Đảng Cộng sản Việt Nam thấy gì trong thứ ánh sáng của những ngày tàn trên đế chế Trung Hoa? (Chu Tuấn Anh)

Thành công quản lý đô thị không là giải pháp cho cuộc khủng hoảng một đế chế

Chúng ta sẽ không có gì phải bàn cãi khi Trung Quốc là một nước lớn với một trình độ văn hóa, và khoa học kỹ thuật vượt trội hẳn so với những nước lân bang và những nền kinh tế mới nổi trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trung Quốc cũng đã vươn lên một cách nhanh chóng kể từ khi bước vào thế kỷ 21, để rồi sự tăng trưởng đó đã không mang lại một sự chuyển hóa dân chủ cho Trung Quốc như người ta kỳ vọng. Trung Quốc chỉ vươn lên cùng với phong trào tự do kết hợp thương mại- toàn cầu hóa xô bồ để đổi lại là những ngày tàn lụi kéo dài của một đế quốc- nền văn minh Hoa Hạ khi một kỷ nguyên mới bắt đầu sang trang.

Nếu ai đó đến Bắc Kinh hay nhiều thành phố lớn của Trung Quốc vào năm 2025, chúng ta cũng không nên quá ngạc nhiên khi thấy những thành phố này đã khác xa so với thời kỳ trước những năm 2016 khi vấn đề ô nhiễm do sự phát triển của công nghiệp hóa ồ ạt mang lại. Ô nhiễm không khí đã giảm ở mức đáng kể vì những nỗ lực hạn chế phương tiện xăng dầu và điện hóa phương tiện giao thông; tiền mặt đã bắt đầu biến mất trong giao dịch; những ứng dụng thông minh và trí tuệ nhân tạo đã bắt đầu được ứng dụng khắp nơi; cùng sự ngay ngắn của văn minh đô thị và những cơ sở hạ tầng luôn được chăm chút, tu bổ; cùng văn hóa quản lý rác thải và nước mặt đô thị. Nhưng những tiến bộ và sự giàu có tập trung và bề nổi cũng không giúp đế chế Trung Quốc tránh được một cuộc khủng hoảng và có thể sẽ chỉ kết thúc khi Trung Quốc không còn có thể duy trì một diện tích và dân số hiện tại, nghĩa là tan rã. Thành phố, đô thị cùng với đô thị hóa chắc chắn là nạn nhân của tăng trưởng trong bất cứ một nền kinh tế nào. Tuy nhiên, các vấn đề của một quốc gia chưa bao giờ là những vấn đề quản lý đô thị. Và giải quyết thành công các vấn đề hạn chế về mặt quản lý- quy hoạch đô thị cũng không giúp Trung Quốc tránh được một cuộc khủng hoảng khổng lồ của đế quốc Trung Hoa.

Một góc Bắc Kinh từ trên cao

Tầng lớp trung lưu Trung Quốc sẽ biến mất?

Tầng lớp trung lưu của Trung Quốc đang dần biến mất. Thị trường bất động sản-chứng khoán tụt dốc: đầu tư vào bất động sản đã giảm 9.8% chỉ trong hai tháng đầu năm của năm 2025, sau khi ở mức 10.6% năm 2024. Doanh thu bất động sản thuê mặt bằng giảm 5.1% so với mức 12.9% vào năm ngoái; số lượng mặt bằng xây mới giảm 29.6% so với 23% vào năm ngoái. Bất động sản từ lâu là nơi tích trữ của tầng lớp trung lưu thành thị ở Trung Quốc, và cũng là tài sản chủ yếu của các gia đình Trung Quốc (70% tài sản gia đình đến từ bất động sản); dựa trên giá nhà đất tiếp tục tăng cao và khối thu nhập thụ động đến từ việc cho thuê mướn. Khi thị trường bất động sản suy sụp cùng những EverGrande thì đó cũng là một điềm báo cho thấy “trung lưu” của Trung Quốc đang dần biến mất.

Tại Trung Quốc có 143 triệu người là những người đi thuê nhà, đa số là những người trẻ hoặc tầng lớp lao động thu nhập thấp, người nhập cư không thể mua được căn hộ tại các thành phố lớn. Giá thuê nhà có thể chiếm tới 25% thu nhập của tầng lớp này thậm chí có thể lên tới 60% ở Thượng Hải. Sự sụt giảm nguồn thu nhập thuê nhà của tầng lớp trung lưu thực tế cũng là một sự đau đớn của hàng triệu người đang bị đẩy dạt về các khu vực ven đô, hoặc bỏ về quê hương; nghĩa là từ bỏ thị trường lao động cùng với sự thương tổn họ gặp phải mà chế độ độc tài đã không cho phép một thống kê chính xác nào.

