Một Châu Á Đang Chờ Donald (Asia Sentinel-David Brown)
Có lẽ Washington có thể thực hiện được
điều này, nếu Bắc Kinh thấy kết quả – đối tác kinh tế tôn trọng lẫn nhau
– thật hấp dẫn đến nỗi việc bán phá giá các sản phẩm dư thừa, thống trị
các tuyến đường biển hay bắt nạt các nước láng giềng nhỏ hơn trở thành
một sự chuyển hướng tương đối nhàm chán, đối với Bắc Kinh.
Khi Donald J. Trump tuyên thệ nhậm chức
Tổng thống Hoa Kỳ vào ngày 20 tháng Giêng, chúng ta sẽ vẫn còn phải
phỏng đoán tweet nào của ông báo hiệu ý định thực sự và tweet nào chỉ
đơn giản là chiến thuật, san bằng sân chơi trước khi tiến tới thỏa
thuận, rõ ràng là phương cách ưa thích của Trump trong kinh doanh.
Dựa trên những bằng chứng cho đến nay,
các nhà quan sát chỉ có thể hy vọng rằng Tổng thống đắc cử và tùy tùng
của ông ta sẽ thực thi cách tiếp cận chính sách chặt chẽ đối với khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương. Rõ ràng đội ngũ mới ở Washington có ý định
thay đổi hành vi của Bắc Kinh. Chắc chắn Trung Quốc đã chú ý tới, đến
nỗi đưa tàu sân bay Liêu Ninh mới vào eo biển Đài Loan.
Tổng thống đắc cử đã nói chuyện về việc
xây dựng lực lượng Hải quân Mỹ và ông đã gọi điện thoại cho Tổng thống
Đài Loan Thái Anh Văn. Và, cũng trong thời gian đó còn một đám đông
tranh nhau để được sự đề cử của đảng Cộng hòa, Trump đã khẳng định rằng
Trung Quốc “đang xây dựng một pháo đài, loại mà thế giới có lẽ chưa từng
nhìn thấy” ở Biển Đông “bởi vì họ không tôn trọng tổng thống (Obama)
của chúng ta”.
Thật kinh ngạc khi vào ngày 11 tháng
Giêng mới đây, Rex Tillerson, được Trump chọn vào chức Bộ trưởng Ngoại
giao, nói với các nghị sĩ rằng “chúng ta phải gửi Trung Quốc một tín
hiệu rõ ràng rằng, trước hết, việc xây dựng đảo phải ngưng lại, và thứ
hai, quyền sử dụng đường đi đến các đảo này cũng sẽ không được cho
phép.”
Tillerson, Giám đốc điều hành lâu năm
của công ty dầu khí khổng lồ Exxon-Mobil, đã không giải thích làm cách
nào để thực hiện điều này. Phản ứng tức thời từ Trung Quốc có vẻ thách
thức, như thường thấy.
(Gần như đơn độc trong số các công ty
dầu khí đa quốc gia, Exxon đã bất chấp sự đe dọa của Trung Quốc sẽ loại
trừ họ ra khỏi các công trình trong hoặc ngoài khơi Trung Quốc nếu vẫn
cố làm việc với Việt Nam trong vùng ‘Biển Nam của Trung Hoa (tức là Biển
Đông’). Conoco-Phillips, Chevron và BP thoái vốn khỏi các dự án khoan
dầu ở VN vài năm trước đây, nhưng Exxon, trong sự hợp tác với
PetroVietnam, tiếp tục thăm dò những lô dầu khí ngoài khơi bờ biển miền
trung của Việt Nam.)
Các nhà quan sát Mỹ ở Trung Quốc có thể
hy vọng rằng, lời hứa của Trump sẽ cứng rắn với Trung Quốc trên vấn đề
thương mại chỉ cùng lắm là lời hô hào trong chiến dịch tranh cử. Thật
vậy, nếu phản bác Trung Quốc là ý định thực sự của tổng thống mới, họ
chắc phải thắc mắc tại sao ông cũng cam kết sẽ “rút Hoa Kỳ ra khỏi Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương”, một “hiệp ước thương mại của thế kỷ
21” loại trừ Trung Quốc, được cho là nước thiên về chủ nghĩa trọng
thương mại.
