Đồng bằng sông Cửu Long mỗi một năm xuất khẩu 6-7 triệu và
2-3 triệu tấn tôm cá... Lượng nông sản này phân phối ít nhất cho tầm 40
quốc gia trên khắp thế giới. Như vậy, đồng bằng sông Cửu Long không chỉ
sản xuất để phục vụ cho 20 triệu người dân tại đồng bằng, hay là 100
triệu người dân của toàn nước Việt Nam mà nó còn đóng một vai trò quan
trọng trong mắt xích kinh tế thế giới. Các vấn đề nghiêm trọng hiện tại như việc chống ngập mặn, biến đối khí hậu, phối hợp giữa các quốc gia trong khu vực Mê Kong để tìm một giải pháp chung bền vững...chỉ có thể làm được một cách quả quyết và đứng đắn dưới một thể chế dân chủ đa nguyên và một chính quyền lương thiện, những lãnh đạo sáng suốt và đặt ưu tư lớn cho đất nước. Miền Tây Nam phần đã bị bỏ mặc trên nhiều địa hạt trong nhiều thập kỉ qua, nguyên nhân chính là sự kém cỏi của chính quyền CSVN.
Người dân Vĩnh Long, Việt Nam vận chuyển gạo trên sông Mêkông.Wikimedia Commons
Thu Hằng
Tháng 04 và 05/2020, đồng bằng sông Cửu Long trải
qua mùa hạn hán và xâm nhập mặn kéo dài nhất từ trước đến nay. Tuy
nhiên, thiệt hại về mùa màng không lớn bằng đợt hạn 2016 do người dân và
chính quyền địa phương đã rút được bài học và chuyển đổi một số diện
tích cây trồng, theo nghị quyết số 120/NQ-CP Về Phát triển bền vững đồng
bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, có hiệu lực từ ngày
17/11/2017.
Nghị quyết này đã giúp tháo
gỡ về mặt chính sách cho Việt Nam, theo nhận định của tiến sĩ Dương Văn
Ni, chủ tịch Quỹ Nghiên cứu và Bảo tồn Mekong, khi trả lời phỏng vấn RFI
Tiếng Việt. Ngoài ra, ông cũng nhấn mạnh đến nguồn nhân lực và sự phối
hợp giữa các nước trong vùng để có thể bảo đảm tương lai bền vững cho
khu vực sông Mêkông. *** RFI : Mùa hạn 2020 đã
khiến ngành nông nghiệp trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là
ngành trồng lúa, bị tác động nặng, đâu là giải pháp cho lĩnh vực này ?
TS. Dương Văn Ni :
Năm 2017, thủ tướng ra nghị quyết 120. Tôi cho là nghị quyết 120 là một
trong những tháo gỡ về mặt chính sách tốt nhất cho Việt Nam vào lúc
này. Nghị quyết 120 đó đề cập đến mấy vấn đề cốt lõi.
Vấn
đề thứ nhất đề cập là các nguồn nước, kể cả nước mặn, cũng phải xem như
một dạng tài nguyên. Điểm này hoàn toàn khác với tư duy trước đó : Hễ
thấy nước mặn là phải có một công trình nào đó ngăn chặn. Bây giờ công
nhận nước mặn như một tài nguyên để mà khai thác nó dưới diện nào đó cho
có hiệu quả về kinh tế. Tôi cho rằng sự thay đổi đó rất là căn cơ.
Nhưng
điều quan trọng hơn nữa là nền nông nghiệp : Nhà nước cho phép chuyển
dịch nền nông nghiệp theo hướng chiều sâu, hay là theo hướng có hiệu quả
kinh tế nhất, chứ không phải là khư khư ép người dân trồng nhiều lúa để
gọi là “bảo đảm an ninh lương thực”. Đây là điều làm trong
nhiều năm qua, chúng ta đẩy mạnh diện tích lúa ra sát bờ biển, trong khi
vùng sát bờ biển vốn không thuận lợi cho trồng lúa. Bởi vì, năm nào khi
dứt mưa, vùng này chắc chắn là sông rạch bị ảnh hưởng nặng, bị nhiễm
mặn. Nhưng nhờ đợt hạn mặn 2015-2016 cho thấy những nỗ lực đưa nước
ngọt, đưa cây lúa ra vùng duyên hải rất là bấp bênh. Những bài học đó
giúp cho người dân, giúp cho chính quyền địa phương và cả cấp trung ương
nhìn thấy ra được vấn đề chỗ nào rất bị tổn thương, chỗ nào không cần
chăm chăm đưa cây lúa vào đó.
