Cách nào đánh giá tình hình dân chủ tốt hơn ? Ngô Thái Văn
Những bộ óc vĩ đại đã thảo luận về ý tưởng dân chủ từ thời Hy Lạp cổ đại, tuy nhiên vẫn chưa có sự thống nhất về nội dung. Hiện tại, có hai cách tiếp cận chính trong đánh giá mức độ dân chủ của một chính quyền là Phương pháp tối giản và Phương pháp tối đa.
"Dân chủ không bao giờ tự có. Dân chủ luôn là giá trị mà một quốc gia cần phải làm để có" - Archibald MacLeish
Bài viết này chỉ nói về 2 cách nêu trên mà không đề cập các cách tiếp cận khác nằm giữa hai cực này.
1. Cách tiếp cận tối giản
Cách
tiếp cận tối giản để đánh giá một quốc gia có dân chủ hay không tập
trung vào khía cạnh cơ bản. Dahl (1973), sự cạnh tranh và sự tham gia
chính trường.
Sự
tự do cạnh tranh giữa các chính trị gia các chức vụ được bầu vào chính
quyền biểu hiện mức độ dân chủ của chính quyền đó. Điều này dễ thấy
trong quốc gia đa đảng. Hệ thống chính trị không có sự cạnh tranh như
Libya dưới thời Gaddafi hay Iraq dưới thời Saddam Hussein được coi là
phi dân chủ.
Việt
Nam, quốc gia chỉ có một đảng giữ quyền cai trị đất nước, các chức vụ
trong chính quyền từ chủ tịch nước cho đến chủ tịch xã đều được đảng
cộng sản chỉ định. Bên cạnh các tổ chức chính quyền, các nhân sự trong
Ủy ban nhân dân tỉnh, quận, phường xã, do đảng chỉ định phải thi hành
đường lối của đảng trong việc cai trị, điều hành các hoạt động hành
chính, an ninh, xã hội… còn có một tổ chức đảng cao hơn, uy lực hơn gọi
là Ban Bí Thư ngay sát sườn để theo dõi, ‘uốn nắn’ Ủy ban nhân dân.
Thí
dụ chủ tịch, phó chủ tịch tỉnh được chỉ định bởi Bộ Chính Trị để điều
hành các hoạt động hành chính, an ninh, xã hội… trong tỉnh. Bên cạnh lại
có ban Bí Thư tỉnh kiểm soát. Chức vụ bí thư, phó bí thư trong ban bí
thư này cũng do đảng chỉ định.
Ở
các quốc gia dân chủ như Pháp, Mỹ, Đức, Nhật chẳng hạn, các chức vụ
lãnh đạo chính quyền từ quốc gia đến tiểu bang, thành phố đều được dân
bầu lên theo định kỳ hiến định. Ở Mỹ, Tổng thống và phó Tổng thống được
bầu gián tiếp của Đại Cử tri đoàn. Các Thống đốc tiểu bang, Thị trưởng
được bầu trực tiếp.
Anh,
Nhật, Thụy Điển…, các quốc gia được xem là dân chủ vì quyền điều hành
đất nước là Thủ tướng được dân bầu gián tiếp qua đảng thắng cử bởi một
cuộc bầu cử đa đảng. Quốc vương chỉ có tư cách đại diện quốc gia.
Quyền
tham gia chính trị của người dân qua tự do ứng cử và bầu cử đo lường
mức độ dân chủ của một quốc gia. Tại các nước tự do dân chủ, bất cứ công
dân nào đến tuổi và hội đủ tiêu chuẩn hiến định đều có quyền ứng cử,
bầu cử. Tại các quốc gia không dân chủ, các quyền này bị hạn chế hay
tước đoạt cách này, cách khác, thậm chí ngay cả bởi Hiến pháp.
Người
lãnh đạo Bắc Hàn theo truyền thống là người kế thừa bởi Chủ tịch Kim
Nhật Thành. Các lãnh đạo địa phương, ‘dân biểu’ quốc hội cũng được chỉ
định không khác Việt Nam.
Ở
Việt Nam người dân không có quyền tự do ứng cử, người ứng cử vào các
chức vụ hành chính đã đành, các ứng viên dân biểu quốc hội chẳng hạn
phải hoặc do Đảng cộng sản Việt Nam chỉ định, và Mặt Trận Tổ Quốc các
cấp sàng lọc. Không ai có thể có tên trên bảng danh sách ứng viên nếu
không qua được đèn xanh của hai cơ quan đảng và Mặt Trận này.
Hơn
thế nữa với hệ thống bầu cử giả tạo người của chính quyền như tổ trưởng
dân phố có thể đi bầu thay cho cả tổ, một người có thể bỏ phiếu cho cả
gia đình v v. Ngược lại, một người không đi bầu có thể phải chịu rắc rối
với chính quyền về tội chống bầu cử.
Chính
vì vậy, người ta không ngạc nhiên khi con số người đi bầu luôn gần 100%
Việt Nam vẫn bị coi là chính quyền không dân chủ. Và dù số người đi bầu
luôn gần đạt mức 100% người dân Việt Nam, kể cả các đảng viên của Đảng
cộng sản Việt Nam, thực sự bị tước quyền bầu cử, ứng cử.
Các
quốc gia, chẳng hạn như Hoa Kỳ, Anh, Pháp. Úc… được coi là dân chủ, mọi
công dân có quyền, theo hiến định, ứng cử vào các chức vụ trong nhà
nước và quyền bầu cử hay không đi bầu. Mọi vi phạm quyền tự do bầu cử,
gian lận đều bị trừng phạt.