Sự phá sản của tư nhân Trung Quốc

Bất động sản và chứng khoán đã thổi bay tài sản của tầng lớp trung lưu kể từ thời kỳ đại dịch Covid-19 và kéo theo đó là một giai đoạn giảm phát và suy giảm về sức mua kéo dài. Trong cơn khủng hoảng đó thì còn có vấn đề dư thừa năng lực sản xuất-xây dựng của Trung Quốc trong bối cảnh con đường làm giàu nhờ vào xuất khẩu và con đường cho vay vốn đầu tư thông qua khuôn khổ Vành đai-Con đường đang dần khép lại. Nhưng có thể nào khác khi làn sóng dân chủ thứ tư đòi hỏi đặt lại một sự cân bằng về kinh tế được quản lý ngay ngắn dựa trên cân đối ngân sách và đầu tư công một cách hợp lý, dựa trên sức mạnh về thị trường nội địa, và, kiểm soát thâm thủng thương mại, đồng thời tránh xu hướng đầu cơ, độc quyền trong thị trường. Nhưng từ lâu Trung Quốc đã lấy những điểm yếu chí mạng của họ làm những điểm mạnh, họ sẵn sàng dùng năng lực xuất khẩu dư thừa, quy mô, và khả năng tiếp cận vốn vay của cường quốc sản xuất số một thế giới của mình để chèn ép khối kinh tế mới nổi trong nhiều ngành sản xuất, trong đó có công nghiệp chế biến khoáng sản-quặng, vv.

Nhưng sự lấn lướt đó cũng không đem lại cho Trung Quốc một đảm bảo nào ngoài sự ê chề. Ngay cả địa hạt sản xuất quặng đất hiếm mà Trung Quốc đã tìm cách giữ lấy vai trò độc quyền bằng sự hy sinh về môi trường của mình cũng không dẫn đến sự khởi sắc trong ngành công nghiệp chất bán dẫn. Cụ thể, 10,000 công ty bán dẫn của Trung Quốc phá sản chỉ trong những năm 2021-2022. Mới đây nhất là năm 2024, khi công ty Shanghai Wusheng cũng đã tuyên bố phá sản. Những ngành đường sắt, những turbine trụ gió cùng tầm panel mặt trời dư thừa cần được bán tháo; và những dự án cầu đường, đập thủy điện gây thất thoát tài sản cho những công ty xây dựng của Trung Quốc, và vỡ nợ cho cho chính quyền các quốc gia đang cởi mở đã sa vào bẫy tham nhũng từ đầu tư công cũng đánh dấu hồi kết cho dự án Vành đai-Con đường để xuất khẩu năng lực dư thừa và mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư công của mình ra thế giới.

Thực tế các thông tin về một số mô hình AI như Deepseek, một số mẫu chip “ưu việt” thỉnh thoảng được Trung Quốc quảng bá chỉ như một sự gồng mình vụng về để che đậy đi một sự sụp đổ toàn diện của ngành sản xuất và xây dựng. Đổi mới sáng tạo không đến từ một vài sản phẩm được phát triển chọn lọc rồi đem ra truyền thông: nó đến chủ yếu từ “tư nhân”- nghĩa là con người phát kiến ra những sản phẩm mới, sáng tạo mới hoặc vượt trội và thị trường để tạo ra lợi nhuận. Nhưng tư nhân của Trung Quốc đã suy yếu rõ rệt kể từ sau năm 2016 khi Tập Cận Bình đã ngày càng thô bạo đánh đuổi tư nhân nước ngoài, chèn ép tư nhân trong nước để dồn cho doanh nghiệp nhà nước và một bộ phận tư bản bè đảng để độc quyền hóa thị trường.

Phải chăng, những lời kêu gọi về kinh tế tư nhân của Tập Cận Bình chỉ là một sự đầu hàng trước một tình hình đã không còn một giải pháp nào- vì đầu tư công đã thất bại, nỗ lực dồn sức cho một bộ phận tư bản bè đảng thất bại, nguồn vốn FDI không còn vì sự cởi mở với thế giới phải chấm dứt, con đường xuất khẩu đã không còn sau những biến động trên thế giới?

