Nhìn lại những chính sách hội nhập cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung - 4 (Nguyễn Văn Huy)

D. Chính sách Thượng vụ thời Việt Nam Cộng Hòa : Cố gắng tìm một mô thức sống chung

Hiệp định Genève 1954 mở đầu một giai đoạn hợp tác mới giữa người Thượng và người Kinh trên cao nguyên. Nhưng sự hợp tác này đã diễn ra không tốt đẹp như mong muốn, người Kinh chưa được chuẩn bị để sinh hoạt bình đẳng với người Thượng và ngược lại.

Bất hạnh lớn của người Thượng trong giai đoạn 1954-1975 là nơi sinh trú của họ là địa bàn chiến lược quan trọng trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai, nhiều chiến lược gia gọi đó là nóc nhà ba nước Đông Dương, bất cứ phe nào làm chủ địa bàn chiến lược này là làm chủ ba nước Đông Dương cũ : Nam Kỳ, Cambodia và Lào. Cộng đồng người Thượng do đó là mục tiêu lôi kéo của những thế lực đang tranh chấp để chống lại phe kia. Tùy theo những lượng định thời cuộc khác nhau, cộng đồng người Thượng đã có những phản ứng khác nhau để rồi dẫn đến cùng một hậu quả : không có tiếng nói trên chính quê hương của mình.


Một gia đình người Mạ ở Đà Lạt năm 1925

1. Chính sách Thượng vụ thời Đệ nhất Cộng Hòa : Kinh Thượng chưa được chuẩn bị để sống chung với nhau

Cuối tháng 7/1954, thủ tướng Ngô Đình Diệm đề nghị hủy bỏ qui chế Hoàng Triều Cương Thổ và được quốc trưởng Bảo Đại chấp thuận ngày 10/8/1954.

Năm sau, ngày 11/3/1955, Bảo Đại phê chuẩn Dụ số 21 sát nhập Hoàng Triều Cương Thổ vào lãnh thổ Việt Nam và đặt khu vực này dưới quyền quản trị của Việt Nam Cộng Hòa (trong thực tế chỉ Xứ Thượng miền Nam mà thôi vì Xứ Thượng miền Bắc thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa). Cùng ngày, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ban hành Sắc Lệnh số 61 thành lập Tòa Đại Biểu Chính Phủ thay thế Tòa Khâm Sứ, bổ nhiệm ông Vĩnh Dự làm đại biểu chính phủ (tỉnh trưởng) tại Buôn Ma Thuột và ông Tôn Thất Hối làm đại biểu tại Đà Lạt.

Người Thượng chưa được chuẩn bị để sống chung với người Kinh. Cao nguyên miền Nam vào năm 1955 có khoảng 700.000 dân Thượng, đông hơn dân số Kinh vào thời điểm đó nhưng người Thượng chỉ đảm nhiệm những vai trò thứ yếu hay không có vai trò nào cả.

Quyết định sáp nhập này gây bất mãn trong giới trí thức Thượng do Pháp đào tạo. Trong một buổi họp mặt đầu năm 1955 giữa những trí thức Thượng, tổ chức tại Buôn Ma Thuột, những người tham dự quyết định thành lập Mặt Trận Giải Phóng Người Thượng (FLM – Front de Libération des Montagnards) và đưa ông Y Mot Nie Kdam lêm làm Chủ tịch và ông Y Thih Eban chức Tổng thư ký, cả hai là người Rhade. Tháng 3/1955, Y Thih Eban viết thư yêu cầu Thủ tướng Ngô Đình Diệm thỏa mãn ba nguyên vọng của người Thượng : 1. Tôn trọng phong tục, tập quán và tín ngưỡng của người thiểu số ; 2. Thi hành chính sách bình đẳng giữa người Kinh và người Thượng ; 3. Trả lại đất đai của người Thượng bị tịch thu bởi chính quyền Sài Gòn và di dân Việt.

Để trả lời, ngày 12/6/1955, Thủ tướng Diệm tổ chức một cuộc kinh lý chính thức lên Buôn Ma Thuột yêu cầu chính quyền địa phương tổ chức một lễ tuyên thệ trung thành với chính phủ của các chức sắc Thượng, nhưng một số trí trí thức Thượng từ chối tham dự. Cùng thời gian, chính phủ thuyên chuyển Trường Quốc Gia Hành Chánh từ Đà Lạt về Sài Gòn, trong đó có 3 thanh niên Thượng đang theo học : Y Dhat Nie Kdam, Y Chon Mlo Duon Du và Rcom Rock. Tháng 8/1955, Trường Trung học Pháp (Collège français) tại Buôn Ma Thuột chuyển sang chương trình giảng dạy bằng tiếng Việt, một số học sinh Thượng phải bỏ học vì không đủ trình độ Việt ngữ, một số khác được chuyển về trường trung học Pháp tại Đà Lạt (Lycée Yersin), đó là các ông K’briuh, Y Bun Sur, Y Gum Buon Ya và Nay Ba.

Ngày 10/8/1955, Pháp rút quân khỏi cao nguyên, chấm dứt chính thức chế độ Hoàng Triều Cương Thổ. Thành phần trí thức và sĩ quan Thượng tin rằng sau khi tiếp thu cao nguyên, họ sẽ được chính phủ Ngô Đình Diệm trọng dụng. Nhưng thực tế đã không xảy ra như vậy, tất cả những chức vụ chỉ huy đều do những viên chức gốc Kinh từ đồng bằng lên nắm giữ. Những đơn vị quân đội Thượng (Sư đoàn 4 bộ binh, 7 tiểu đoàn cơ động cùng những đơn vị tác chiến khác, khoảng 10.000 người) đặt dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Những cơ quan hành chánh, giáo dục và y tế đặt dưới quyền quản trị của Tòa Đại Biểu Chính Phủ.

Giọt nước đã làm tràn ly là diễn văn của thủ tướng Ngô Đình Diệm đọc sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 23/10/1955 thay cựu hoàng Bảo đại quản trị Hoàng Triều Cương Thổ (đúng ra là Xứ Thượng miền Nam). Theo đó, thủ tướng Diệm tuyên bố hủy bỏ đặc quyền sở hữu đất đai (polan) của người thiểu số, bãi bỏ các tòa án phong tục, cấm giảng dạy thổ ngữ trong trường học, đóng cửa các cơ sở của Nha Giáo Dục Miền Thượng và đưa di dân Việt lên cao nguyên lập nghiệp. Một phong trào chống đối ngấm ngầm hình thành, một số trí thức, cán bộ và binh sĩ Thượng bất mãn bỏ về làng, một số khác vẫn ở lại cơ quan nhưng không làm việc.

Thêm vào đó, Dụ số 57 ngày 20/10/1956 quy định việc truất hữu đất đai của địa chủ. Dụ này liên quan trực tiếp đến đất đai canh tác của những buôn làng, theo đó mỗi buôn làng là một địa chủ. Qua chính sách cải cách điền địa mới này, mỗi địa chủ chỉ còn được giữ lại 100 ha ruộng đất và 15 ha ruộng hương hỏa. Ruộng bị truất hữu sẽ được đem bán lại cho những người thiếu ruộng, mỗi hộ không quá 5 ha, người mua được trả góp trong thời hạn 6 năm nhưng ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Trong 10 năm kế tiếp, người được cấp ruộng không được cho mướn hay bán lại. Địa chủ bị thu hồi đất sẽ được bồi thường 10% tiền mặt, số còn lại được trả bằng trái phiếu trong 12 năm, lãi 5%/năm.

Cũng nên biết, dưới thời Pháp thuộc, những buôn làng Thượng được quyền canh tác trên những vùng đất rộng lớn, có thể lên tới hàng ngàn ha, để tự túc lương thực mà người Thượng tin rằng họ đương nhiên là chủ sở hữu. Thêm vào đó người Thượng chỉ canh tác trên những vùng đất nghèo nàn (ruộng khô và nương rẫy) trên các sườn núi, năng suất rất thấp, do đó cần rất nhiều đất canh tác để có thể nuôi gia đình hay buôn làng, do đó chỉ được giữ lại 100 ha ruộng đất canh tác và 15 ha ruộng hương hỏa là không đủ cho cư dân của một buôn làng.

Đa số dân Thượng, kể cả trí thức, không hiểu nội dung của Dụ này và nghĩ rằng chính quyền Kinh muốn cướp đất của họ. Sự lo lắng của người Thượng là chính đáng vì tất cả đất đai canh tác của người Thượng trong những buôn làng trên cao nguyên đều không có giấy tờ sở hữu, các chính quyền Pháp thời đó không nghĩ tới việc cấp phát giấy tờ này vì cho rằng, theo phong tục, người Thượng đương nhiên là chủ sở hữu những vùng đất mà tổ tiên của họ đã có công khai phá và canh tác.

Tại Pleiku và Darlac, các tỉnh trưởng còn buộc người Thượng phải ăn mặc chỉnh tề (đa số dân Thượng trong giai đoạn này đàn ông vẫn còn mình trần đóng khố, phụ nữ còn để ngực trần) khi ra vào các cơ quan công quyền trong thành phố. Thêm vào đó, di dân Kinh còn tỏ ra khinh miệt người Thượng tại những vùng cộng cư. Cán bộ cộng sản cũng nhân cơ hội trà trộn vào một số buôn làng tuyên truyền và kích động dân Thượng nổi lên chống lại chính quyền miền Nam.

2. Những phong trào phản kháng của người Thượng

2.1. Phong trào BAJARAKA

Ngày 23/01/1956, dân chúng Việt Nam Cộng Hòa bầu Quốc hội lập hiến, gồm 123 dân biểu, để soạn Hiến pháp mới.

Ngay sau khi vừa đắc cử tổng thống ngày 24/10/1956, Ngô Đình Diệm liền ban hành Hiến pháp mới ngày 26/10/1956 và cho thành lập Văn Phòng Cố Vấn Thượng Vụ để góp ý về những vấn đề liên quan đến cao nguyên miền Thượng.

Năm 1957 một số trí thức và sĩ quan Thượng kết hợp lại thành một nhóm chống đối, viết thư tố cáo chính sách phân biệt đối xử người Thượng trên cao nguyên của các chính quyền địa phương. Cuộc chống đối đầu tiên xảy ra vào giữa tháng 9/1957, trong một buổi dạy tiếng Việt dành cho người Thượng : ông Y Bham Enuol công khai nói lên những bất đồng của người Thượng và đòi quyền "biệt lập" về hành chánh và chính trị.

Đầu năm 1958, Y Bham Enuol thành lập Ủy ban tự trị trung ương trong tổ chức có tên là Mặt Trận Giải Phóng Người Thượng (FLM – Front de Libération des monatagnards), trụ sở đặt tại Pleiku, chỉ huy tất cả các cơ quan tỉnh lỵ, quận huyện trên Tây Nguyên. Nhiều ủy ban địa phương được thành lập tại Buôn Ma Thuột, Kontum và Di Linh.

