của
thị trường quốc tế. Thị trường nội địa có mạnh thì hoạt động xuất cảng mới phát
triển được. Thị trường nội địa sẽ được kích thích do sự giải tỏa mọi cưỡng chế
về kinh doanh và sự thúc đẩy những chương trình công cộng quan trọng. Các ngành
nông nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp thực phẩm, dệt, may mặc, sản xuất đồ gia dụng,
vật liệu xây dựng, vật dụng thiết bị và trang trí nội thất sẽ là những bàn đạp đầu
tiên cho thị trường nội địa của ta.
Phát triển thị trường nội địa phải đi đôi
với phát triển kinh doanh nội địa. Chúng ta không có những nhà tư bản lớn cho
nên cần tích cực thúc đẩy, nâng đỡ và khuyến khích các xí nghiệp cá nhân và các
công ty tầm cỡ nhỏ, giúp họ phát đạt và gia tăng tầm vóc, dần dần trở thành những
nhà tư bản lớn.
Một bắt
buộc khẩn cấp của chính sách phát triển thị trường nội địa là phải tu sửa và tăng
cường hệ thống đường giao thông và truyền thông, các phương tiện chuyên chở và
truyền tin.
8. Không ngừng cảnh giác củng cố liên
đới xã hội
Trong các nhiệm vụ của nhà nước dân chủ
đa nguyên, nhiệm vụ trọng yếu nhất là bảo đảm liên đới xã hội. Trong căn bản
triết học của nó, chủ nghĩa đa nguyên tôn trọng mọi thành phần trong xã hội, do
đó nó không chấp nhận để một thành phần bóc lột và chà đạp một thành phần khác.
Chúng ta tôn vinh lợi nhuận như một giá trị và tìm kiếm lợi nhuận chủ yếu là để
có phương tiện thực hiện liên đới xã hội. Vả lại, một dân tộc không có liên đới
thì không còn là một dân tộc. Chúng ta không thể bỏ rơi những người yếu kém, sa
cơ lỡ bước, như một xã hội văn minh không thể từ khước một cái nạng cho người
thương tật. Chúng ta nhìn nhận sự bình đẳng về quyền và nhân phẩm của mỗi con
người trong xã hội và chúng ta cần dành những phương tiện để thực hiện sự bình đẳng
đó.
Liên đới xã hội là điều kiện bắt buộc để
giữ gìn sự bền chắc của nền tảng xã hội, bảo đảm sự tham gia tích cực và phấn
khởi của mọi người vào tương lai đất nước, tránh những xung đột có thể làm gẫy đổ
đà tiến của dân tộc về tương lai và đưa đến bạo loạn.
Trong thực tế, phát triển kinh tế thường
đẻ ra và làm trầm trọng thêm những chênh lệch trong xã hội. Nhiệm vụ trọng yếu
của nhà nước là ngăn chặn và làm giảm thiểu những nguyên nhân căng thẳng mà sự
phát triển, vì không thể nào hoàn toàn cân đối, chắc chắn sẽ đem lại.
Liên đới xã hội đòi hỏi một cố gắng bền
bỉ và thận trọng trong việc phân phối lợi tức quốc gia nhằm bênh vực những
thành phần yếu kém.
Liên đới xã hội đòi hỏi một hệ thống bảo
trợ xã hội đảm bảo những nhu cầu tối thiểu về thực phẩm và sức khỏe cho mọi người.
Liên đới xã hội đòi hỏi một hệ thống
giáo dục và đào tạo phổ cập và liên tục đảm bảo những cơ hội thăng tiến đồng đều
cho mọi công dân.
Nhìn một cách ngắn hạn liên đới xã hội
có thể là một gánh nặng cho quốc gia và một trở ngại cho phát triển kinh tế
nhưng, nhìn một cách dài hạn hơn và sáng suốt hơn, nó là một bắt buộc để đà
phát triển kinh tế có thể tiếp tục. Liên đới xã hội cũng là điều kiện tối cần
thiết để đảm bảo tình tự dân tộc và sự gắn bó của quốc gia.