Chúng ta biết rằng Donald Trump không
kiêng nể những tiền lệ. Đặc biệt, ông ta sẽ phá rào trong chính sách
ngoại giao thương mại. Trong sự cam kết nghiêm túc sẽ trừng phạt Trung
Quốc do “ăn cắp công ăn việc làm của Mỹ”, chúng ta hy vọng tổng thống
mới sẽ hành xử cứng rắn. Điểm số năm trong kế hoạch cải cách chính sách
thương mại bảy điểm của Trump là sử dụng thuế quan và các biện pháp
trừng phạt để buộc Trung Quốc phải để cho đồng nhân dân tệ tăng lên theo
giá thị trường. Điểm số sáu tố cáo Trung Quốc trợ cấp cho các công ty
nhà nước khổng lồ của họ tại Tổ chức Thương mại Thế giới.
Có thể nào một kết quả tốt đến từ tất cả
các điều này? Phải chăng sự chú trọng ngây thơ của tân tổng thống về
cán cân thương mại song phương bất quân bình với Trung Quốc chính là
bằng chứng rằng ông ta không hiểu kinh tế thế giới hoạt động trong thế
kỷ 21 như thế nào? Hay phải chăng sự chú trọng ngây thơ đó chứng tỏ nhận
thức của ông rằng nhiều, nếu không phải là đa số, người Mỹ xem “Trung
Quốc” như một biểu tượng cho một nền kinh tế toàn cầu hóa không ngừng
nghỉ? Phải chăng Trump thắng cử vì ông giỏi hơn so với tất cả các đối
thủ, hiểu rằng mặc dù những người ủng hộ ông có thể có khái niệm mơ hồ
về ‘toàn cầu hóa,’ nhưng họ khá chắc chắn rằng sự toàn cầu hóa ấy đang
hủy hoại cuộc sống của họ?
Tôi đã lập luận trong một bài báo đăng trên Asia Sentinel trước
đây rằng một khi đảm nhận trọng trách lèo lái con thuyền quốc gia, ông
Trump có thể, và không ngượng ngùng, sẽ đạo diễn một cuộc tái thương
lượng mang tính thẩm mỹ về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương. “Sửa
đổi” TPP, là sản phẩm của 6 năm đàm phán khó khăn, sẽ đỡ gây tranh cãi
hơn, thay thế với một loạt ít nhiều các hiệp định thương mại tự do song
phương. Thủ tướng Abe của Nhật Bản sẵn sàng giúp đỡ. Thành viên nào
trong số 11 nước “dám nói xấu nhà vua” nếu ông ta đi vào con đường cứu
vớt hiệp ước mang tính cột mốc?
Một chiến lược táo bạo hơn cho đội ngũ
của Trump có thể là thương lượng được một thoả thuận to lớn với Trung
Quốc về quỹ đạo chính trị-kinh tế của Châu Á. Đây là một vấn đề mà họ
nên tìm kiếm. Bằng cách lấy lại một số lời lăng mạ vô cớ Bắc Kinh của
chính quyền Obama, rất có thể là Tổng thống Trump và đội ngũ có thể
thiết lập lại mối quan hệ Washington-Bắc Kinh theo chiều hướng tích cực.
Giống như tất cả những người tiền nhiệm
sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, chính quyền Obama muốn lãnh đạo, không
phải tham gia vào một cuộc diễu hành. Quốc gia đã thiết kế cấu trúc
toàn cầu sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai đã tỏ ra ít quan tâm đến các
sáng kiến đa phương của những nước khác. Không kém gì những người tiền
nhiệm, các nhà đàm phán của Tổng thống Barack Obama vẫn thiên về hội
chứng “không được làm ở đây”. Sự xấu xa này có ảnh hưởng đến lập trường
của họ vào ba sáng kiến hiện nay. Hai là của Trung Quốc và thứ ba bắt
nguồn với nhóm 10 quốc gia ASEAN.