Ủy Ban tuyển mộ sĩ quan và binh lính Thượng đang phục vụ trong chính quyền miền Nam, chọn một lá cờ tượng trưng cho sự "biệt lập" (xanh dương, trắng và đỏ như cờ Pháp nhưng phía trên góc trái có 4 ngôi sao màu vàng tượng trưng cho bốn sắc tộc chính) và phổ biến một thư ngỏ mang tên "Nguyện vọng đấu tranh của đồng bào Thượng".

Thư ngỏ này thực ra là một cáo trạng đối với chính quyền Ngô Đình Diệm, liệt kê những hành vi phân biệt đối xử của người Kinh đối với người Thượng trong mọi lãnh vực, từ chính trị, hành chánh, an ninh quân sự, tư pháp, kinh tế đến văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội.

Không được trả lời thỏa đáng, ngày 1/5/1958 họ thành lập tổ chức BAJARAKA (chữ viết tắt tên bốn sắc tộc lớn trên cao nguyên miền Thượng nhưng người Rhade chiếm đa số : BAhnar, JArai, RhAdé và KAho) nêu ra 8 điểm bất đồng tố cáo người Kinh hà hiếp người Thượng rồi vận động cộng đồng Thượng hợp tác chống lại chính quyền miền Nam.

Những người lãnh đạo phong trào gồm có các ông Y Bham Enuol (người Rhade, sáng lập viên), Y San Nie (Rhade, phó Chủ tịch), Y Thih Eban (Tổng thư ký), Siu Sip (nhân sĩ Jarai, thủ quỹ), Y Ju Eban (liên lạc viên), Y Bhan Kpor (trung úy, đại diện quân đội), Touprong Ya Ba ((tổng tư lệnh quân đội), Paul Nur (trí thức Bahnar, đại diện Kontum), Y Bih Aleo (đại diện Darlac), Touneh Yoh và Touneh Phan đại diện Lâm Đồng), Y Dhon Adrong (hiệu trưởng trường tiểu học Lạc Thiện), Y Nuin Hmok (giáo viên trung học buôn Kram kiêm chính trị viên), Y Nam Eban (sĩ quan), Y Chon Mlo Duon Du, Nay Luett và nhiều nhân sĩ gốc Chăm, Mạ, Stieng, Kor…

Trước sự chống đối này, Văn Phòng Cố Vấn Thượng Vụ của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa được nâng lên thành Nha Công Tác Xã Hội Miền Thượng (nghị định số 302/NV ngày 3/7/1957) trực thuộc Phủ Tổng Thống, trụ sở đặt tại Huế, nhằm kêu gọi đồng bào Thượng hợp tác với chính phủ xây dựng đất nước và chống sự xâm nhập của quân cộng sản miền Bắc trong tinh thần Kinh Thượng bình đẳng và đoàn kết. Trong thực tế Văn phòng này nằm yên bất động, không đưa ra một sáng kiến nào cụ thể.

Ngày 25/7/1958, phong trào viết một kháng thư viết bằng tiếng Anh, do ông Y Bham Enuol cùng 16 đại diện sắc tộc ký tên, gởi đến Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn. Tháng 8/1958, một kháng thư khác được gởi đến Đại Sứ Pháp cùng nhiều đại sứ khác và Liên Hiệp Quốc tại Sài Gòn. Nội dung những kháng thư này tố cáo hành vi phân biệt đối xử của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với các sắc tộc thiểu số trên cao nguyên và kể lại những đóng góp của họ trong cuộc chiến chống lại quân phiệt Nhật, Việt Minh và Việt Cộng. Nội dung kháng thư viết bằng tiếng Anh, do giáo sư David Nuttle (người Mỹ) chuyển tới tòa đại sứ Hoa Kỳ, bày tỏ ý kiến không muốn đặt Tây Nguyên trực thuộc vào chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mà muốn được độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp hoặc dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hoa Kỳ. Kháng thư viết bằng tiếng Pháp yêu cầu các cường quốc can thiệp để người Thượng có một "lãnh thổ biệt lập" ("un territoire à part", nguyên văn). Kháng thư gởi Liên Hiệp Quốc, phong trào xin được sáp nhập vào vương quốc Lào như người Pháp đã làm năm 1893.

Ngày 30/7/1958, phong trào Barajaka gởi một phái đoàn gồm bốn người về Sài Gòn gặp đại sứ Hoa Kỳ qua trung gian David Nuttle.

Trong hai tháng 8 và 9/1958, phong trào Bajaraka tổ chức nhiều cuộc xuống đường tại Kontum, Pleiku, Buôn Ma Thuột nhưng đều bị trấn áp, tất cả những lãnh tụ của phong trào đều bị bắt (Y Bham Enuol, Y Dhon Adrong, Y Dhe Adrong, Y Nuin Hmok, Y Wick Buon Ya, Y Het Kpor, Y Tluop Kpor, Y Senh Nie, Y Bun Sor, Y Yu Eban, Y Thih Eban, Touneh Yoh, Siu Sip, Paul Nur, Nay Luett…), những thành phần có uy tín như sĩ quan và công chức Thượng đang công tác trên cao nguyên đều bị thuyên chuyển về đồng bằng.

Trước những biến chuyển bất lợi này, cộng đồng người Thượng như rắn mất đầu không biết phải làm gì, cán bộ cộng sản nằm vùng liền nhân cơ hội tuyên truyền và vận động cộng đồng người Thượng chống lại chính quyền miền Nam. Đối diện với đe dọa mới này, tháng 10/1958, chính quyền Ngô Đình Diệm kêu gọi Kinh Thượng hợp tác chống cộng và hứa sẽ cải tổ sâu rộng hơn về kinh tế, xã hội miền Thượng. Văn Phòng Xã Hội được thành lập tại Tây Nguyên, nhiều học sinh Thượng được đưa về Huế và các thành phố Qui Nhơn, Nha Trang, Đà Lạt học trong những trường trung học kỹ thuật. Một số cán bộ Thượng được đưa về Sài Gòn tu nghiệp tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Nhưng kết quả đã không như mong đợi, Văn Phòng Xã Hội không hoạt động gì cả, các học sinh Thượng ra trường (khoảng 150 người mỗi năm) không tìm được việc làm vì thiếu trình độ (bằng cấp của học sinh Thượng thường do nâng đỡ). Đời sống của người Thượng không sáng sủa gì hơn. Những lãnh tụ Thượng còn lại đều tỏ ra bất mãn nhưng bất lực.

Trong cuộc bầu cử Quốc hội pháp nhiệm I (1956), ứng cử viên Touprong Hrou đơn vị Tuyên Đức-Lâm Đồng bị bỏ tù vì những tội vu vơ ; pháp nhiệm II (1958) ông Y Prong Kbor đơn vị Đắc Lắc bị xóa tên ; pháp nhiệm III (1960) ông Y Klong đơn vị Đắc Lắc bị buộc phải rút tên.


Trong những năm 1956-1960, cố vấn quân sự Mỹ vào khắp buôn làng, tổ chức phòng thủ, trang bị súng cá nhân, thành lập các đội Dân Sự Chiến Đấu Thượng (CIDG – Civilian Indigenous Defense Group) gồm đủ mọi sắc tộc Thượng (Rhade, Bahnar, Sedang, Kaho, Bru…).

Trong thời gian từ 1956 đến 1962, chuyên viên và cố vấn Hoa Kỳ đã có mặt khắp Tây Nguyên. Đối với các chiến lược gia Hoa Kỳ, Tây Nguyên có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt vì đó là cửa khẩu ngăn chặn sự xâm nhập của quân đội cộng sản miền Bắc vào miền Nam. Sự hiện diện của du kích quân cộng sản trong chốn rừng sâu gây nhiều lo âu cho các cố vấn Mỹ lúc đó đang huấn luyện quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1956, nhiều phái đoàn MAAG (The US Military Assistance Advisory Group) được gởi lên cao nguyên quan sát tình hình và xây dựng cơ sở huấn luyện binh lính Thượng chống du kích.

Việc tranh thủ người Thượng gây nhiều tranh chấp giữa cơ quan CIA và Tòa Đại Sứ Mỹ trong chính sách chống cộng của Hoa Kỳ :

– Cơ quan CIA chủ trương võ trang trực tiếp người Thượng vì họ rất thiện chiến trong rừng rậm. Cố vấn quân sự Mỹ vào khắp buôn làng, tổ chức phòng thủ, trang bị súng cá nhân, thành lập các đội Dân Sự Chiến Đấu Thượng (CIDG – Civilian Indigenous Defense Group) và Lực Lượng Đặc Biệt (Special Force) gồm 18.000 người (1967) thuộc đủ mọi sắc tộc Thượng (Rhade, Bahnar, Sedang, Kaho, Bru…).

– Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ chủ trương kêu gọi sự hợp tác về lâu về dài của người Thượng, đặc biệt là phát triển văn hóa, xã hội, y tế và tín ngưỡng nhằm nâng cao mức sống. Các mục sư tin lành được nhìn như sự tiếp nối của các giáo sĩ công giáo Pháp thời trước nên rất được mến mộ. Nhiều phái đoàn đặc vụ dân sự USOM (US Operations Mission), USAID (US Agency for International Development), MSA (Mutual Security Administration – Cơ quan quản lý hỗ tương), ICA (International Cooperation Administration – Cơ quan hợp tác quốc tế), các tổ chức thiện nguyện dân sự đến chữa bệnh, hướng dẫn cách thức canh tác nông nghiệp, xây cất nhà cửa, giúp đỡ vật chất và sáng tạo chữ viết la tinh hóa của từng thổ ngữ để giảng dạy. Nhiều trường phổ thông vừa dạy tiếng địa phương, vừa dạy tiếng Việt và tiếng Mỹ được thành lập tại Buôn Ma Thuột, Pleiku, Kontum, Đà Lạt. Nhiều sinh viên Chăm và Thượng được ghi danh vào Viện Đại Học Đà Lạt.


Đa số quân nhân gốc Thượng được tuyển vào Lực lượng đặc biệt là người Rhade, rất được CIA tín cẩn.

2.2. Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên (FLHP)

Trong năm 1960, nhiều biến cố quan trọng đã xảy ra trên địa bàn sinh sống của cộng đồng người Thượng.