2. Phương pháp tối đa
Phương
pháp tối đa bổ sung nhiều thuộc tính hơn cho Phương pháp tối giản.
Trong số đó có tính bình đẳng, tính đại diện, tính thảo luận và sự tham
gia.
Bình
đẳng có thể hiểu là sự không phân biệt về sự giàu có, thu nhập hoặc địa
vị, v.v của ứng viên (Coppedge 2012, 12-13). Nhà nước trợ cấp tiền, hay
các ứng viên được phép toàn quyền quyên góp cho ngân quỹ vận động bầu
cử của mình.
Hệ
thống bầu cử khu vực thành viên đơn, winner takes all của Hoa Kỳ, chỉ
một người hay liên danh được số phiếu tương đối cao nhất nhận tất cả
phiếu đại cử tri đoàn của tiểu bang, được coi là ít tính đại diện hơn,
tuy nhiên điều này lại làm cho các tiểu bang dù lớn hay nhỏ hơn, có số
phiếu đại cử tri đoàn rất chênh lệch, trở nên có quyền ngang nhau. Hệ
thống bầu cử lãnh đạo tiểu bang, các thành phố không theo cách này.
Người hay liên danh nhận được đa số tương đối phiếu bầu sẽ thắng cử.
Hệ
thống đồng thuận được coi là có tính cân nhắc trong hệ thống theo đa
số. Có những thảo luận giữa các nhóm khác nhau như chính phủ, các nhóm
tư bản, và lao động, đảng phái trước các cuộc bầu cử, và người chiến
thắng trong cuộc bầu cử sau này được tự do điều hành xã hội trong các
điều khoản đã thỏa thuận trước với các nhóm khác.
Hệ
thống đồng thuận cung cấp cho công dân nhiều cơ hội hơn để tham gia hầu
như trực tiếp hoạt động chính quyền. Tiếng nói của các tầng lớp nhân
dân được nghe thường xuyên giữa các cuộc bầu cử, người dân có thể bày tỏ
ý kiến của họ ở mức độ khác nhau trong các thảo luận nhóm của họ
(Lijphart 2012).
Hệ
thống ứng cử vào quốc hội ở VN qua những buổi hiệp thương, ở đó Mặt
Trận Tổ Quốc và một số đoàn thể và chính quyền cùng ngồi lại để tìm ra
người được phép ứng cử. Hình thức này không thể so sánh với hệ thống
đồng thuận giữa các nhóm xã hội hoàn toàn có những lợi ích khác nhau.
Xem
thế, rõ ràng là một số nền dân chủ không giống hơn những nền dân chủ
khác. Mặc dù chính khái niệm dân chủ bao hàm sự công bằng, mỗi xã hội
dân chủ có giá trị công bằng khác nhau. Chúng có thể khác nhau về thuộc
tính như công bằng, đại diện, tính thảo luận… (Lijphart 2012).
Tuy
nhiên, cách tiếp cận theo chủ nghĩa tối đa có một số nhược điểm. Người Ả
Rập coi trọng dân chủ về quyền công dân và tự do chính trị, nhưng họ
coi nó như một công cụ để giải quyết các vấn đề như thất nghiệp và nghèo
đói (Braizat 2010).
Phương
pháp tối giản để đánh giá sự dân chủ của một chế độ có nhiều lợi thế
hơn, dữ liệu dồi dào hơn, dễ dàng thu thập dữ liệu ở các quốc gia phi
dân chủ hơn. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, nó không thể phân biệt được
một số chất lượng dân chủ giữa các nền dân chủ tiên tiến (Coppedge 2012,
21).
Vì
vậy, theo tôi phương pháp tối giản có thể phù hợp hơn, thuận lợi hơn
trong việc nghiên cứu quá trình tự do hóa và quá trình chuyển đổi từ chế
độ độc tài sang dân chủ trong khi phương pháp tối đa lại phù hợp hơn để
nghiên cứu các yếu tố quyết định chất lượng dân chủ trong các hệ thống
dân chủ khác nhau.
Tóm
lại, khi có thể nên làm dày thêm khái niệm dân chủ để việc nghiên cứu
về dân chủ hóa và các yếu tố quyết định chất lượng dân chủ được hoàn
thiện hơn. Tuy nhiên, các khái niệm càng dày thì càng ít dữ liệu có sẵn,
đặc biệt là đối với nghiên cứu về dân chủ hóa vì chúng liên quan đến
việc thu thập dữ liệu đáng tin cậy, đặc biệt là trong các chế độ độc
tài. Hơn nữa, dữ liệu lịch sử có thể không có sẵn bây giờ cho một số
lượng lớn các trường hợp cho các khái niệm rất dày về dân chủ.
Ngô Thái Văn
Nguồn : VNTB, 20/08/2020
Tài liệu tham khảo :
Braizat, Fares, "What Arabs Think", in Journal of Democracy, Volume 21, Number 4, October 2010, pp. 131-138
Coppedge, Michael. 2012. Democracy and Research Methods. Cambridge University Press.
ISBN-10 : 0521537274
Dahl, R. A. (1973). Polyarchy : Participation and opposition. Yale University Press.
Lijphart, A. (2012). Patterns of democracy : Government forms and performance in thirty-six countries. Yale University Press.