Cuộc chuyển hóa sang nền kinh tế dịch vụ phẩm chất đã thất bại

Tỷ lệ thất nghiệp ở giới trẻ thuộc mức trên 25% đáng lo ngại vì nó là một chỉ dấu Trung Quốc đã thất bại trong việc chuyển hóa sang một nền kinh tế dịch vụ và phẩm chất đúng nghĩa- vì những người sẽ tham gia vào kinh tế dịch vụ chủ yếu là người trẻ với một trình độ giáo dục bậc cao đã phổ biến hơn hẳn thế kỷ trước. Phong trào bỏ mặc cuộc sống “Lie flat” (nằm thẳng) cũng là chỉ dấu cho thấy công việc hành chính-văn phòng (white collar) ở Trung Quốc đã trở thành một sự tra tấn về thể chất-trí óc hơn là một công việc phẩm lượng của hợp tác và sáng tạo. Trung Quốc sẽ già đi và bỏ lại đó những đai truyền gia công- động lực của nền kinh tế Trung Quốc. Khi đó thì những cơ sở vật chất đã được xây cất nhờ năng lực dư thừa tại các thành phố; những tuyến đường, cây cầu, đường sắt cao tốc, cùng các thành phố ma chỉ còn là những khối sắt và bê tông vô hồn tạo ra sự vô duyên cho một cuộc khủng hoảng sâu sắc mà có thể kéo hàng trăm triệu người TQ trở lại mức đói nghèo mà thôi.

Những đà tiến về việc loại bỏ tiền giấy sử dụng các giao dịch điện tử, những ứng dụng thành phố thông minh cũng đã chỉ nói lên rằng đà tiến xã hội đã thay đổi và cũng đang diễn ra hàng ngày ngay cả tại những nước kém phát triển như châu Phi mà thôi. Đúng là Trung Quốc đã trở nên văn minh hơn, thậm chí có thể khối lượng kinh tế dịch vụ đã tăng- nhưng đó chỉ là một thứ kinh tế dịch vụ phẩm chất thấp và hoàn toàn khác với nền kinh tế dịch vụ phẩm chất (mà dự án Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai đề cập).

Thực ra, như tôi nhiều lần đề cập Trung Quốc đã thất bại trong cuộc chạy đua về mô hình phát triển khi cả Hàn Quốc, Đài Loan đã chuyển mình trở thành một nước thu nhập trung bình cao; Nhật Bản dù đã phải mất một vài thập kỷ lao đao với già hóa dân số và nhu cầu chuyển hóa từ kinh tế sản xuất, ứng dụng công nghệ sang kinh tế dịch vụ phẩm chất và làm chủ công nghệ, đã trở thành một đảm bảo dù Nhật Bản không nhất thiết phải là một siêu cường. Đó đều là những ví dụ của những nước đã quả quyết với con đường dân chủ hóa và chấp nhận những giá trị tiến bộ. Ngày nay, Trung Quốc vẫn là một nước thu nhập trung bình và họ đang rơi vào bẫy thu nhập trung bình: dân số già, không chuyển sang được nền kinh tế dịch vụ phẩm chất khi công việc sản xuất sẽ bị thu hẹp lại và cũng không tạo ra được thu nhập mức cao dù đã được cho không ba thập kỷ ưu đãi với vai trò sản xuất áp đảo khối kinh tế mới nổi tại Ấn Độ-Châu Á-Thái Bình Dương. Đó sẽ là một thảm họa cho Trung Quốc ngay cả khi Trung Quốc vẫn là một nước có năng lực sản xuất vượt trội, nhưng không còn có vai trò áp đảo vì cơ hội sẽ được chia đều cho khối các nền kinh tế mới nổi, và nhiều nước trong đó có một mô thức đúng đắn và dân chủ-họ sẽ nhanh chóng vượt lên Trung Quốc về mức độ phát triển.