Để đối trọng với phong trào Bajaraka của Y Bham Enuol, tháng 10/1960 Hà Nội cho thành lập Phong Trào Dân Tộc Tự Trị Tây Nguyên, gọi tắt là Phong Trào Tây Nguyên Tự Trị, do các ông Y Bih Aleo, Y Thang Nie Kdam, Y Ngon Nie Kdam cầm đầu, địa bàn hoạt động đặt tại Kon Hanung. Phong trào này là một bộ phận của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (thành lập ngày 20/12/1960), có nhiệm vụ mở đường Trường Sơn (đường mòn Hồ Chí Minh) vận chuyển người và vũ khí vào Nam chống lại chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và sự can thiệp của người Mỹ tại Việt Nam.

Trong cùng thời gian, tại Cambodia, phe thân hoàng thân Norodom Sihanouk cũng cho thành lập hai tổ chức người Thượng chống lại chính quyền Việt Nam Cộng Hòa : Mặt Trận Giải Phóng Kampuchia Hạ (FLKK – Front de Libération du Kampuchea Krom) do Chau Dera (đại tá Um Savuth, quê quán ở Trà Vinh) lãnh đạo và Mặt Trận Giải Phóng Champa (FLC – Front de Libération du Champa) do Les Kosem (bí danh Po Nagar, một người gốc Chăm Hồi giáo ở Châu Đốc) cầm đầu. Tổ chức FLC tuy có chủ ý là giải phóng Champa nhưng trong thực tế chỉ toàn người Thượng Rhade, Jarai, Churu và Rơglai để quấy rối chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trên Tây Nguyên.

Từ sau 1961, Tây Nguyên trở thành nơi lôi kéo người Thượng về phe này để chống lại phe kia. Hai tổ chức người Thượng tại Cambodia tuyên truyền lôi kéo quân nhân Thượng trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa rời bỏ hàng ngũ sang Cambodia đầu quân. Phong trào Tây Nguyên Tự Trị của phe cộng sản vào khắp buôn làng Thượng tuyên truyền và tuyển người ra Bắc huấn luyện để đưa về lại miền Nam chiến đấu chống lại chính quyền Sài Gòn. Các cấp lãnh đạo Phong trào Bajaraka không ngừng yêu sách chính quyền Việt Nam Cộng Hòa phục hồi qui chế Hoàng Triều Cương Thổ. Trong khi đó những cố vấn Mỹ liên tục tiến hành thám sát và tuyển dụng những thanh niên Thượng xuất sắc nhất trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa để đưa vào Lực lượng đặc biệt (Special Forces) do CIA đào tạo. Đa số quân nhân được tuyển vào Lực lượng đặc biệt là người Rhade, rất được CIA tín cẩn.


Du kích Thượng chiếm đóng nhiều buôn làng trên cao nguyên năm 1962

Trong thời gian từ 1961 đến 1963, uy tín và hào quang của Y Bham Enuol, người Rhade lúc đó đang còn ở tù, thu hút sự ngưỡng mộ của hầu như tất cả các tổ chức chống đối người Thượng, phe nào cũng muốn lôi kéo Y Bham Enuol về phía mình, nhất là Les Kosem tại Cambodia.

Từ sau 1963, người Mỹ quyết định can thiệp trực tiếp vào Việt Nam. Chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ tháng 11/1963, tất cả các biện pháp ban hành dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa đều bị hủy bỏ. Nhờ sự can thiệp của Mỹ, tất cả những lãnh tụ phong trào Barajaka đều được phóng thích.

Tin tưởng được Mỹ ủng hộ, tháng 3/1964 những người lãnh đạo phong trào Barajaka thành lập Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên (FLHP – Front de Libération des Hauts Plateaux, tên chính thức được sử dụng trong các văn kiện), còn gọi là Mặt Trận Cao Nguyên. Lần này mặt trận có sự tham gia của nhiều sắc tộc Thượng khác và người Chăm tại miền Trung. Mặt trận cho phổ biến một bản hiệu triệu bằng ba thứ tiếng (Pháp, Chăm và Rhade) đòi quyền tự trị và chủ trương tranh đấu vừa ôn hòa vừa bạo động. Phe chủ trương ôn hòa, do Y Bham Enuol đại diện, tham gia mọi sinh hoạt chính trị trên khắp cao nguyên để giúp chính quyền miền Nam xây dựng một chính sách Thượng vụ thích hợp. Phe chủ trương bạo động, do Y Dhon Adrong cầm đầu, kêu gọi cán bộ dân vệ và biệt kích Thượng gia nhập FLHP chống lại chính quyền người Kinh.

Những sự kiện trên làm giới chỉ huy quân sự Việt Nam Cộng Hòa lo ngại. Những cuộc hành quân trên Tây Nguyên từ tháng 3 đến tháng 5/1964, do tướng Vĩnh Lộc chỉ huy, phần lớn để phá vỡ những căn cứ của quân Thượng hơn là các mật khu cộng sản. Phe bạo động bị truy quét gắt gao phải chạy qua Cambodia lánh nạn. Tại đây họ lập căn cứ quanh đồn Bốt Chá (Camp Le Rolland cũ), tỉnh Mondulkiri phía đông bắc Cambodia cách biên giới Việt Nam 15 cây số, rồi cử người xâm nhập vào các buôn làng ven biên giới kêu gọi thanh niên Thượng gia nhập FLHP.

Tòa Đại sứ Hoa Kỳ khuyến cáo Việt Nam Cộng Hòa thương thuyết với người Thượng để tìm một giải pháp sống chung. Ngày 5/5/1964, chính phủ miền Nam mời 64 nhân sĩ Thượng ôn hòa, đại diện các sắc tộc, về Sài Gòn họp để tổ chức một đại hội gồm 55 đại diện sắc tộc tại Pleiku ngày 26/8/1964 do Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chủ trì.

Lo sợ bị loại khỏi các cuộc thương thuyết, phe bạo động chuẩn bị một cuộc nổi dậy võ trang do đại úy Y Nam Eban chỉ huy. Đêm 19/9/1964, các toán biệt kích ly khai thuộc Lực Lượng Đặc Biệt và các đội Dân Sự Chiến Đấu Thượng đánh chiếm một số đồn bót lớn quanh Quảng Đức và Đắc Lắc : trung sĩ Kle chiếm thị trấn Bù Đăng, thiếu úy Y Bach Eban tấn công đồn Sarpa, Y Djao Nie tiến vào buôn Miga (Đức Lập), Y Bhan Kpor vây đồn Bù Đốp và Bù Briêng. Quân phiến loạn làm chủ quốc lộ 14, đánh đồn Srepok rồi tiến vào Buôn Ma Thuột chiếm đài phát thanh kêu gọi dân Thượng nổi lên chống lại người Kinh để xây dựng một quốc gia độc lập. Trong cuộc nổi dậy này, 35 sĩ quan và binh sĩ Kinh bị thiệt mạng, quận trưởng quận Đức Lập (Quảng Đức) bị bắt sống.

Kinh ngạc và tức giận, chuẩn tướng Vĩnh Lộc, chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật, đã phản ứng dữ dội. Lệnh thiết quân luật được ban hành ngày sáng 20/9/1964, mọi ngả ra vào Buôn Ma Thuột đều bị chận xét gắt gao, Sư Đoàn 23 cùng một số tiểu đoàn biệt động quân và thiết giáp được huy động đến vây quanh đài phát thanh, một số tiến về những những đồn bị chiếm đóng. Phiến quân Thượng chống trả dữ dội. Các đồn Bù Đăng, Miga, Bù Briêng, Srepok và nhiều cầu trên quốc lộ 14 lần lượt được chiếm lại, trừ đồn Sarpa vẫn còn nằm trong tay phiến quân.


Lực lượng Biệt kích Thượng (Fulro) được Les Kosem (giữa) hỗ trợ tại đồn Camp Le Rolland tháng 9/1964

Trước biến cố này, đệ tam tham vụ Tòa Đại Sứ Mỹ trên cao nguyên, William Beachner, khuyên tướng Vĩnh Lộc nên thương thuyết. Ông Y Bham Enuol, đại diện phe ôn hòa, phó tỉnh trưởng Buôn Ma Thuột, được mời đến Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 23 thăm khảo ý kiến rồi được cử lên đài phát thanh thương thuyết với phiến quân. Sau khi dàn xếp với phe nổi loạn im tiếng súng, Y Bham được Beachner đưa về nhà riêng thảo luận. Buổi chiều cùng ngày (20/9), đại úy Darnell đích thân đưa những lãnh tụ Thượng khác (Y Bhim, Y Dhou) vào nhà Beachner họp. Cuộc thương lượng giữa đại diện Tòa Đại Sứ Mỹ và chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật đi đến những thỏa thuận sau : Y Bham Enuol được cử làm chủ tịch chính thức phong trào FLHP, những chỉ huy phiến quân (Y Dhon Adrong, Y Senh Nie, Y Nuin Hmok, Y Nam Eban) không bị truy tố và không bị truy đuổi khi rút quân qua Cambodia.

Thỏa thuận xong, ngay chiều 20/9, Y Bham Enuol trốn sang Cambodia, sau khi để lại một kháng thư gởi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đòi quyền tự trị trên cao nguyên. Tại biên giới, Y Bham Enuol được Les Kosem (lúc này được thăng cấp tướng) cùng Y Bun Sor ra đón và đưa về Camp Le Rolland nghỉ ngơi rồi tức tốc được chở về Phnom Penh họp.

Ngày 23/9/1964, ông W. Beachner và tướng Vĩnh Lộc cùng một số nhân sĩ Thượng thành lập Ban Đại Diện Lâm Thời Người Thượng tại Buôn Ma Thuột do ông Y Char Hdok (hiệu trưởng trường Nguyễn Du) làm chủ tịch, ông Y Chon Mlo Duon Du (nhân viên Nha Đặc Trách Thượng Vụ) làm cố vấn. Beachner cử Y Chon Mlo Duon Du làm trung gian thương nghị giữa Việt Nam Cộng Hòa và FLHP. Sau bốn ngày thương nghị, Y Chon Mlo Duon Du loan báo phe FLHP chấp nhận buông súng và thương nghị.

Ngày 28/9/1964, tướng Nguyễn Khánh cùng tướng Vĩnh Lộc đến đồn Sarpa nhận sự đầu hàng của 233 binh sĩ FLHP. Lễ gắn huy chương cho những người Thượng có công hòa giải được diễn ra tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh (Buôn Ma Thuột).

Lợi dụng sự khoan hồng, một số phiến quân FLHP và các đội Dân Sự Chiến Đấu Thượng còn kẹt lại chạy sang Cambodia gia nhập vào lực lượng của ông Y Bham Enuol đồn trú tại Camp Le Rolland.