OBOR – Một vành đai, Một con đường – là
kế hoạch 4 nghìn tỷ Mỹ kim của Trung Quốc để cải thiện đường biển và đất
liền giữa Đông Á và Châu Âu và tất cả những địa điểm liên quan. AIIB là
Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á – một sự bổ sung ‘sản xuất ở Bắc
Kinh’ cho hàng loạt các các tổ chức đa phương từng cứu xét và tài trợ
cho những dự án phát triển kinh tế. RCEP, Hiệp ước Đối tác Kinh tế Toàn
diện Khu vực, là chương trình cắt giảm thuế thông thường mà ASEAN đã đề
cập tới vào cuối năm 2012. Gần đây, hiệp ước này nổi lên như hiệp định
thương mại đa quốc gia, gồm Trung Quốc. Khi Trump và sau đó là đối thủ
đảng Dân chủ của ông, Hillary Clinton, càng muốn quăng TPP vào thùng
rác, RCEP càng trở nên giống như một nơi trú ẩn an toàn cho các nhà
thương mại tự do khu vực.
Mười sáu nước – 10 nước ASEAN và Trung
Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand, Hàn Quốc và Ấn Độ – đã đàm phán
RCEP từ năm 2012. Hiệp ước bắt đầu như một đề xuất để mang lại trật tự
cho một mớ hỗn độn các hiệp định thương mại tự do song phương chồng
chéo, nhưng dần phát triển trở nên có tầm vóc và tham vọng. Từ đầu đến
cuối, Mỹ đã hạ mình về bữa tiệc mà họ không được mời. Các viên chức về
chính sách thương mại của Tổng thống Obama cho rằng, kế hoạch RCEP
“không thực sự là một thỏa thuận thương mại”, vì hạn chót được đưa ra
về vấn đề tuân thủ là bất định. Họ còn cho rằng RCEP không ngăn cản sự
thiên vị phía chính quyền đối với các doanh nghiệp nhà nước, cũng chẳng
đáp ứng tiêu chuẩn của thế kỷ 21 về quyền lao động và việc bảo vệ môi
trường. Có lẽ thế, nhưng nếu TPP chết, RCEP trở thành trò chơi duy nhất
còn lại trong khu vực.
Nếu chính quyền Trump thể hiện sự quan
tâm thân thiện trong việc đàm phán RCEP, họ có thể tiếp sức cho những nỗ
lực của một số đối tác đàm phán RCEP nhằm thúc đẩy các tiêu chuẩn cao
hơn về sự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và tiến trình giải quyết tranh
chấp một cách hiệu quả. Họ có thể trợ giúp cho những nỗ lực để hình
thành các quy định chung về vấn đề xuất xứ, sẽ giúp việc hợp nhất những
chuỗi cung ứng (supply chains) xuyên biển giới của các thành viên.
Phải rồi! – Tổng thống Trump không thích
các hiệp định thương mại đa phương. Phải chăng sẽ giúp thức tỉnh ông ấy
nếu RCEP được hiểu như là một viên gạch nền tảng trong một nỗ lực lớn
hơn nhiều, sự hợp nhất kinh tế của Âu Á?
OBOR và AIIB nhắm xây dựng cơ sở hạ tầng
về giao thông vận tải, chuyển tải điện lực và thông tin liên lạc của cả
vùng Âu Á. Trên nguyên tắc, có gì không thích về ý tưởng này? Trung
Quốc có nhiều doanh nghiệp nhà nước có kỹ năng cao trong việc xây dựng
đường cao tốc, đường sắt cao tốc, đường ống, bến cảng, trạm điện lực và
đường dây cáp quang. Các công ty Mỹ có cùng nhiều kỹ năng tương tự, cũng
như những kỹ năng khác. Một số doanh nghiệp xây dựng thuộc các nước thứ
ba cũng vậy. Phải chăng cùng làm việc với nhau để kết nối các dấu chấm
xuyên Âu Á có thể là một thắng lợi cho tất cả các bên liên quan?