Dù đã đẩy lùi được ô nhiễm một cách hạn chế ra khỏi các thành phố lớn- nhưng vấn đề môi trường vẫn sẽ tàn phá đế quốc Trung Hoa với những hệ lụy về địa chính trị trong đó có vấn đề sa mạc hóa và nguồn nước bắt đầu khan hiếm ở miền Bắc và Tây Trung Quốc. Trong năm ngoái họ đã đốt nhiều than đá và thậm chí phát thải nhiều hơn, vẫn phát thải chiếm 30% của thế giới trong khi những tấm panel, trụ gió dư thừa dường như đã chẳng nói lên điều gì cho thấy Trung Quốc sẽ thành công trong cuộc chuyển hóa xanh bắt buộc phải thực hiện. Vấn đề môi trường vẫn sẽ tiếp tục là một khoản đầu tư vô cùng lớn mà Trung Quốc sẽ phải tiến hành ở phạm vi ngoài các thành phố trong một bối cảnh nguồn thu từ kinh tế đã chững lại.

Một cuộc khủng hoảng chính trị và ý thức hệ khổng lồ

Nhưng điều có lẽ làm người ta đáng lo nhất là những mâu thuẫn gần đây trong nội bộ đảng Cộng Sản Trung Quốc, là những tố cáo đến từ những cựu lãnh đạo như Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo và gần đây là Chu Dung Cơ đối với sự lạm quyền của Tập Cận Bình, một tình trạng đất nước xuống cấp và xa vời với đường lối đổi mới, trung dung từ thời Đặng Tiểu Bình. Nhưng rồi người ta cũng nhận thấy sự mâu thuẫn ở nội bộ đảng Cộng Sản Trung Quốc tại Bắc Kinh cũng chỉ là một mâu thuẫn nhỏ của những mâu thuẫn đã tích lũy rất lớn giữa hai miền Bắc- Nam, giữa các tỉnh và các khối văn hóa trong nền văn minh Hoa Hạ đang được trấn áp bằng một thứ ý thức hệ chủ nghĩa cộng sản và quân đội trung ương chiếm đóng và trấn áp tại từng địa phương.

Nhưng khi chủ nghĩa cộng sản -một thứ Khổng Giáo cải tiến- không còn là tư tưởng để gắn kết đế chế Trung Quốc vì dù sao cũng đã đổi mới rất nhiều nhờ công nghiệp hóa và đô thị hóa khiến cho Trung Quốc đã giàu có hơn nhưng cũng bức tử chủ nghĩa cộng sản, và khi quân đội không còn một sự trung thành tuyệt đối- đế chế Trung Hoa bắt đầu tan vỡ như những gì chúng ta đã thấy ở cuộc khủng hoảng thế kỷ thứ III (các nhà sử học vẫn gọi là Crisis of the Third Century) của đế chế La Mã khi thực tế La Mã có công cụ sản xuất mới, thực tế kinh tế- xã hội đã khởi sắc, thậm chí là có một lãnh thổ rộng lớn nhất nhưng ý thức hệ của nhà nước bị khủng hoảng để mọi Hoàng đế lên cầm quyền chỉ để nhận ra có những người muốn lật đổ họ trong bạo loạn, chi phí để mua chuộc quân đội, các loạn đảng từ những khu vực ngoại vi ngày càng lớn và buộc đế chế phải gồng gánh, và tình hình quân sự- các nỗ lực bình ổn các khối trong đế chế yếu dần đi để rồi đế chế La Mã đi vào tan vỡ.