2.3. Mặt Trận Thống Nhất Đấu Tranh Của Các Chủng Tộc Bị Áp Bức (FULRO)

Tại Cambodia, những lãnh tụ FLHP họp ngày đêm chuẩn bị thành lập một phong trào đấu tranh mới. Chính quyền Cambodia, qua trung gian Les Kosem, cật lực giúp đỡ sự ra đời một tổ chức mới qui mô hơn gồm đủ mọi sắc tộc. Lãnh tụ các nhóm Khmer Krom, Chăm và Thượng FLHP được quân đội hoàng gia Cambodia đưa về Phnom Penh họp.

Tối ngày 20/9/1964, dưới sự chủ tọa của Sihanouk, Les Kosem cho ra đời một tổ chức mang tên Mặt Trận Thống Nhất Các Chủng Tộc Thiểu Số (FURM – Front Uni des Races Minoritaires) gồm ba mặt trận : Mặt Trận Giải Phóng Champa (FLC – Front de Libération du Champa) do Les Kosem (bí danh Po Nagar) lãnh đạo, Mặt Trận Giải Phóng xứ Cambodia Krom miền Tây Nam Việt Nam (FLKK – Front de Libération du Kampuchia Krom, tức Cambodia hạ) do Chau Dera làm đại diện và Mặt Trận Giải Phóng xứ Kampuchia Loeu (FLKL – Front de Libération du Kampuchia Loeu, tức Cambodia thượng) do Y Bham Enuol đứng đầu. Danh xưng FLKL không được Y Bham chấp thuận và sau nhiều bàn cãi, danh xưng Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên (FLHP – Front để de Libération des Hauts Plateaux) được mọi người chấp nhận.

Về tên của phong trào, các phe chọn một tên chung cho là Mặt Trận Thống Nhất Đấu Tranh Của Các Chủng Tộc Bị Áp Bức (FULRO – Front Uni de Lutte des Races Opprimées). [Ở đây xin chú ý : Lutte (đấu tranh) chứ không phải Libération (giải phóng) như nhiều người thường lầm tưởng]. Từ đó danh xưng FULRO là tên chính thức trong các văn kiện và các hoạt động chính thức tại Việt Nam và trên chính trường quốc tế.

FULRO chọn cờ hiệu hình chữ nhật, ba màu : bên phải màu xanh lục có ngôi sao trắng nằm trong hình lưỡi liềm, ở giữa có 4 sọc trắng xen kẻ với 5 sọc xanh dương, bên trái là màu đỏ. Ngôi sao trắng trong lưỡi liềm trắng tượng trưng cho người Chăm theo đạo Hồi tại Cambodia và Việt Nam. Bảy sọc trắng xanh dương tượng trưng cho bảy sắc tộc lớn người Thượng : Bahnar, Jarai, Rhade, Kaho, Sedang, Mnong, Mạ. Màu đỏ tượng trưng cho tinh thần đấu tranh.


Lá cờ của Mặt trận Giải phóng Cao nguyên Trung phần (Front de Liberation des Hauts Plateaux, FLHP), được FULRO sử dụng từ năm 1964.

FULRO có ba cơ quan lãnh đạo : Hội Đồng Tối Cao do Chau Dera làm chủ tịch, Hội Đồng Bảo Trợ do Po Nagar (Les Kosem) làm chủ tịch và Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương do Y Bham làm chủ tịch. Trên thực tế, Y Bham sống nhờ vào Les Kosem nên không có thực quyền nào cụ thể ngoài uy tín cá nhân. Les Kosem có phương tiện và có lực lượng nên nắm hết mọi quyền hành. Les Kosem còn kéo theo một số người Thượng và người Chăm vào FLC để gây thêm vây cánh và cho người về Việt Nam lôi kéo một số thanh niên Chăm qua ngõ Châu Đốc vào Cambodia.

Mặc dù trên danh nghĩa là một tổ chức thống nhất nhưng FULRO có ba lực lượng khác nhau :

2.3.1. FULRO Khmer do Chau Dera làm chủ tịch, nhưng vì bận tổ chức đội phòng vệ cho Sihanouk tại Phnom Penh nên không thể sinh hoạt, mọi quyền hành đều nằm trong tay Les Kosem. Hội Đồng Tối Cao của Chau Dera đổi thành Ủy Ban Chấp Hành Tối Cao do Les Kosem lãnh đạo.

2.3.2. FULRO Chăm, do Les Kosem chỉ huy trực tiếp, là tổ chức có tầm vóc nhất. (Cambodia có 250.000 người Khmer gốc Chăm, đa số sinh sống tại Kompong Cham).

Về đối nội, FULRO Chăm có ba ban :

– Ban tình báo chuyên thu thập tin tức, tung người về Việt Nam móc nối cơ sở, phá hoại do Huỳnh Ngọc Sắng, một người Chăm sinh sống tại Bình Thuận điều hành.

– Ban kinh tài thu thập tiền đóng góp của dân chúng, tiếp tế cho hậu cứ của Y Bham Enuol tại Camp Le Rolland, do Tôn Ái Liên, một người Chăm tại Châu Đốc, làm trưởng ban và vợ Les Kosem, người nhận thầu cũng cấp lương thực cho các căn cứ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam để kiếm thêm tiền, làm phó.

– Ban phát triển giáo dục cử người đi du học ngoại quốc nghiên cứu về dân tộc Chăm.

Về đối ngoại, Les Kosem trực tiếp vận động sự hỗ trợ của các quốc gia ngoại quốc và thành lập nhiều tổ chức Chăm tại hải ngoại ủng hộ nhóm FULRO Chăm.

– Năm 1970, Les Kosem sang Bangkok gặp hai vị tướng lục quân và không quân Thái gốc Chăm trong quân đội hoàng gia và những lãnh tụ Thái gốc Chăm thành lập Tổ Chức Người Chăm Chính Thống Tiến Bộ ủng hộ FULRO Chăm. (Thái Lan có 400.000 người Thái gốc Chăm đến lập nghiệp từ thế kỷ 15).

– Sau đó Les Kosem đến Djakarta gặp tổng thống Sukarno và được hứa sẽ có 8.000 binh sĩ trong hai lữ đoàn nhảy dù (paracommando) Nam Dương sang yểm trợ FULRO Chăm phục hồi vương quốc Champa khi hữu sự. Les Kosem nhận viện trợ của Indonesia thông qua Suseno, tùy viên quân sự tòa đại sứ Indonesia tại Phnom Penh. (Indonesia có khoảng hai triệu người gốc Chăm, tổ tiên những người này đã sang Indonesia [Java thời đó] và Mã Lai lập nghiệp từ thế kỷ 14 đến 16).

– Quốc gia kế tiếp là Mã Lai và các quốc gia Ả rập (Algeria), Nhật Bản nhận giúp FULRO Chăm tu sửa lại các đền đài. (Mã Lai có 200.000 người gốc Chăm lập nghiệp từ thế kỷ 14).

– Sau cùng Les Kosem sang Pháp và Châu Âu vận động nhân sĩ chính trị và tôn giáo Pháp tổ chức những cuộc hội thảo về văn minh Champa và cấp học bổng cho một số sinh viên Chăm vào học những trường đại học lớn tại Paris (Sorbonne), Aix en Provence… Trong các buổi hội thảo này, những trí thức Chăm và Pháp cho in những tài liệu nhắc nhở sự kiện Champa bị Việt Nam xâm thực và mong muốn được các chính quyền phương Tây giúp phục hồi hay nhìn nhận vương quốc cũ.

2.3.3. FULRO Thượng do Y Bham Enuol làm chủ tịch, tiếp tục bị phân hóa.

– Nhóm Dân Sự ôn hòa do Y Bham Enuol lãnh đạo, gồm các ông Y Dhe Adrong, Y Preh, Y Bling, Y Thih Eban, Y Ngo Buon Ya, Y Senh Nie, Y Nhiam Nie…, chủ trương vận động Hoa Kỳ làm áp lực với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa để FULRO Thượng được về Việt Nam hoạt động một cách chính thức.

– Nhóm Quân Sự quá khích do Y Dhon Adrong lãnh đạo, gồm các ông Y Bhan Kpor, Y Nam Eban, Y Nuin Hmok…, chủ trương sử dụng bạo lực để thành lập quốc gia độc lập bằng cách uy hiếp những đồn bót quân sự, tấn công các chuyến xe đò dân sự trên các quốc lộ 14 và 22 cùng những liên tỉnh lộ khác của Việt Nam Cộng Hòa dọc vùng Tam Biên (Việt Miên Lào).

Để gây thanh thế, từ 29/7 đến 2/8/1965, nhóm Quân Sự cử 200 FULRO Thượng vượt biên giới tấn công và chiếm giữ đồn Buôn Briêng và khi rút lui còn dẫn theo 181 Dân Sự Chiến Đấu Thượng (dân vệ). Sau đó trung tá Y Djao Nie dẫn một trung đoàn FULRO Thượng về đóng tại Buôn Buor (Đắc Lắc), gần một cây cầu trên quốc lộ 14, kềm chế nhóm Dân Sự của Y Bham Enuol đang kêu gọi binh sĩ FULRO Thượng mang vũ khí về nộp chính quyền miền Nam.

Trong thời gian này phe cộng sản gia tăng áp lực tại miền Nam Việt Nam, Mặt Trận Tây Nguyên Tự Trị, do Y Bih Aleo lãnh đạo, cùng với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tổ chức nhiều cuộc đánh phá trên khắp Tây Nguyên.

Hoa Kỳ muốn được rảnh tay trong nổ lực tiến công tiêu diệt các mật khu cộng sản trên Tây Nguyên yêu cầu chính quyền Sài Gòn thương thuyết với FULRO Thượng tìm một phương thức sống chung và hợp tác chống sự xâm nhập của quân cộng sản.

3. Những cố gắng tìm một giải pháp sống chung trong hòa bình

Từ ngày 15 đến 17/10/1964, một đại hội các sắc tộc Thượng được triệu tập tại Pleiku, gồm 73 thân hào nhân sĩ Thượng và đại diện chính quyền Sài Gòn để hình thành một chính sách Thượng vụ hợp tình hợp lý : tái lập quyền sở hữu đất đai và các tòa án phong tục, dạy tiếng Thượng ở cấp tiểu học, chấp nhận sự thăm chính của người Thượng, giúp đỡ thiết thực hơn người Thượng và nâng Nha Đặc Trách Thượng Vụ thành Phủ Đặc Ủy Thượng Vụ (trước đó, ngày 5/5/1964 Nha Công Tác Xã Hội miền Thượng đổi thành Nha Đặc Trách Thượng Vụ trực thuộc Bộ Quốc Phòng, ngày 7/10/1964 trực thuộc Phủ Thủ Tướng).

Nhóm Dân Sự ôn hòa, do ông Y Nhiam và bà Hzap (vợ Y Dhe Adrong) đại diện, được phó đại sứ Hoa Kỳ Alexis Johnson và đại tướng Morton bảo trợ từ Cambodia về Buôn Ma Thuột thành lập Ban Đại Diện Chính Phủ Lâm Thời Cao Nguyên.