Nhà nước dĩ nhiên đảm nhận nhiệm vụ
thực hiện liên đới xã hội. Nhưng nhà nước cũng sẽ đặc biệt khuyến khích xã hội
dân sự, qua các tổ chức thiện nguyện, góp phần tích cực vào công tác trọng đại đó.
Một phần ngân sách xã hội sẽ được sử dụng qua ngả xã hội dân sự. Các tổ chức
thiện nguyện sẽ được tài trợ, trong một tỷ lệ theo khả năng ngân sách, so với
nguồn tài nguyên mà họ đã động viên được từ quần chúng cho các công tác xã hội.
Việc tham gia tích cực của xã hội dân
sự vào cố gắng thực hiện liên đới xã hội vừa có tác dụng vận động sự đóng góp -tình
cảm cũng như vật chất- của quần chúng vừa có hiệu lực đặc biệt về mặt tinh thần.
Trước một văn phòng cứu trợ xã hội của nhà nước người cần được giúp đỡ có thể
chỉ gặp một công chức, nhưng tại một cơ quan thiện nguyện họ gặp một người tình
nguyện làm công tác xã hội vì niềm tin, họ gặp một người và một tấm lòng, sợi
dây liên đới xã hội và tinh thần phấn đấu vượt qua trở ngại chỉ có thể mạnh
thêm.
Công bằng xã hội tuyệt đối là điều
không thể có. Điều quan trọng là nhà nước coi liên đới xã hội là ưu tư thường
trực. Liên đới xã hội vừa cần thiết vừa tế nhị, chúng ta phải gìn giữ nó thật cẩn
trọng, coi nó như một cuộc chiến đấu giữ nước.
Tuy
nhiên chúng ta cần khẳng định rằng liên đới xã hội là nhiệm vụ của nhà nước với
sự hợp tác của xã hội dân sự chứ không phải là trách nhiệm của các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp ngoài bổn phận tôn trọng nhân phẩm của công nhân, tôn trọng luật
pháp của nhà nước và tôn trọng những hợp đồng đã ký kết với các công nhân, chỉ
có chức năng tạo ra lợi nhuận để đóng góp vào sự giàu mạnh của xã hội và để nộp
thuế cho nhà nước, để nhà nước có tài nguyên bảo đảm liên đới xã hội. Chúng ta khẳng định rằng liên đới xã hội
không thể can thiệp vào hoạt động kinh tế và trở thành một trở ngại cho các
doanh nghiệp.
9. Theo đuổi một "chủ nghĩa nước
nhỏ"
Chúng ta hiện nay là một nước rất thua
kém, yêu cầu cấp bách nhất của chúng ta là phát triển, bắt kịp các nước mở
mang. Do đó chính sách căn bản của Việt Nam trong giai đoạn này phải là chính
sách mà ta có thể gọi là một "chủ nghĩa nước nhỏ".
Chủ nghĩa nước nhỏ là gì? Nói một cách
giản dị, đó là nhẫn nhục hôm nay để lớn mạnh ngày mai.
Về mặt đối nội, chủ nghĩa nước nhỏ có
nghĩa là chúng ta sẽ không chia rẽ và xung khắc với nhau về những chủ thuyết
cao siêu, sẽ cùng nhau khiêm tốn nhận diện tình trạng thua kém của đất nước, sẽ
quý trọng, thương yêu và đùm bọc lẫn nhau để cùng dắt tay nhau ra khỏi bế tắc. Nhà
nước sẽ từ chối những chi tiêu có tính huênh hoang gây thanh thế để tập trung mọi
tài nguyên và sinh lực cho cố gắng ra khỏi tình trạng thua kém. Nhà nước sẽ
trân trọng bảo vệ và gìn giữ những thành quả ít ỏi đã đạt được. Nhà nước sẽ đặt
trọng tâm vào giáo dục và đào tạo, và sẽ đầu tư vào một nền giáo dục thực dụng
trước tiên.
Về mặt đối ngoại, chúng ta sẽ không
tranh giành một vai trò quốc tế nào, sẽ không có thái độ trong những tranh chấp
quốc tế trừ khi để bênh vực nhân quyền, lẽ phải, đạo đức và công pháp quốc tế. Chúng
ta sẽ cố gắng tạo một hình ảnh hiền hòa, khiêm tốn để được cộng đồng quốc tế chấp
nhận như một quốc gia có thể giao thương được, sẽ dứt khoát không can dự vào một
xung đột quốc tế nào. Tuy vậy khiêm tốn không đồng nghĩa với chấp nhận lệ thuộc.