Trung Quốc có lẽ cũng đang sống trong những ngày tháng đó và có một đồng thuận chung giữa các thành phần trong đế quốc Trung Hoa về một bài toán cụ thể khi ông Tập đưa ra chính sách “Thịnh vượng chung” như một cố gắng để giảm thiểu chênh lệch, bất bình đẳng trong xã hội mà trước tiên là giữa các vùng. Để giữ cho mức nợ công không bị vượt quá tầm kiểm soát, Trung Quốc đã tăng trưởng vay nợ tín dụng thông qua những phương tiện tài chính của chính quyền địa phương (LGFVs) để vay tiền và đầu tư công. Điều này cũng mua chuộc được một bộ phận quan lại địa phương thiển cận vì họ cũng thấy rằng đó là phương tiện để vay tiền và đổ vào xây cất khiến cho kinh tế địa phương tăng trưởng nhanh chóng. Nhưng những công cụ này cũng là một sự từ bỏ chuẩn mực cơ bản nhất trong quản lý tài chính vĩ mô vì thiếu đi mọi sự minh bạch và nhất là nhiều tỉnh địa phương của Trung Quốc cũng ở một tình trạng tham nhũng trầm trọng và năng lực quản lý tài chính yếu kém. Khi các LGFVs đổ bể thì chính quyền Trung Ương cố gắng tái cơ cấu nợ để đưa các ngân hàng và công ty quốc doanh chịu một phần khắc phục hậu quả, chuyển nợ LGFVs thành công trái chính quyền nhưng khi chính quyền Trung Ương không còn năng lực quản lý được LGFVs và số nợ này, sẽ chỉ còn là tình trạng thả nổi cùng với tình trạng nợ nần tràn ngập các địa phương và chẳng còn ai muốn chia sẻ với nhau sự đau khổ, và câu hỏi chỉ là vấn đề thời gian Tập Cận Bình có thể duy trì mô hình “phúc lợi chung” hay “thịnh vượng chung” đến bao lâu trước khi chấp nhận một hiện trạng đường ai người ấy đi. Dù sao thì tất cả những cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội và dấu hiệu của cuộc khủng hoảng chỉ là những yếu tố phụ và là hệ quả của cuộc khủng hoảng về chính trị- cùng ý thức hệ: nghĩa là một tư tưởng toàn trị- chủ nghĩa cộng sản đã phá sản và đế quốc rơi vào lâm nguy.

Đảng Cộng Sản Việt Nam trong cơn đau cuối cùng của đế quốc Trung Hoa

Ông Nguyễn Gia Kiểng đã viết bài “Khi thiên triều sụp đổ và lịch sử sang trang” như một tuyên ngôn về sự sụp đổ bắt buộc phải đến của Trung Quốc vào thời điểm năm 2015. Tất nhiên đó là một sự sụp đổ kéo dài- đã có những làn sóng tư bản tháo chạy khỏi Trung Quốc, căng thẳng và sự chuyển trục của Mỹ khỏi mặt trận châu Á-Thái Bình Dương. Đó đáng lẽ ra phải là một khúc quanh lịch sử của Việt Nam để đất nước chúng ta dân chủ hóa vì thiên triều đã sụp đổ, tâm lý có một vành đai độc tài, một con đường ngoài dân chủ hóa đã bị vạch trần. Nhưng chế độ Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn cố thủ và chống lại dân chủ hóa trong 10 năm qua- một thập kỷ mà đáng lẽ chúng ta đã có một tương lai rất khác nếu tận dụng bằng cách dân chủ hóa từ sớm. Thậm tệ hơn, chế độ cũng hiểu rằng vào năm 2019, Trung Quốc chỉ viện trợ mức vốn ODA cho Việt Nam khoảng 226 triệu đô la- một con số tượng trưng và hoàn toàn không có thêm một viện trợ nào vào năm 2022. Những con số để người ta không thể suy luận nào khác ngoài việc Trung Quốc không còn cần phải tranh thủ Việt Nam. Nhưng tháng 12/2023, ông Nguyễn Phú Trọng đã đưa tập thể đảng quỳ gối trước Trung Quốc trong một sự bẽ bàng và ký với ông Tập Cận Bình 36 văn kiện hợp tác. Nhưng họ đã lấy ước muốn được lệ thuộc Trung Quốc để thay thế một sự thực rằng Trung Quốc đã không còn là một chỗ dựa về ý thức hệ, một cái ô để che chở cho chế độ Cộng Sản Việt Nam. Họ đã mong rằng Trung Quốc sẽ thủ cựu mà không nhìn thấy họ còn tối tăm và thủ cựu hơn giới lãnh đạo Trung Quốc: lãnh đạo ĐCSTQ nhìn thấy sự tuyệt vọng và không có giải pháp, còn những người cộng sản Việt Nam đã lấy sự bế tắc của Trung Quốc trở thành giải pháp của mình để tiếp tục cầm quyền.