Ngày 2/8/1965, Y Dhe Adrong cầm đầu một phái đoàn từ biên giới Cambodia về Sài Gòn thương thuyết. Một tuyên cáo chung kêu gọi FULRO Thượng hợp tác trong nổ lực tìm kiếm một giải pháp sống chung và chống cộng được ký kết.

Vài hôm sau, ngày 16/8/1965, từ Camp Le Rolland Y Bham Enuol gởi đến chính phủ Việt Nam Cộng Hòa một văn thư đòi : xác nhận lãnh thổ Thượng từ vĩ tuyến 17 đến Đồng Xoài gồm cao nguyên Kontum, Pleiku, Đắc Lắc, Phú Bổn, Đồng Nai thượng, Quảng Đức, Lâm Đồng, Tuyên Đức và một phần các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận, gọi chung là Liên Bang Cao Nguyên trong Cộng Hòa Liên Bang Việt Nam ; có quốc kỳ riêng ; có quân đội riêng ; giảm số người Việt Nam di cư lên cao nguyên bằng con số trước năm 1954. Y Bham đề nghị tổ chức các cuộc thương thuyết tại Buôn Ma Thuột hoặc tại Manila (Philippines) nhưng yêu sách này không được Sài Gòn chấp thuận.

Ba tuần sau, ngày 23/8/1965, Y Dhe Adrong dẫn một phái đoàn khác từ Camp Le Rolland đến Buôn Ma Thuột họp. Phái đoàn Việt Nam, do hai tướng Nguyễn Hữu Có và Vĩnh Lộc đại diện, yêu cầu quân FULRO phải buông súng mới chịu thảo luận.

Buổi lễ giao nộp vũ khí của 500 FULRO Thượng tại Buôn Buor được cử hành trọng thể ngày 15/9/1965, tướng Vĩnh Lộc đưa phái đoàn Y Dhe Adrong, Y Ngo Buôn Ya, Y Bun Sor, Y Nhiam Nie, Y Senh Nie về Sài Gòn gặp đại diện của Hoa Kỳ (các ông Peterson và Anderson) và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa để thảo luận về qui chế đặc biệt dành cho người Thượng : một lực lượng quân sự 150.000 người dưới sự chỉ huy của FULRO, một quốc kỳ tương đương với quốc kỳ của Việt Nam Cộng Hòa, một phái đoàn độc lập có quyền đi dự những hội nghị quốc tế, quyền tiếp đón trực tiếp các đại diện của Hoa Kỳ và các nước khác, quyền triệu tập một Đại Hội Đồng Dân Tộc Thiểu Số, thành lập một phái đoàn Đại Diện Dân Tộc Thiểu Số...

Trong khi đó, từ 29/7 đến 2/8/1965, nhóm quá khích, sau khi tố cáo Y Bham Enuol bị mua chuộc, bí mật tổ chức bạo loạn, họ rải truyền đơn hô hào "Cao Nguyên của người Cao Nguyên !", "Thực dân Kinh hãy cút !".

Vài tháng sau, từ ngày 12 đến 18/12/1965, Y Dhon Adrong cùng Y Nuin Hmok và thiếu úy Y Nam Eban dẫn một nhóm FULRO gồm đại đội 296 Địa Phương Quân, trung đội 1-503 Nghĩa Quân Thượng do thượng sĩ Nay Rí chỉ huy tấn công đồn Phú Thiện (tỉnh Phú Bổn) sát hại 32 người và làm bị thương 26 người. Sau đó Y Nam Eban cùng Y Tam Uong, đội trưởng và đội phó đại đội 281, chỉ huy lính Thượng chiếm đồn Krong Pach, giết hết binh sĩ Kinh. Tiểu đoàn 64 FULRO do đại úy Y Klam chỉ huy đột nhập Tòa Hành Chánh và Tiểu Khu Quảng Đức, giết hết người Kinh, treo cờ FULRO.

Tướng Vĩnh Lộc chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật huy động Sư Đoàn 23 Bộ Binh và một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến tấn công vào những nơi bị chiếm, bắt được một số tù binh và truy đuổi tàn quân FULRO gay gắt. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, được sự khuyến cáo của đại sứ Hoa Kỳ, ra lệnh cho Vĩnh Lộc nương tay và để những nhân vật quan trọng và sĩ quan cao cấp Thượng chạy sang Cambodia.

Tin nổi loạn tại Việt Nam vang đến Camp le Rolland, Y Bham Enuol sai con rể là trung tá Y Em chận bắt những phần tử quá khích tại vùng biên giới. Y Dhon Adrong và Y Nuin Hmok bị Y Em bắt và đem về Camp le Rolland xử tử, Y Bun Sor chạy thoát về Phnom Penh báo cáo. Tướng Les Kosem, không dám phản đối quyền lãnh đạo FULRO Thượng của Y Bham Enuol, lên Camp le Rolland thương lượng và cử hai người Chăm vào những chức vị cao bên cạnh Y Bham Enuol là Đằng Năng Giáo (bí danh Yang Neh) làm đệ nhất bí thư Phủ chủ tịch đặc trách chính trị và nội vụ, và Thiên Sanh Thi giữ chức tư lệnh Quân Khu 3 (Ninh Thuận và Bình Thuận) kiêm sư đoàn trưởng Sư Đoàn Po Romé. Hai người Chăm này có nhiệm vụ kềm chế những quyết định thân thiện Việt Nam của Y Bham Enuol. Y Bun Sor được Les Kosem phong làm phụ tá quân sự đặc trách FULRO Thượng tại Phnom Penh.

Tuy không bằng lòng về sự canh chừng này, Y Bham Enuol vẫn ra lệnh cho Y Dhe Adrong về Việt Nam thương thuyết với Paul Nur, đại diện chính quyền miền Nam. Các cuộc thương lượng kéo dài gần một năm. Tin tưởng vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ, phong trào FULRO đòi hỏi rất quyết liệt và tỏ ra không nhân nhượng về yêu cầu thành lập Liên Bang Cao Nguyên Việt Nam, quyền có quốc kỳ, quyền có quân đội riêng và quyền đại diện chính thức. Lo sợ Y Bham Enuol phản bội lý tưởng ban đầu là tranh đấu giành độc lập cho Tây Nguyên, ngày 20/9/1966 Les Kosem và Chau Dera xua quân bao vây Camp Le Rolland rồi ép Y Bham Enuol ký giấy nhường lãnh thổ của người Thượng từ sông Sre Pok (Nam Lào và đông bắc Cambodia) đến Pleiku cho Mặt Trận Giải Phóng Chiêm Thành (FLC). Nhưng âm mưu này không thành, trung tá Y Em mang quân đến giải vây và bắt sống một số binh sĩ Khmer và Chăm đang vây Camp le Rolland. Y Bham được giải thoát, xé giấy nhượng đất.

Để xoa dịu sự bất mãn của người Thượng, chính sách Thượng vụ phát họa ngày 17/10/1964 được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho thi hành. Đầu năm 1966, Y Chon Mlo Duon Du và Nay Luett đặt Văn Phòng Liên Lạc thuộc Nha Đặc Trách Thượng Vụ ở Buôn Ma Thuột để thương nghị với Y Dhe Adrong. Ngày 12/2/1966, một đại hội Kinh Thượng được tổ chức tại Kontum lên án gắt gao nhóm quá khích và Tòa Án Quân Sự Vùng II Chiến Thuật, họp tại hội trường Diên Hồng Pleiku, xử những quân nhân Thượng phản loạn cấp thấp (4 tử hình, 1 chung thân, 3 khổ sai 20 năm và nhiều án khổ sai 10 năm). Ngày 22/6/1966 Nha Đặc Trách Thượng Vụ được nâng lên thành Phủ Đặc Ủy Thượng Vụ, Paul Nur làm đặc ủy trưởng, để chuẩn bị cuộc hội nghị thượng đỉnh giữa Paul Nur và Y Bham Enuol.

Ngày 2/6/1967, Y Bham Enuol đích thân cầm đầu một phái đoàn đến Buôn Ma Thuột thương nghị và yêu cầu chính quyền miền Nam sớm ban hành qui chế riêng cho người Thượng. Một đại hội các sắc tộc thiểu số trên toàn quốc được triệu tập trong hai ngày 25 và 26/6/1967 để đúc kết các thỉnh nguyện chung của người thiểu số. Ba văn kiện được đệ trình lên chính phủ là bản thỉnh nguyện, bản kiến nghị và bản tuyên ngôn, tất cả đều được thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, long trọng chấp thuận và cam kết sẽ cho thực hiện. Ngày 29/8/1967, đại hội các sắc tộc được tổ chức tại Buôn Ma Thuột dưới sự chủ tọa của trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc gia, và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Chính phủ ký sắc luật số 033/67 cùng ngày ban hành Qui Chế Đặc Biệt nâng đỡ người thiểu số theo kịp đà tiến bộ của dân tộc. Tháng 11/1967 Quốc hội lập hiến Việt Nam Cộng Hòa ủy nhiệm Bộ Phát Triển Sắc Tộc nghiên cứu một dự thảo luật về Hội Đồng Sắc Tộc.

Năm sau, tháng 8/1968, Y Bham Enuol dẫn đầu một phái đoàn cao cấp gồm 28 người (Y Dhe Adrong, Y Preh, Ksor Dut, Kpa Doh, Y Ton, Thiên Sanh Thi, Huỳnh Ngọc Sắng, Zu Zol, Thạch Thân Apol, Chay Rithi, Sa Phol, Chau Chen, Chau Phước...) từ Camp le Rolland về Buôn Ma Thuột họp với Paul Nur, Ya Ba, Châu Văn Mổ, Nay Luett, Nguyễn Hữu Oanh... đòi hỏi những quyền lợi khác cho người Thượng nhưng không kết quả. Cuộc thương lượng cuối cùng ở cấp bậc cao nhất giữa Y Bham Enuol (với tư cách chủ tịch phong trào FULRO) và đổng lý Văn Phòng Phủ Thủ Tướng được tổ chức ngày 11/12/1968 đi đến một thỏa thuận như sau : phong trào FULRO được quyền có một hiệu kỳ nhưng không phải là quốc kỳ, Bộ Sắc Tộc được thành lập ngay trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do một người Thượng lãnh đạo, phái Đoàn Sắc Tộc sẽ được thiết đặt tại Buôn Ma Thuột, một tỉnh trưởng hay phó tỉnh trưởng người sắc tộc sẽ được đề cử tại những tỉnh có đông người sắc tộc cư ngụ, những lực lượng địa phương quân sắc tộc (Thượng) sẽ đặt dưới quyền chỉ huy của những sĩ quan sắc tộc (Thượng), một sĩ quan hay hạ sĩ quan sắc tộc (Thượng) sẽ được đề cử ngay trong những đơn vị quân đội chính qui có đông người sắc tộc... Lễ ký kết sẽ được cử hành tại Buôn Ma Thuột đầu năm 1969. Phái đoàn Y Bham Enuol về Camp le Rolland thu xếp đồ đạc chuẩn bị sang Việt Nam ở luôn.