Chúng ta sẽ xét lại những thỏa hiệp mà chính quyền cộng sản đã ký với nước
ngoài và bãi bỏ những thoả hiệp hoặc có tính lệ thuộc hoặc xúc phạm chủ quyền
và lợi ích dân tộc, trước hết là những thỏa hiệp dấm dúi mà nhân dân Việt Nam
không được thông báo.
Điều đáng lo ngại hiện nay là chúng ta
đang sống trong một khu vực có nhiều khả năng gây ra căng thẳng, thậm chí xung đột.
Chúng ta coi sự hiện diện quân sự tích cực của Hoa Kỳ trong vùng là một yếu tố
cần thiết để bảo đảm hòa bình và ổn vững, và chúng ta sẽ khuyến khích sự hiện
diện đó.
Chúng ta coi hợp tác với Hoa Kỳ, Nhật
và các nước dân chủ là một phúc lợi lớn không những mở ra cho ta những thị trường
lớn, đem lại những chuyển giao khoa học kỹ thuật quý báu mà còn giúp ta tiếp
thu cách tổ chức, suy nghĩ và làm việc của các xã hội tiên tiến. Chúng ta sẽ
thành thực hợp tác với họ và học hỏi nơi họ.
Với một chính sách đối ngoại khiêm tốn
và hòa bình chúng ta sẽ không cần một quân lực đông đảo. Với một chính sách đối
nội tôn trọng mọi quyền tự do và dựa trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc,
chúng ta sẽ không cần một bộ máy an ninh đồ sộ. Quân đội và cảnh sát vì vậy sẽ được
giảm tới mức tối thiểu, nhưng đầy đủ, để làm tròn nhiệm vụ của những công cụ
phi chính trị bảo vệ lãnh thổ, môi trường và trật tự an ninh.
Tinh thần
của chủ nghĩa nước nhỏ là nhìn nhận sự thua kém của mình và động viên tất cả
tài nguyên và sinh lực để đưa đất nước đi lên. Với dân số đông đảo và những con
người cần mẫn, lại được một vị trí thuận lợi, Việt Nam có tiềm năng lớn và có
quyền mong muốn một chỗ đứng vẻ vang trên thế giới nếu biết cố gắng kiên trì
trong một vài thập niên.
10. Thực hiện một chính sách đối ngoại
hòa bình và hợp tác song song với một chính sách láng giềng tốt
Trong một thế giới đầy tranh đua như
hiện nay các mối bang giao tốt là điều không thể thiếu. Chúng ta sẽ không bỏ lỡ một cơ hội nào để thiết
lập và tăng cường mọi liên hệ hợp tác với mọi quốc gia trên thế giới, trước hết
là với các quốc gia lân cận.
Đối với các nước phương Tây, đặc biệt
là Pháp và Hoa Kỳ, hai nước đã từng có những quan hệ phức tạp và xung động,
chúng ta bình thường hóa không những quan hệ ngoại giao mà cả quan hệ văn hóa
và tình cảm. Chúng ta còn rất nhiều để học hỏi nơi họ và cũng có rất nhiều để
trông đợi ở một sự hợp tác lưỡng lợi. Chúng ta cũng cần lưu ý đặc biệt đến những
quốc gia mà chính sách di dân còn dễ dãi hoặc có triển vọng dễ dãi để phát triển
cộng đồng người Việt hải ngoại càng đông đảo càng tốt, với mục tiêu trung hạn là
cứ mười người Việt Nam thì có một người tại các nước dân chủ phát triển. Một
chính sách đối ngoại hiếu hòa và khiêm tốn, đi song song với sự tận dụng khả năng
đóng góp của một cộng đồng Việt Nam hải ngoại đông đảo, thành đạt và gắn bó với
quê hương là căn bản của những cố gắng ngoại giao của chúng ta.