Trong nửa đầu năm nay, Trung Quốc cũng đưa ra Nghị quyết về kinh tế tư nhân trong một tình trạng kinh tế lao dốc sau những chính sách đàn áp tư nhân thô bạo của Tập Cận Bình và nguy cơ trở lại tình trạng đói nghèo. Uy tín của Tập Cận Bình đã thực sự lao dốc dù ông ta có thể bị thay thế được hay không, và tâm lý của người Trung Quốc đã thay đổi sau đại dịch Covid-19 với phong trào “giấy trắng”, dù bài toán dân chủ hóa Trung Quốc nhưng vẫn giữ nguyên sự thống nhất về lãnh thổ vẫn là một câu hỏi không có lời giải. Nghị quyết kinh tế tư nhân và nhấn mạnh vai trò của kinh tế tư nhân chỉ là một sự đầu hàng trước tình thế của Tập Cận Bình mà thôi. Chế độ Cộng sản Việt Nam đã học theo một cách máy móc- nhưng họ không cảm thấy nhu cầu đất nước phải thực hiện dân chủ hóa để trao trả quyền chính trị-xã hội và kinh tế-văn hóa cho người dân Việt Nam, và đưa chính quyền trở lại vai trò của mình thay vì là công cụ để kiếm tiền; lựa chọn pháp trị thay vì thứ luật lệ tùy tiện và cố gắng phục hồi công lý cho hàng triệu dân oan của chính sách kinh tế “thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mà thực chất là một chính sách mở cửa kinh tế để gia tăng tham nhũng, cướp bóc, cùng đầu cơ tích trữ. Đó là những điều kiện tiên quyết (operational conditions) cần cho một nền kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Những người lãnh đạo chế độ không thấy được sự nông cạn của mình vì thực tế họ chỉ lặp lại một khẩu hiệu đầu hàng của ông Tập Cận Bình mà thôi. Và thực sự không hiểu rằng tại sao lại thiển cận đến mức huênh hoang quảng bá cho một khẩu hiệu đầu hàng.

Đế chế Trung Hoa và nghệ thuật trình diễn ở những ngày cuối

Bước vào những ngày cuối cùng của đế chế, khắp nơi ở Trung Quốc duy trì những màn bắn pháo hoa, những màn trình diễn drone ánh sáng hào nhoáng. Ở đâu đó, họ mở ra những bảo tàng, nhà hát nghệ thuật cho quần chúng như một chất thuốc phiện để quên đi những bế tắc không lối thoát. Nhưng những hình ảnh của Tập Cận Bình, cùng tư tưởng Tập Cận Bình bị gỡ bỏ và hầu như không được nhắc tới nữa, đảng Cộng Sản Trung Quốc đang dần đi vào bảo tàng- nó đã chết và chỉ tồn tại vì không có ai tiễn đưa nó. Nhưng trước mắt vai trò của hoàng đế Tập Cận Bình cũng sẽ phải chấm dứt ở một thời điểm không xa hoặc sẽ chẳng còn một vai trò nào khác ngoài việc chờ đợi để chịu trách nhiệm cho mọi hậu quả mà ông ta cũng chỉ là một phần của nguyên nhân.

Bảo tàng lịch sử ĐCSTQ

Sự phát triển về không gian văn hóa truyền thống, nghệ thuật ca múa, trình diễn pháo hoa-ánh sáng đã phát triển vì người ta muốn quên đi một xã hội đang có nhiều dấu hiệu suy tàn. Thật khó hiểu khi trong một ngày lễ 30/4 của sự hòa giải, chế độ Cộng Sản Việt Nam đã dồn sức tổ chức một lễ quá lớn, quá ồn ào để át đi những gì cần phải nói. Họ còn mang những chiếc drone bay lượn xếp hàng và chiếu sáng cho những ánh sáng cuối cùng của đế chế Trung Hoa để trình diễn. Dù sự thực là Việt Nam và Trung Quốc có tương lai hoàn toàn khác nhau. Họ là một đế quốc còn chúng ta là một quốc gia; họ đang đi vào một giai đoạn đầy bất ổn, chúng ta vẫn có thể đi lên và là một đảm bảo nếu chúng ta dân chủ hóa ngay từ thời điểm này và đừng để lãng phí thêm 10 năm nữa. Đất nước Việt Nam không có nhu cầu nhập khẩu bi kịch của đế chế Trung Hoa, và ông Tô Lâm có đảm bảo gì khi cố chấp học theo Trung Quốc nói về kinh tế tư nhân, những tướng tá quân đội có đảm bảo gì khi việc mang về thứ ánh sáng của ngày tàn trên đế chế Trung Hoa.

Chu Tuấn Anh

2/6/2025

Trung Quốc đã để lại những ảo ảnh tốt đẹp nhất tại thế vận hội Olympic mùa đông 2008

Chương trình nghệ thuật truyền thống, phối trí ánh sáng ở Tây Hồ, Hàng Châu