Sáng 30/12/1968, phi đội trực thăng Việt Nam Cộng Hòa vượt biên giới sang Camp Le Rolland đón Y Bham Enuol cùng gia đình và lực lượng FULRO Thượng về Buôn Ma Thuột. Nhưng trước đó vài giờ, Les Kosem ra lệnh cho Y Bun Sor điều động hai trung đoàn quân đội hoàng gia Khmer đến bao vây Camp le Rolland. Đằng Năng Giáo, Y Bhan Kpor, Y Nam Eban, Ksor Dut, Kpa Doh, Kpa Blan chỉ huy đội cảm tử ập đến bắt cóc Y Bham Enuol và gia đình đưa về Phnom Penh. Y Em cùng một số thân tín bỏ chạy vào rừng. Phi đội trực thăng Việt Nam Cộng Hòa phải quay trở về Buôn Ma Thuột. Cùng ngày Les Kosem bay lên Mondulkiri trấn an và thuyết phục binh sĩ FULRO Thượng còn lại phải tuân lệnh bộ chỉ huy FULRO mới đặt tại Phnom Penh.

Từ đó Y Bham Enuol bị giam lỏng tại Phnom Penh dưới sự quản chế của Les Kosem. Một số thân tín Chăm và Thượng được Les Kosem thăng thưởng và cất nhắc lên những chức vụ chỉ huy. Ngày 31/12/1968 Les Kosem thành lập Hội Đồng Nội Các Lâm Thời FULRO, chủ tịch là Yang Neh (Đằng Năng Giáo), Souleiman (Thiên Sanh Thi) làm phó, đại tá Y Bhan Kpor tham mưu trưởng, trung tá Y Nam Eban tham mưu phó. Nội các này bị Les Kosem giải tán 10 ngày sau đó vì bất lực trong việc tổ chức điều hành. Để thay thế, Les Kosem thành lập một Ủy Ban Chỉ Đạo Tối Cao FULRO gồm toàn người Chăm do chính ông làm chủ tịch, Souleiman làm phụ tá đặc trách quân sự, El Ibrahim phụ tá đặc trách hành chánh, Mohamet phụ tá đặc trách tiếp vận. Y Bun Sor được cử đi du học tại trường Sorbonne Paris, Pháp.

Đầu năm 1969, Les Kosem giải tán Mặt Trận Cao Nguyên (FLHP) và cho ra đời Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên và Bình Nguyên Champa (Front de Libération des Hauts Plateaux et du Champa, gọi tắt là FLHPC) do Y Bhan Kpor làm chủ tịch. Y Bhan Kpor kêu gọi người Mỹ hãy ở lại Cao Nguyên với dân tộc Thượng. Tháng 6/1969, Les Kosem tạm ngưng khóa huấn luyện FULRO tại Phnom Penh, đưa các khóa sinh lên Mondulkiri và Rattanakiri thay thế lực lượng của Y Bham Enuol. FULRO Chăm được giao vai trò lãnh đạo tại Mondulkiri (Đặng Nô, Đồng Tập, Kinh Hoài Diệp...) và tại Rattanakiri (Đằng Năng Giáo, Kpa Toh, Tạ Văn Lành), nhưng nhóm FULRO Thượng tại đây không chấp nhận sự chỉ huy của Y Bhan Kpor, họ chỉ tuân phục Y Bham Enuol mà thôi. Ngày 29/7/1969 Les Kosem họp với Huỳnh Ngọc Sắng, Quảng Đại Đủ (Po Dharma), Thiên Sanh Thi, Hoàng Minh Mộ, Đặng Văn Thủy, Y Bhan Kpor, Y Nam Eban, Kpa Doh tại Phnom Penh tìm người làm chủ tịch FULRO nhưng không thành, Ủy Ban Chỉ Đạo Tối Cao FULRO Chăm đảm nhận luôn việc điều hành nhóm FULRO Thượng.

Trở lại Việt Nam, hiệp ước chung cuộc cuối cùng được ký kết giữa Paul Nur, đại diện Việt Nam Cộng Hòa, và Y Dhe Adrong, đại diện phe FULRO chứ không với Y Bham Enuol như đã dự trù. Lễ ký kết được diễn ra trọng thể tại Buôn Ma Thuột ngày 1/2/1969 dưới sự chủ tọa của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và thủ tướng Trần Văn Hương. Cờ Việt Nam Cộng Hòa treo cạnh cờ FULRO với những biểu ngữ "Tình đoàn kết Kinh Thượng muôn năm", "Hoan hô các anh em FULRO trổ về phục vụ quốc gia"...

Theo tin tình báo của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa năm 1969, có 5.471 người qui thuận gồm 2.257 binh sĩ và nhân viên dân sự, 3.214 thân nhân gia đình và 895 súng ống đủ loại. Như vậy tổng cộng có gần 6.000 người qui thuận (ngày 15/9/1965 có hơn 500 người đã ra đầu thú).

Trong lời bế mạc buổi lễ, Y Dhe Adrong tuyên bố : "Kể từ ngày hôm này, phong trào FULRO không còn nữa trên Cao Nguyên, bất cứ ai sử dụng danh nghĩa FULRO sau này để phá hoại sự đoàn kết Kinh-Thượng sẽ bị trừng trị theo luật pháp hiện hành của chính quyền".

Hồ sơ FULRO đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa coi như kết thúc, một giai đoạn hợp tác mới được mở ra. Nhưng thực tế đã không giản dị như vậy, người Chăm và Thượng vẫn chưa có một chỗ đứng danh dự như mong muốn, phong trào FULRO tiếp tục đấu tranh trong bóng tối.

4. Chính sách Thượng vụ thời Đệ nhị Cộng Hòa : Tìm lại anh em, nhận lại bạn bè

Từ sau ngày lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm 1/11/1963, dưới sự cố vấn của các chuyên gia Mỹ tại Sài Gòn, các chính quyền quân sự Việt Nam Cộng Hòa chấp thuận gần như toàn bộ những nguyện vọng chính đáng của người Thượng qua hai đại hội sắc tộc họp tại Pleiku từ 15 đến 17/10/1964 và từ 25 đến 26/6/1967. Một số đòi hỏi của nhóm FULRO Thượng - trừ quyền có lãnh thổ và quân đội riêng và quyền tiếp đón các phái đoàn ngoại giao quốc tế - đã được thỏa mãn. Những cựu thành viên của phong trào FULRO (gần 6.000 người) đã rời Cambodia về lại Việt Nam sinh hoạt bình thường, 23 cán bộ cao cấp được hồi ngạch và làm việc ngày tại địa phương nơi cư ngụ.

Vai trò và chỗ đứng của cộng đồng người Thượng tại Việt Nam đã được ghi trong Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa, ban hành ngày 1/4/1967.

- Điều 24 viết : Quốc gia công nhận sự hiện hữu của các sắc tộc thiểu số trong cộng đồng Việt Nam. Quốc gia tôn trọng phong tục tập quán của đồng bào thiểu số. Các Tòa án phong tục phải được thiết lập để xét xữ một số các vụ án phong tục giữa các đồng bào thiểu số. Một đạo luật sẽ qui định những quyền lợi đặc biệt để nâng đỡ đồng bào thiểu số.

- Điều 97 qui định Hội đồng các Sắc tộc đại diện các Sắc tộc thiểu số sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam có nhiệm vụ cố vấn Chính phủ về các vấn đề liên quan đến đồng bào thiểu số ; có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc hội về các vấn đề liên hệ. Các dự luật liên quan đến đồng bào thiểu số có thể được Hội đồng các Sắc tộc tham gia ý kiến trước khi đưa ra Quốc hội thảo luận. Hội đồng các Sắc tộc, chính thức hoạt động ngày 19/12/1970, là một định chế quan trọng trong chính sách đối với người thiểu số ở Việt Nam.

- Điều 98 qui định số hội viên, nhiệm kỳ, tổ chức và điều hành Hội đồng các Sắc tộc.

Từ sau 1969, người Thượng được quyền tham gia trực tiếp vào các sinh hoạt chính trị và đã cùng với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa xây dựng và bảo vệ miền Nam.

Để tranh thủ sự hợp tác của những nhân sĩ Thượng ôn hòa trong sinh hoạt chính trị (dân cử hay bổ nhiệm), chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thành lập Phong Trào Đoàn Kết Các Sắc Tộc Cao Nguyên Việt Nam, trụ sở đặt tại Buôn Alea. Lễ ra mắt được cử hành trọng thể tại Buôn Ma Thuột ngày 22/4/1969. Ban chấp hành phong trào, đa số là người Rhade, gồm có một chủ tịch danh dự (tổng thống Nguyễn Văn Thiệu), một chủ tịch chính thức (ông Y Bling, buôn Krong Pang), một đệ nhất phó chủ tịch (ông Y Dhat Nie Kdam), một đệ nhị phó chủ tịch (ông Ya Duk, người Kaho), một đệ tam phó chủ tịch (bà Hbi, buôn Ya), một tổng thư ký (ông Y Kuot Ayun), một thủ quỹ (ông Y Buan). Ban cố vấn gồm có các ông Paul Nur (người Bahnar), Y Chon Mlo Duon Du và Y Bliêng Hmok. Ban chấp hành các tỉnh do chính phủ chỉ định. Tại Đắc Lắc, các ông Y Chon Mlo Duon Du làm chủ tịch tỉnh bộ phong trào và Kpa Koi (người Jarai) làm phó chủ tịch. Phong Trào Đoàn Kết, trên thực tế, là cơ quan tuyển chọn người để đưa vào chính quyền. Việc làm đầu tiên là đề cử người vào Hội Đồng Sắc Tộc.