Nhưng gần hơn hết chúng ta phải củng cố
và tăng cường chỗ đứng của ta tại khu vực Châu Á và Thái Bình Dương đặc biệt là
trong lòng khối ASEAN. Trong lòng khối này chúng ta sẽ góp phần tích cực tăng cường
sự liên đới, hạ thấp dần những hàng rào văn hóa và mậu dịch, thúc đẩy sự hình
thành thực sự của một vùng trao đổi tự do. Chúng ta cần phấn đấu để tham gia khối
Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương và tận dụng mọi cơ hội của khối này để đất nước
ta có thể vươn lên thu ngắn dần sự chậm trễ.
Gần nhất, ta phải thắt chặt lại quan hệ
hợp tác với hai nước bạn láng giềng Lào và Campuchia đang ngày càng chịu ảnh hưởng
áp đảo hơn của Trung Quốc. Chúng ta đã là nạn nhân của một âm mưu chia để trị
xuất phát từ thời ngoại thuộc Pháp mà ngày nay ta phải phá vỡ. Biên giới của ta
với hai nước này không đổi từ hơn hai thế kỷ nay. Đó là những biên giới ổn vững
bậc nhất thế giới, làm chứng cho khả năng sống chung hòa bình giữa Việt Nam,
Lào và Campuchia. Nhưng chúng ta cũng cần dõng dạc tuyên cáo một chính sách hiếu
hòa thực sự và làm nhiều cố gắng ngoại giao để đánh tan những hiểu lầm do một
quá khứ còn khá mới để lại. Chúng ta cần long trọng tuyên bố với hai nước láng
giềng này rằng chúng ta tuyệt đối tôn trọng các biên giới hiện có và sẵn sàng
dành mọi dễ dãi về giao thông và thương cảng để họ có thể khai thông ra đại
dương. Chúng ta sẽ đề nghị với họ cùng hợp tác xây dựng các trục lộ giao thông
ra biển, và nếu có thể, tiến tới một thỏa ước tự do đi lại và di trú. Cả Lào và Campuchia đều cần đường ra biển qua
ngả Việt Nam nên sự hợp tác sẽ là điều tự nhiên nếu họ vững tin rằng Việt Nam
tôn trọng chủ quyền và lãnh thổ của họ. Việt Nam, Lào và Campuchia có nhiều triển
vọng để hình thành một khối hợp tác bình đẳng trong đó cả ba đều có lợi và đều
phát huy được thế mạnh kinh tế riêng của mình.
Đối với Trung Quốc chúng ta cần giải
quyết trong tinh thần hữu nghị những tranh chấp về lãnh hải và hải đảo để mở đầu
một giai đoạn hợp tác thực sự lành mạnh. Hai nước có chung một biên giới dài, đã
từng chia sẻ một văn hóa và cũng có rất nhiều tương đồng về cấu tạo nhân văn
cho nên sự hợp tác là một lẽ tự nhiên. Điều đáng lo ngại hiện nay là Trung Quốc
một mặt đang gia tăng sức mạnh quân sự và mặt khác biểu lộ một chính sách bá
quyền khu vực. Đối với Trung Quốc, chúng ta cần chứng tỏ một thái độ khiêm tốn,
hòa nhã nhưng kiên quyết bảo vệ chủ quyền trên lãnh thổ, vùng biển và các hải đảo.
Chúng ta có lý do để hy vọng rằng sự hiện diện quân sự tích cực của Hoa Kỳ và
chính sách quả quyết mới của Nhật trong vùng sẽ là một đảm bảo cho hòa bình và
an ninh. Chúng ta cũng có lý do để tin rằng Trung Quốc sẽ chọn lựa đường lối
hòa hoãn và hợp tác, nhưng hiện đại hóa khả năng tự vệ của chúng ta cũng là một
yếu tố khuyến khích Trung Quốc đi theo đường lối tốt đẹp đó. Trong ngắn hạn,
khi quan hệ giữa Trung Quốc và Đài Loan chưa rõ rệt, chúng ta sẽ chú trọng đặc
biệt vào sự phát triển các quan hệ hợp tác kinh tế với Đài Loan.
Chúng ta cần nhận định vai trò kinh tế
quan trọng của Nhật tại Châu Á và phải đặt quan hệ Việt - Nhật lên hàng một quốc
sách phát triển.