Mặc dù vậy, các viên chức chính quyền
Obama vẫn gạt bỏ những đề án của Trung Quốc về “Con đường tơ lụa mới”
(OBOR) và Ngân hàng Cơ sở Hạ tầng Á Châu của họ. Theo họ, Trung Quốc
không thực sự có đủ năng lực để dẫn đầu các đề án như vậy, ngụ ý với
ngôn ngữ cử chỉ rằng Bắc Kinh vẫn không đủ nhân ái, không có tư tưởng đủ
rộng rãi, và không đủ nhạy cảm về văn hóa. Lập luận của Mỹ lần này rơi
vào khoảng không. Những người bạn và đồng minh của Mỹ đã không xếp hàng
theo sau; ngược lại, tất cả, ngoại trừ Nhật Bản, đã vội vã tham gia vào
AIIB.
Đúng vậy, kinh tế Trung Quốc đang gặp
rắc rối do thặng dư lớn trong các ngành công nghiệp trọng yếu như thép
và xi măng. Trung Quốc có một kho dự trữ khổng lồ về ngoại tệ. Bắc Kinh
thiết kế AIIB và OBOR để tạo ra lối thoát cho cả hai vấn đề. Họ xem các
sáng kiến này như chìa khóa để mở nguồn cung ứng tài nguyên thiên nhiên
(chính là dầu khí) mà kinh tế phải có để tiếp tục phát triển. Và, tất
nhiên, Trung Quốc muốn chứng tỏ khả năng của mình, xây dựng tầm vóc và
mở rộng ảnh hưởng. Kẻ ham muốn quyền lực nào không muốn vậy?
Gal Luft viết trên tờ Foreign Policy
tuần này rằng “sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng của thế giới, đặc biệt ở các
nước đang phát triển, là đáng báo động. Đã bước sang thập niên thứ hai
của thế kỷ 21, một phần ba nhân loại vẫn còn thiếu điện thường trực và
vệ sinh cơ bản; hơn một tỉ người không có dịch vụ điện thoại đáng tin
cậy”. Nói cách khác, còn rất nhiều việc để nhiều nước làm.
Vậy thì tại sao chính quyền Trump không
nghĩ tới ý tưởng hỗ trợ chương trình OBOR của Trung Quốc và tham gia
AIIB? Hội nhập các nền kinh tế của Âu Á và đưa họ vào thế kỷ 21 không
cần phải là trò chơi kẻ được người mất và Hoa Kỳ không cần phải là người
đứng đầu đội bóng. Thực hiện đúng, OBOR có thể triệt để cải thiện phúc
lợi của rất nhiều người trong khu vực trung tâm rộng lớn của đại lục.
Đây là một công việc khổng lồ, quá lớn cho một mình Trung Quốc, có hoặc
không có sự giúp đỡ từ bàn tay vô hình của thị trường. Thách thức trước
mắt là để Bắc Kinh, với sự giúp đỡ của Washington và Moscow, xây dựng
một cái lều lớn – đủ lớn để phục vụ cho các tham vọng kinh tế của tất
cả, bao gồm công ty của Ấn Độ và Nhật Bản, Australia và Âu Châu nữa.
Từ quan điểm chiến lược, kế hoạch đầy
tham vọng của Trung Quốc rõ ràng là mối quan tâm lớn của Nga và Ấn Độ.
Tầm nhìn OBOR cũng có vấn đề từ khía cạnh phát triển, trừ phi Bắc Kinh
cải tiến trò chơi của họ. Các công ty nhà nước của họ dường như điếc
trong sự tôn trọng văn hóa địa phương, quyền lao động và bảo vệ môi
trường. Trong rất nhiều dự án kinh doanh ở nước ngoài, họ hối lộ nhiều,
kêu giá thầu thấp và làm việc kém chất lượng.
Có thể hình dung, Trung Quốc sẽ học từ
từ, và dần trở nên bức tường thành của hiệp hội toàn cầu. Mọi nước khác,
và đặc biệt là Mỹ, có lý do để hỗ trợ sự tiến hóa như vậy.
Cũng không phải là quá xa vời. Cách đây
không lâu, công nhân ngành xe hơi của Mỹ đã sử dụng búa tạ đối với
Toyota. Khi đó, các nhà đàm phán thương mại Mỹ lên lớp với đối tác Nhật
Bản, một mặt, về sự ngoan cố của Nhật trong chuyện chú tâm vào xuất khẩu
các sản phẩm được cho là có chất lượng cao, và, mặt khác, ngăn chặn
hàng hóa nước ngoài nhập vào.