Hội Đồng Sắc Tộc, được thành lập bởi sắc luật 014/69 ngày 14/10/1969 theo điều 66, 97 và 98 Hiến pháp 1967, gồm 48 hội viên chính thức và 12 hội viên dự khuyết, trong đó 16 hội viên chính thức và 4 dự khuyết do tổng thống Việt Nam Cộng Hòa chỉ định, 32 hội viên chính thức còn lại và 8 dự khuyết sẽ được bầu tại các địa phương. Sắc lệnh 610 (28/10/1969) qui định số hội viên cho từng sắc tộc tùy theo dân số ; hội viên do tổng thống chỉ định có thể là người Kinh với tư cách là chuyên viên. Cơ quan lãnh đạo Hội Đồng Sắc Tộc là Văn Phòng Thường Trực, gồm có chủ tịch là phó tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (người Kinh), một phó chủ tịch, một tổng thư ký và hai phó tổng thư ký, tất cả là người sắc tộc. Hội Đồng có nhiều tiểu ban chuyên môn để nghiên cứu từng vấn đề liên quan đến người Thượng. Nhiệm vụ của Hội Đồng, trên nguyên tắc, là đưa ra những đề nghị với chính quyền, cử đại diện đến quốc hội điều trần và lên tiếng bảo vệ quyền lợi của các sắc tộc. Trong thực tế, Hội Đồng này không có ảnh hưởng nào đối với chính quyền vì chỉ thuần túy là một cơ quan tư vấn.

Cơ quan thực sự có quyền hành pháp là Bộ Phát Triển Sắc Tộc được thành lập ngày 9/11/1967 nhưng chức vụ tổng trưởng chỉ chính thức được bổ nhiệm ngày 22/12/1969 do sắc lệnh 197 SL/PTST. Ông Paul Nur (người Bahnar) được cử làm tổng trưởng, các ông Đoàn Chí Khoan (người Tày) làm đổng lý, Châu Văn Mỗ (người Chăm) làm tổng giám đốc và ông Y Chon Mlo Duon Du (người Rhade) làm tổng thư ký. Bộ Phát Triển Sắc Tộc được tổ chức từ trung ương xuống địa phương, gồm 25 ty và 65 chi nhánh.

Từ 1969 đến 1975, sự hội nhập người Thượng vào sinh hoạt chính trị và xã hội của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mang lại nhiều thành quả tích cực :

- Về chính trị, 90% các chức vụ quan trọng liên quan đến vấn đề sắc tộc đều do người Thượng nắm giữ, 10% còn lại do các sắc tộc khác. Các sắc tộc tại miền Nam có 1 tổng trưởng, 1 đổng lý văn phòng (thứ trưởng), 1 tổng thư ký, 1 tổng giám đốc công tác, 1 công cán ủy viên, 1 giám đốc, 3 chánh sự vụ, 1 thanh tra trưởng, 4 thanh tra ngành hành chánh, 1 tỉnh trưởng, 10 phó tỉnh trưởng, 8 quận trưởng, 30 phó quận trưởng, 26 trưởng ty phát triển sắc tộc, 24 phó trưởng ty, 9 chủ sự, 58 trưởng chi, 4 chánh án, 4 lục sự, 74 phụ thẩm tỉnh và thị xã, 270 phụ thẩm xã, 106 hiệu trưởng trung và tiểu học, 10 thanh tra học vụ, 7 giám thị và 3 quản đốc ký túc xá. Sắc luật 007/71 ấn định số ghế dành cho người Thượng trong Quốc hội là 6 ghế và thượng viện 2 ghế. Hơn một nửa số ghế nghị viên hội đồng tỉnh và thị xã trên cao nguyên (25 trên 49 ghế) thuộc về người Thượng, đa số là người Jarai và Rhade.

- Về hành chánh, trong tổng số 553 xã và 2.004 ấp có người sắc tộc cư ngụ, 388 xã và 1.555 ấp do người Thượng trực tiếp quản trị.

- Về giáo dục và đào tạo, có 65.943 học sinh theo học các trường trung tiểu học và sơ cấp, 142 sinh viên (18 đã tốt nghiệp), 1.483 học sinh cao đẳng kỹ thuật (745 đã tốt nghiệp), nhiều cán bộ tại chức và sinh viên Thượng được cử ra nước ngoài tu nghiệp. Trung Tâm Huấn Luyện Trường Sơn tại Pleiku, thành lập năm 1965, đào tạo hơn 15.000 cán bộ xây dựng sắc tộc và đến tháng 10/1970 đổi thành Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Thượng (tương đương với Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Vũng Tàu dành cho người Kinh), mỗi năm đạo tạo khoảng 270 cán bộ hành chánh Thượng cho các xã ấp và đoàn trưởng Xây Dựng Nông Thôn. Từ 1970 đến 1975, hơn 50 cán bộ Thượng ưu tú được gởi đi học các khóa thăm sự hành chánh tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Sài Gòn.

- Về quân sự, hơn 15.000 binh sĩ Thượng đứng dưới cờ Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có 734 sĩ quan (130 sĩ quan được điều chỉnh cấp bực ngày 1/2/1969) và hơn 3.000 hạ sĩ quan.

- Về xã hội, quân đội và các hội thiện nguyện Hoa Kỳ (CORDS, USAID, USOM, World Relief...) đã xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng và tiện nghi vật chất nhằm nâng cao dân trí và mức sống của người Thượng. Không một làng xã nào (đã bình định xong) không có điện nước và hệ thống đường sá tráng nhựa hay lát đá dẫn tới. Tại mỗi trung tâm định cư, người Mỹ đã giúp các trẻ em Thượng học tập nếp sống văn minh mới. Sách giáo khoa bằng 12 thổ ngữ khác nhau, phần lớn do các chuyên viên Hoa Kỳ sáng tạo trừ tiếng Bahnar và Rhade đã có từ trước, được giảng dạy ở bậc tiểu học. Các giáo hội Thiên Chúa Giáo thành lập rất nhiều cơ sở từ thiện để chăm sóc sức khỏe và giúp đỡ người Thượng. Tại Buôn Ma Thuột, Tuyên Đức và Lâm Đồng các mục sư Tin Lành xây dựng nhiều nhà thờ và bệnh xá ; tại Pleiku và Kontum, các giáo sĩ Công Giáo mở các lớp học và trại cứu tế giúp dân Thượng. Các tòa án phong tục cũng được thành lập khắp nơi để phân xử những tranh chấp về tập tục của từng sắc tộc. Giới trẻ Thượng thừa hưởng trực tiếp những cải tổ nhằm nâng cao mức sống vật chất và văn hóa đã có một trình độ kiến thức cao.

Tuy vậy, có một nốt trầm trong sự hội nhập này là một phần khá lớn thanh niên Thượng, quen với tiện nghi vật chất thành thị, xa rời nếp sống cổ truyền. Nhiều nhà nhân chủng và lãnh đạo tôn giáo Pháp nói tới hiện tượng phi văn hóa (aculture) ; xấu miệng hơn, người ta còn nói hiện tượng Việt hóa (!) của người Thượng. Trước những hiện trạng tiêu cực này, trong đầu của một số trí thức Thượng nuôi dưỡng ý muốn tách khỏi ảnh hưởng của chính quyền Việt Nam để thành lập một quốc gia riêng.

Nói chung giai đoạn từ giữa tháng 10/1969 đến đầu tháng 3/1975 có lẽ là thời kỳ vàng son nhất của cộng đồng người Thượng từ khi được biết đến, nhưng thời gian này quá ngắn để những cố gắng hội nhập cộng đồng người Thượng vào xã hội Việt Nam trên một cách bền vững hơn.

5. Phong trào FULRO hải ngoại : Chống đối vẫn tiếp tục

Trở về với thực tế 1969, do yêu cầu của chiến tranh, cư dân Thượng trong những buôn làng Thượng ở chốn rừng sâu buộc phải di dời ra khỏi những vùng oanh kích tự do (free fire zone) để về định cư trong các ấp chiến lược được xây dựng dọc các trục lộ giao thông hay cạnh các trung tâm đô thị lớn, nếp sống và lối canh tác cổ truyền đã gần như bị xao lãng. Phe cộng sản, mất địa bàn hoạt động, xúi giục dân chúng Thượng trở về chốn cũ. Tây Nguyên còn là nơi diễn ra những trận chiến kinh hồn giữa các phe tranh chấp, hàng trăm ngàn thanh niên Việt Nam và Thượng đã bỏ mình trên các chiến địa và hàng triệu tấn bom đạn đã dội xuống những vùng này. Những địa danh như Khe Sanh, A Sao, A Lưới, Chu Prong, Dakto, Plei Me, Tumorong, Buôn Hô... trở thành sử tích trong chiến tranh Việt Nam. Khoảng 200.000 người trên tổng số một triệu dân số Thượng đã chết trong cuộc chiến.

Về những người Thượng tham gia chính quyền Đệ nhị Cộng Hòa, chức vụ đồng nghĩa với quyền lực và quyền lợi, chức vụ càng cao tranh chấp vây cánh càng lớn, mỗi khi có sự phân bổ vào những chức vụ cao cấp mới họ sẵng sàng đấu dao găm với nhau. Những lãnh tụ Thượng trong chính quyền, vì chưa quen với sinh hoạt chung với nhau, muốn giành tối đa quyền lợi về cho phe nhóm mình hay cho sắc tộc mình. Mặc dù chỉ là một cơ quan tư vấn, sự đề cử người vào Hội Đồng Sắc Tộc gây tranh chấp lớn giữa các lãnh tụ Thượng (ai là người được được chỉ định và ai là người phải qua bầu cử, tỷ lệ là bao nhiêu ?) và làm cản trở sự điều hành của định chế. Trong Bộ Phát Triển Sắc Tộc cũng vậy, mục tiêu chính của Bộ là đoàn kết các sắc tộc đã bị sao lãng. Ngân sách của Bộ Phát Triển Sắc Tộc lớn hơn Bộ Chiêu Hồi và Bộ Lao Động nên ưu tư chính của những lãnh tụ Bahnar, Jarai và Rhade thời đó ai cũng tranh nhau lãnh đạo bộ này. Nhưng chính quyền quân đội chỉ ưu đãi những ai phục tùng chế độ. Ngày 17/6/1971, Nay Luett, một lãnh tụ Jarai, thay Paul Nur trong chức vụ tổng trưởng cho tới tháng 4/1975, trong khi cán bộ Rhade đông hơn chỉ giữ vai trò thứ yếu do đó rất bất mãn. Thêm vào đó, sự có mặt của chuyên viên kỹ thuật gốc Kinh trong bộ càng làm những lãnh tụ Thượng bực bội, vì cho rằng chính quyền muốn kiểm soát hoạt động của bộ, việc điều hành thường bị trì trệ.