Sau
cùng chúng ta cũng cần có một nhận định sáng suốt và thực tiễn đối với các nước
thuộc Đông Âu và Liên Xô cũ. Các nước này là những thị trường đầy tiềm năng
trong đó chúng ta đã sẵn có nhiều người bạn, nhiều quan hệ và hiểu biết cần được
khai thác.
11. Thực hành một chính sách kiểm soát
dân số văn minh
Chúng ta hiện đã có một dân số gần 100
triệu dân, đứng hàng thứ 14 trên thế giới, với một diện tích rất hẹp, 330.000
cây số vuông. Đã thế tỷ lệ đất thực sự canh tác và sinh sống được của ta lại rất
thấp, chỉ ở mức một phần ba. Trong khi đó dân số của ta tiếp tục gia tăng hơn một
triệu người mỗi năm. Mặt khác khả năng kinh tế và mức độ chuyển hóa về công
nghiệp và dịch vụ của ta chưa cho phép dự trù những đầu tư lớn vào việc mở rộng
vùng đất sinh hoạt. Đà gia tăng dân số dù đã giảm trong những năm gần đây vẫn
còn một vấn đề lớn đòi hỏi một cách nhìn thông suốt. Một mặt, dân số tuy vẫn
gia tăng một cách đáng kể nhưng tỷ lệ gia tăng dân số không thể giảm một cách đột
ngột mà không tạo ra trong một tương lai gần một gánh nặng kinh tế do sự đảo
ngược tỷ lệ trẻ - già. Mặt khác, cho tới nay sự sút giảm của đà gia tăng dân số
đã chủ yếu đạt được với giá đắt là khiến chúng ta trở thành một trong những nước
có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới, với những hậu quả tai hại về tâm lý và xã
hội.
Kinh nghiệm của các chính quyền cộng sản
Việt Nam và Trung Quốc cho thấy là một chính sách hạn chế sinh đẻ quả quyết đến
độ dã man chỉ làm xuống cấp con người chứ không làm giảm dân số. Vấn đề cần được
giải quyết ở tận gốc rễ văn hóa và nhân sinh quan của nó. Trong giáo dục học đường
và đại chúng cần phổ biến các kiến thức về ngừa thai và bình thường hóa quan hệ
nam nữ, cần tách rời việc lập gia đình và có con cái với việc thỏa mãn nhu cầu
sinh lý.
Sinh đẻ nhiều cũng do hai nguyên nhân
khác mà ta cần khắc phục, đó là trình độ văn hóa và vai trò xã hội kém của phụ
nữ, và sự lo âu của tuổi già. Nâng cao trình độ văn hóa của phụ nữ và hội nhập
một cách tích cực phụ nữ vào sinh hoạt kinh tế xã hội là một đầu tư cần thiết để
chặn đà gia tăng dân số. Mọi kinh nghiệm trên thế giới đều chứng tỏ rằng càng
có trình độ văn hóa cao, càng tham gia tích cực vào sinh hoạt kinh tế, phụ nữ
càng có khuynh hướng tự hạn chế sinh đẻ. Kinh nghiệm cũng cho thấy rằng bảo đảm
một lợi tức tối thiểu cho người già, một bắt buộc của mọi xã hội văn minh, sẽ hạn
chế được một cách đáng kể đà gia tăng dân số vì con đông trước hết là một đảm bảo
cho tuổi già ở các nước thiếu an sinh xã hội. Phải săn sóc người già nếu không
muốn phải tiếp nhận thêm quá nhiều trẻ thơ mà chúng ta không có khả năng nuôi
dưỡng và giáo dục. Chính sách này sẽ tạo một tâm lý an toàn và chắc chắn sẽ làm
giảm mức sinh đẻ, nhất là với niềm tin là lợi tức bảo đảm cho tuổi già sẽ càng
ngày càng tăng với phát triển kinh tế.
Sau
cùng chúng ta cũng có quyền tin tưởng là đà gia tăng dân số sẽ giảm xuống trong
một xã hội văn minh không trọng nam khinh nữ đến độ phải đẻ cho đến khi có con
trai, một xã hội có thông tin đầy đủ và có cơ hội thăng tiến cho mọi người. Một
khi có đủ lạc quan để lập kế hoạch cho tương lai mình, các cặp vợ chồng sẽ tự
nhiên nhận thấy họ phải hạn chế số con cái.