Giống như những hô hào của GS Peter
Navarro, cố vấn của Trump, gần đây về Trung Quốc, diều hâu thương mại
thời đó đã cảnh báo Tổng thống (Reagan, và sau đó là Bush cha) rằng Nhật
Bản đang giành phần ăn trưa của Mỹ. Đang ở trên cao của “kinh tế bong
bóng”, Tokyo không có tâm trạng để lắng nghe lời khuyên nhủ của người Mỹ
về cải cách cơ cấu, cho đến khi, vào năm 1992, bong bóng nổ tung.
Cần phải mất một phần tư thế kỷ với
nhiều nỗ lực để hồi sinh và tái cơ cấu nền kinh tế Nhật Bản. Trớ trêu
thay, bây giờ chính Tokyo là nước sẵn sàng nhất để hợp tác với Mỹ nếu
Washington lôi kéo Bắc Kinh vào cuộc đối thoại về mục đích và tiêu chuẩn
phát triển. Có lẽ cả những người của Trump và đối tác Nhật Bản có thể
bắt đầu bằng việc thừa nhận rằng Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát
triển Á Châu dạo nầy có khuynh hướng giảng thuyết nhiều hơn cho vay tiền
xây dựng.
Nếu Tổng thống Trump quan tâm đến ảnh
hưởng cách làm việc của Trung Quốc, Washington phải đặt lên bàn một số
năng lực sáng tạo, triển khai theo cách thức khuyến khích sự tưởng tượng
của Trung Quốc và làm giảm bớt sự nghi ngờ về động cơ của Mỹ. Bắc Kinh
có thể phản ứng bằng cách nhìn nhận rằng viễn tượng hội nhập Á-Âu là quá
rộng lớn và quá táo bạo, đúng vậy, họ thực sự cần đối tác nước ngoài và
kỹ năng của họ góp phần vào kế hoạch. Sau đó, bầu trời là giới hạn.
Sẽ không dễ dàng để có được sự “đồng ý”
trong cuộc đối thoại với Bắc Kinh về các vấn đề sẽ xác định phần còn lại
của thế kỷ. Tuy nhiên, việc ông Trump nhậm chức Tổng Thống làm cho điều
này có khả năng xảy ra. Mục tiêu của các nhà đàm phán của Mỹ nên có
tính cách thực dụng và hợp tác trong tinh thần xây dựng, được hình thành
bởi những quy tắc tạo nên một sân chơi bình đẳng cho tất cả các nước
tham gia vào sáng kiến OBOR.
Đó là một kết cuộc khả dĩ vì Trump và
những người cố vấn cho ông về Châu Á đã xé rách kịch bản cũ. Hầu như bất
cứ điều gì cũng có thể trong năm đầu tiên của nhiệm kỳ Trump. Được dẫn
đầu bởi Đại diện Thương mại Mỹ Bob Lighthizer, người với vai trò phó đại
diện đàm phán thương mại Mỹ trước đây 25 năm đã dàn dựng một cấu trúc
đối thoại tương tự với đối tác Nhật Bản, đội ngũ mới sẽ cố gắng làm cho
hình tròn thành vuông trở lại. Họ sẽ nhắm bảo vệ lợi ích của Mỹ trong
vùng Âu, Á ngày càng hợp nhất và năng động khuyếch trương, trong khi vẫn
giữ cam kết của tổng thống mới trong việc cứng rắn với Trung Quốc.
Có lẽ Washington có thể thực hiện được
điều này, nếu Bắc Kinh thấy kết quả – đối tác kinh tế tôn trọng lẫn nhau
– thật hấp dẫn đến nỗi việc bán phá giá các sản phẩm dư thừa, thống trị
các tuyến đường biển hay bắt nạt các nước láng giềng nhỏ hơn trở thành
một sự chuyển hướng tương đối nhàm chán, đối với Bắc Kinh.
David Brown, cựu viên chức ngoại giao, viết thường xuyên về Việt Nam và những chủ đề khác cho báo điện tử Asia Sentinel.
Dịch giả: Trần Văn Minh