Mặt khác, đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, FULRO là phong trào đấu tranh của riêng người Thượng, do đó mọi cố gắng đều dồn cho người Thượng để xoa dịu sự bất mãn. Trong Phong Trào Đoàn Kết, đại diện các sắc tộc thiểu số đều có mặt theo tỷ lệ, trừ người Chăm và người Khmer (vì sinh sống ở đồng bằng, có số dân đông đảo và từng tham gia cầm quyền dưới các chế độ phong kiến) không được công nhận là sắc tộc thiểu số. Thêm vào đó những lãnh tụ Khmer còn bị nghi ngờ có quan hệ với Phnom Penh, một chính quyền thân cộng do Sihanouk đứng đầu, để quấy phá Việt Nam. Trong một cuộc bỏ phiếu tại Quốc hội ngày 7/10/1969, 98 dân biểu ủng hộ thành lập một qui chế đặc biệt cho người Khmer nhưng bị thủ tướng Trần Thiện Khiêm phủ quyết "vì quyền lợi và an ninh quốc gia". Sự kiện này làm cho lãnh đạo các nhóm Khmer Chăm và Khmer Krom tại Cambodia càng thêm uất ức.

Tại Phom Penh, tức tối về những gì đang xảy ra tại Việt Nam và để làm áp lực với nhóm FULRO Thượng trở về qui chánh, cuối tháng 10/1969 Les Kosem cho thành lập Ủy Ban Hành Động Lâm Thời Trung Ương, bên cạnh Ủy Ban Chỉ Đạo Tối Cao do ông lãnh đạo, và cử hai người Chăm, Hoàng Minh Mộ làm chủ tịch và Huỳnh Ngọc Sắng (Ya Mabrang) phó chủ tịch kiêm ủy viên tổ chức. Cuối năm 1970 Les Kosem giải tán Ủy Ban Hành Động Lâm Thời Trung Ương vì vô tích sự và thành lập Ủy Ban Lãnh Đạo FULRO và đưa Y Bun Sor vừa từ Pháp trở về lên làm chủ tịch.

Ngày 18/3/1970, Les Kosem giúp tướng Lon Nol cùng nhóm Khmer Sray, do Intam và Cheng Heng lãnh đạo, lật đổ Sihanouk. Sau cú đảo chính này, Les Kosem được Lon Nol tin cậy và được toàn quyền tổ chức đội quân thiểu số tại Cambodia gồm 7 tiểu đoàn sắc tộc gốc Chăm, Khmer Krom (người Khmer trên đồng bằng sông Cửu Long) và Phnong (Phnong là người Thượng theo tiếng Khmer), tất cả gom lại thành hai lữ đoàn : Lữ Đoàn 5 Bộ Binh gồm toàn người Chăm do trung tá Chek Ibrahim chỉ huy và Lữ Đoàn 40 Biệt Kích gồm toàn người Thượng do Y Bhan Kpor lãnh đạo.

Một cách không chính thức, Les Kosem thành lập Phong trào FULRO Hải Ngoại để chống chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Ông cử người lên Mondulkiri kêu gọi lực lượng FULRO Thượng về hợp tác trong ý đồ tái lập vương quốc Champa và thành lập Cộng Hòa Tây Nguyên. Một số đơn vị FULRO Thượng ly khai, mất nguồn tiếp liệu, phải về hợp tác với Les Kosem và được bổ xung vào Lữ Đoàn 40 ; số còn lại hợp tác với quân Khmer Đỏ, được phe cộng sản Việt Nam trang bị và tiếp tế để chống lại Phnom Penh. Thủ lãnh FULRO Thượng Y Bham Enuol vẫn bị Les Kosem giam lỏng tại Phnom Penh.

Việc làm đầu tiên của Les Kosem trong chức vụ mới là xúi giục các nhóm Khmer Krom và Khmer Chăm tấn công vào các làng xã và ghe thuyền của người Việt trên Biển Hồ, quanh Phnom Penh và dọc lưu vực sông Mekong, đồng thời phát động một phong trào bài Việt trên khắp lãnh thổ. Sự sát hại người Việt một cách quá đáng buộc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đưa quân sang Cambodia tháng 4/1970 bảo vệ đồng thời phá luôn các căn cứ quân sự của phe cộng sản dọc vùng biên giới, đặc biệt là tại khu Mỏ Vẹt (tỉnh Svay Rieng). Phnom Penh sau đó bị đặt dưới trướng Sài Gòn và phong trào săn đuổi người Việt trên đất Cambodia cũng chấm dứt.

Trước thế lực áp đảo của lực lượng Khmer Đỏ, cuối năm 1971 Lon Nol phong Les Kosem hàm thiếu tướng và cử làm tổng trấn Phnom Penh ; hai lữ đoàn sắc tộc được triệu về trấn thủ quanh thủ đô. Tại đây, thấy không thể dùng võ lực đánh lại Việt Nam, Les Kosem thành lập Phái Đoàn Vận Động FULRO Hải Ngoại vận động các quốc gia dầu lửa hồi giáo Ả Rập và Đông Nam Á ủng hộ phong trào FULRO của ông. Mở đầu cuộc vận động, Les Kosem dẫn 5 sĩ quan tùy tùng đi Saudi Arabia xin viện trợ và viếng thăm La Mecque, sau đó sang Pháp, Mã Lai, Indonesia, Nhật Bản và Thái Lan gặp những vị nguyên thủ quốc gia xin giúp đỡ tài chánh và quân sự. Về lại Phom Penh, Les Kosem tập trung 15 lãnh tụ Chăm chia thành ba nhóm đi vận động ngoại giao : nhóm đi các nước Ả Rập, do Primé đại diện, nhóm đi Đông Nam Á do El Ibrahim cầm đầu và nhóm đi Châu Âu do chính Les Kosem hướng dẫn.

Uy tín của Les Kosem ngày càng lên cao, ngày 26/10/1972 ông được Tổng thống Lon Nol cử làm đặc sứ đi Indonesia và các nước Đông Nam Á giải thích lập trường của chính phủ quân sự Cambodia. Nhân dịp này, Les Kosem vận động với các quốc gia hồi giáo Đông Nam Á giúp người Chăm phục hồi vương quốc Champa.

Từ 1972 đến 1975, nhiều buổi hội thảo về nền văn minh và văn hóa Chiêm Thành, những quan hệ của Chiêm Thành với các quốc gia trong vùng được tổ chức tại các thủ đô Đông Nam Á và Châu Âu, nhằm tố cáo cuộc Nam tiến của người Việt Nam. Nhưng tham vọng của Les Kosem đã không được toại nguyện, Khmer Đỏ chiếm nhiều tỉnh ở phía bắc (Strung Treng, Kratie, Rattanakiri và Mondulkiri) và tiến dần về thủ đô Phnom Penh. Lon Nol gọi Les Kosem về bảo vệ thủ đô, hai lữ đoàn sắc tộc đã chống trả dữ dội các cuộc tiến công của quân Khmer Đỏ, cuối cùng thủ đô Phnom Penh bị thất thủ.

Ngày 15/4/1975, Les Kosem cùng một số thân tín, trong đó có Y Bham Enuol và vợ con, chạy vào tòa đại sứ Pháp tị nạn ; Les Kosem cùng toàn thể gia đình được đưa đi Pháp liền trong ngày.

Ngày 17/4/1975, quân Khmer đỏ tiến chiếm thủ đô Phnom Penh và tràn vào tòa đại sứ Pháp bắt tất cả những ai không phải là người Pháp hay có quốc tịch ngoại quốc đem đi. Y Bham Enuol cùng toàn thể gia đình và thân tín bị quân Khmer đỏ hành quyết tại sân vận động thủ đô Phnom Penh.

6. Phong trào FULRO Dega : người Rhade đòi quyền tự trị

Năm 1970, cuộc chiến tại Việt Nam bước vào giai đoạn thương nghị, người Mỹ muốn rút lui và chuẩn bị Việt Nam hóa chiến tranh, các phe thù địch chuẩn bị cho giai đoạn hậu chiến.

Đối với một số nhân sĩ Thượng, nhất là những lãnh tụ Rhade, Phong Trào Đoàn Kết (bị giải tán năm 1972) không thực sự tranh đấu cho quyền tự trị của người Thượng trên cao nguyên. Đầu năm 1972, những người này thành lập Ban Bảo Vệ Dân Tộc, chống lại chính sách Thượng vụ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cuối năm 1972, Ban Bảo Vệ Dân Tộc đổi tên thành Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên Người Thượng (FLHPM - Front de Libération des Hauts Plateaux Montagnards), do Y Bham Enuol (vắng mặt, lúc đó đang bị Les Kosem giam lỏng tại Phnom Penh từ cuối năm 1968) làm chủ tịch và Kpa Koi phó chủ tịch - tranh đấu đòi quyền tự trị cho người Thượng.

Tổ chức này độc lập với phong trào FULRO ở Cambodia, do Les Kosem lãnh đạo, và thành lập một chính phủ lâm thời gồm 11 bộ do các ông Y Bliêng Hmok, Y Chon Mlo Duon Du, Kpa Koi, Y Bách Eban, Y Preh, Y Ngue, v.v... đảm nhiệm.

FLHPM đặt tên cao nguyên miền Trung là Cộng Hòa Dega - từ đó tổ chức này có thêm tên gọi mới là FULRO Dega. Dega theo tiếng Rhade là những đứa con của rừng núi. Cờ Dega ba màu (xanh lá cây, trắng và đỏ), ở giữa là một đầu voi trong vòng tròn màu vàng.

Cộng Hòa Dega được chia thành năm quân khu : Quân khu I gồm cao nguyên Kontum, Quảng Ngãi, Bình Định ; Quân khu II : cao nguyên Pleiku, Cheo Reo (Phú Bổn cũ) và Phú Yên ; Quân khu III : cao nguyên Đắc Lắc, Mdrack (Khánh Dương cũ) và Dak Nong (Quảng Đức cũ) ; Quân khu IV : cao nguyên Lang Biang (Tuyên Đức cũ), Brah Yang (Lâm Đồng cũ) và Gung Car (Đồng Xoài cũ) ; và Quân khu V gồm Ninh Thuận và Bình Thuận. Nhóm FULRO Champa được giao cai quản quân khu V.

Sự ra đời của FULRO Dega nằm trong kế hoạch thành lập nhiều lực lượng thứ ba của Mỹ, do tướng John Paul Van khuyến khích, để tranh quyền với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, đặc biệt là với Mặt Trận Tây Nguyên Tự Trị do Y Bih Aleo lãnh đạo, trong chính phủ liên hiệp gồm ba thành phần tại miền Nam Việt Nam, theo tinh thần Hiệp Định Paris ý ngày 27/01/1973.

Để gây thế lực, phong trào Dega bí mật kêu gọi nhân sĩ, sĩ quan và binh sĩ Thượng trở về Tây Nguyên chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới. Đầu năm 1975, lực lượng quân sự FULRO Dega có trên 10.000 tay súng (hơn 2/3 binh sĩ Thượng trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa gia nhập hàng ngũ Dega), bộ chỉ huy và các căn cứ quân sự được thiết lập dọc biên giới Đắc Lắc, Quảng Đức và Mondulkiri.

Nguyễn Văn Huy