12. Xây
dựng một hạnh phúc quốc gia phẩm chất ngay trong cố gắng
Những người cầm quyền cộng sản đã rất
dối trá khi nói rằng Việt Nam ngày nay là nước có thu nhập trung bình. Sự thực
trái hẳn. Chúng ta rất nghèo và ở rất dưới mức trung bình thế giới. Vào năm
nay, 2015, sản lượng bình quân mỗi đầu người trên thế giới là gần 11.000 USD mỗi
năm, tại nước ta ước lượng vừa phải là gần 1.500 USD, nghĩa là chỉ bằng 15% mức
trung bình thế giới. Chúng ta tụt hậu một cách bi đát. Ngay cả nếu từ nay chúng
ta đạt được mức tăng trưởng đều đặn cao hơn 2% so với thế giới, một thành tích
khả quan, thì cũng phải một thế kỷ nữa chúng ta mới thực sự trở thành một nước
trung bình. Nhưng chúng ta có thời giờ đó không trước khi sự chán nản và thất vọng
làm tan rã đất nước? Chắc chắn chúng ta không có thời giờ đó, chúng ta phải bắt
kịp sự chậm trễ trong vòng một thế hệ. Đó là một thách đố rất lớn.
Thách đố càng lớn hơn vì tất cả mọi yếu
tố đều bất lợi. Xã hội băng hoại, lòng người thất vọng và ly tán, tinh thần dân
tộc xuống rất thấp, môi trường ô nhiễm, đạo đức suy đồi, các băng đảng tội phạm
hoành hành trong khi xã hội dân sự vắng mặt. Di sản của chế độ cộng sản thật là
kinh khủng. Chúng ta sẽ phải động viên những cố gắng cực kỳ lớn về mọi mặt
trong khi sẽ còn phải sống với sự nghèo khổ và thua kém trong một thời gian khá
dài.
Trong hoàn cảnh đó chúng ta không có
chọn lựa nào khác hơn là xây dựng trên đất nước Việt Nam, và trên quy mô quốc
gia, một hạnh phúc lấy phẩm chất làm chính ngay trong khi còn đang phải phấn đấu
cam go để đạt tới sự sung túc. Đó là một hạnh phúc mà ta có thể gọi là một hạnh phúc quốc gia phẩm chất. Một cách cụ
thể hạnh phúc đó thể hiện qua một bối cảnh quốc gia bình yên và phấn khởi trong
đó con người dù chưa sung túc nhưng có đầy đủ tự do, được trân trọng và được bảo
đảm an ninh, nhân phẩm, quyền lợi, sức khỏe và cơ hội thăng tiến trong một xã hội
hài hòa, bình yên và liên đới, với một môi trường thân thiện. Đó là điều kiện để
mọi người có thể chấp nhận những khó khăn của hiện tại và nỗ lực để vươn lên; cố
gắng càng lớn thì càng phải được chia sẻ đồng đều và con người càng cần được khích
lệ. Xã hội Việt Nam phải có hình ảnh của một gia đình hạnh phúc vì hòa thuận và
vui vẻ, chia sẻ một cách hợp tình hợp lý những hy sinh cũng như những thành tựu
đạt được, dưới một mái nhà giản dị nhưng sạch sẽ và ngăn nắp, trong niềm tin là
ngày mai sẽ hơn hôm nay.
Điều quan trọng nhất cũng là điều có
thể làm ngay vì không đòi hỏi những chi phí lớn. Đó là cải thiện môi trường, cảnh
quan và các nơi công cộng. Do văn hóa truyền thống chúng ta chưa ý thức được tầm
quan trọng của môi trường dù vấn đề đã rất nghiêm trọng và đã ảnh hưởng trực tiếp
lên mọi người. Sự thiển cận đã khiến các cấp lãnh đạo nối tiếp nhau không ý thức
được rằng phát triển, kể cả phát triển kinh tế, chỉ có thể bền vững nếu môi trường
được bảo vệ. Các nhà máy ô nhiễm gây thiệt hại trong lâu dài cho xã hội nhiều lần
lớn hơn lợi tức ngắn hạn mà chúng tạo ra. Tham nhũng là nguyên nhân chính cho
phép phá hoại môi trường; sự vắng mặt của xã hội dân sự là một nguyên nhân
khác. Thực trạng kinh ngạc là cho tới nay nước ta vẫn chưa có một hiệp hội bảo
vệ môi trường nào dù môi trường đã bị tàn phá tới mức độ nguy kịch và vẫn còn
tiếp tục bị tàn phá, trong khi tại các nước văn minh giầu mạnh bảo vệ môi trường
đã trở thành mục tiêu của vô số hiệp hội, có cả những chính đảng lấy môi trường
làm ưu tư cao nhất. Đối với thế giới ngày nay môi trường đã trở thành một vấn đề
chính trị nền tảng.
Chúng ta không thể dung túng những nhà máy không có
xử lý khói và chất thải nhân danh lợi ích kinh tế. Chúng ta cũng phải nghiêm cấm
việc chặt phá rừng và lấp, lấn ao hồ. Các tiện nghi vệ sinh công cộng phải đầy đủ.
Hệ thống thoát nước phải hoàn chỉnh. Xây dựng phải có quy hoạch, mỗi khu vực chỉ
được xây dựng theo một vài kiểu nhà với một số mầu sắc. Phải tăng cường các phương
tiện chuyên chở công cộng, đánh thuế môi trường trên ôtô và xe máy, khuyến khích
sử dụng xe đạp; cấm xe có động cơ xăng dầu tại trung tâm các thành phố và những
khu đông người; trừng phạt nghiêm khắc những công ty xây dựng cầu đường thi công
gian trá. Chúng ta sẽ bãi bỏ dự án Bô-xít Tây Nguyên, đình chỉ các dự án điện hạt
nhân, ngay cả những dự án đang thi công, loại bỏ điện hạt nhân cho tới khi các
kỹ thuật xử lý phế liệu thỏa đáng đã tìm được và nước ta đã có đầy đủ khả năng
để bảo đảm an toàn tuyệt đối của các lò phản ứng. Những biện pháp đó tuy có thể
làm giảm lợi nhuận nhất thời của một số công ty nhưng sau cùng vẫn có lợi ích
kinh tế lớn vì bảo vệ và khuyến khích đầu tư trong nhiều ngành khác, nhất là ngành
du lịch, và điều quan trọng hơn là bảo vệ sức khỏe và cuộc sống yên vui. Ô nhiễm
là một vi phạm nghiêm trọng tới quyền con người bởi vì nước sạch, không khí
trong lành, không gian yên lặng là những quyền con người cơ bản nhất.
Xây dựng một xã hội hài hòa, bình yên
và liên đới không đòi hỏi những chi phí lớn vượt khả năng quốc gia như nhiều
người lầm tưởng. Chúng không thấm vào đâu so với số tiền mà những quan chức
tham ô cướp đoạt của đất nước, một chính quyền trong sạch sẽ có phương tiện. Điều
mà nó đòi hỏi là điều mà chúng ta có thể làm được ngay cả khi chưa giầu. Đó là
luật pháp tuyệt đối lương thiện, minh bạch và được tôn trọng. Đó là một chính
quyền quyết tâm không thỏa hiệp với tham nhũng được điều hành bởi những người có
kiến thức, có tầm nhìn và lấy phục vụ đất nước làm lý tưởng của đời mình, một
chính quyền không thể bị ngờ vực là gian trá. Nhân dân Việt Nam đã quá quen với
những hy sinh và chịu đựng cho nên có thể chấp nhận những cố gắng rất phi thường;
họ cũng có thể tha thứ cả những sai lầm, với điều kiện là tin rằng những người
lãnh đạo đã sai nhưng không phải là những người ngu dốt và gian trá mà chỉ sai vì
mọi người đều có thể sai trên những quyết định khó khăn và phức tạp. Chúng ta có
thể có những người lãnh đạo như thế, nhưng họ chưa có cơ hội vì chưa có sức mạnh
tập trung của đội ngũ. Cố gắng chính của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên từ trước, bây
giờ và sau này là phát hiện, tập trung lại và đào tạo thêm những con người như
thế mà đất nước đang cần.