Tôi cho rằng 2017, Nhà nước ra được
nghị quyết 120 là tháo gỡ khó khăn mang tính vĩ mô và như vậy nó giúp
cho người dân có cơ hội điều chỉnh lại sản xuất của họ. Có nghĩa là nếu
vùng đó thường xuyên bị mặn đe dọa và xâm nhập như vậy, tốt nhất là
chúng ta nên chọn loại cây trồng, vật nuôi nào phù hợp hơn là cứ cố giữ
khư khư cây lúa theo chỉ thị của Nhà nước. Đó là cái mở mang rất tốt !
RFI :
Sau khi Nhà nước ban hành nghị quyết 120, nông dân ở đồng bằng sông Cửu
Long hiện chuyển sang hướng canh tác nào được cho là phù hợp với điều
kiện thời tiết của vùng ?
TS. Dương Văn Ni :
Nghị quyết chỉ mang tính rất tổng thể, giải quyết được vấn đề vĩ mô.
Còn để đi vào thực tế, thực tiễn từng vùng, thì điều này lại hoàn toàn
phụ thuộc vào sự sáng tạo của người dân và chính quyền địa phương.
Bởi
một lý do là trong một thời gian dài, chúng ta tập trung quá nhiều cho
cây lúa, và bây giờ chuyển qua cây trồng và con khác, thì thứ nhất phải
cần đến hạ tầng về kỹ thuật phải tương đối đồng bộ (hệ thống tưới tiêu,
hệ thống dẫn nước…). Bây giờ ví dụ muốn nuôi trồng thủy sản, thì cũng
phải có cải tiến hoặc thiết kế lại, công việc này tốn rất nhiều thời
gian, cũng như kinh phí.
Điểm thứ hai, quan trọng hơn, đó là hạ
tầng về xã hội và kinh tế. Ví dụ, ngày xưa trồng cây lúa, thì bao nhiêu
chục năm nay, người dân biết trồng như thế nào. Bây giờ chuyển sang một
cây trồng khác, việc đầu tiên là người dân phải nắm được kỹ thuật để
quản lý mùa vụ của cây con đó. Khi người dân đã biết những việc đó rồi
thì hạ tầng, dịch vụ phục vụ liệu đã có sẵn chưa, bởi vì một thời gian
dài, chúng ta chỉ phục vụ cho cây lúa, giờ chuyển sang cây con khác,
người ta không chuẩn bị sẵn vật tư, phân bón hay thuốc sâu, thuốc bệnh
đó. Tiếp theo phải nói tới công lao động. Phải nói rằng hiện nay
cây lúa đã được cơ giới hóa với một tỉ lệ rất lớn, từ khâu làm đất đến
thu hoạch. Bây giờ chuyển qua những cây trồng khác thì cần một lượng lao
động nhiều để chuẩn bị gieo sạ hay thu hoạch. Điểm quan trọng cuối cùng
là không biết bán cho ai và ai ăn, nên vẫn chưa biết thị trường ở đâu.
Những
điểm trên cho thấy rằng mặc dầu nghị quyết 120 đã tháo gỡ những nút
thắt, nhưng để chuyện đó thành hiện thực, cụ thể ở một nơi nào đó, thì
cần sự quyết tâm và sự sáng tạo của người dân và chính quyền địa phương
nơi đó.
RFI : Ngoài tình trạng thiên tai, còn phải nêu
thêm vấn đề nguồn lao động do người dân, đặc biệt là thanh niên, di cư
lên các thành phố lớn. Tương lai của đồng bằng sông Cửu Long sẽ ra sao ?
TS. Dương Văn Ni : Nếu mà gọi là tương lai của đồng bằng sông Cửu Long như thế nào, chúng ta phải chia làm mấy loại tương lai.
Thứ
nhất là tương lai gần. Tôi thấy trước mắt một vấn đề rất cụ thể là diện
tích bình quân trên đầu người đã quá nhỏ do mật độ dân cư của đồng bằng
đã quá lớn : Trước đây chỉ có 5-6 triệu người, giờ lên tới 20 triệu.
Rồi vấn đề thiên tai, dịch bệnh, nước biển dâng, mưa bão... làm cho
người dân không sống nổi trên mảnh đất của mình nữa, bởi thu nhập không
đủ để trang trải nhu cầu của cuộc sống. Thành thử ra hiện nay, những
người trẻ phải bỏ xứ, đi làm những nơi xa như ở trên thành phố Hồ Chí
Minh, Bình Dương, Sông Bé... Đây là một vấn đề rủi ro cho tương lai. Rủi
ro là vì nguồn nhân lực không phải là thanh niên nữa.
Thứ hai là
các đập ở phía thượng nguồn sẽ làm cho dòng nước thất thường, lúc nhiều
thì nhiều qua, lúc ít thì lại không có thêm, gây hạn chồng hạn, lũ chồng
lũ. Do đó, những thiên tai do con người đóng góp vô làm cho thêm trầm
trọng, càng ngày càng nhiều trong tương lai.
Cái thứ ba, nói gì
thì nói, chúng ta nhìn năng lực sản xuất của người dân đồng bằng mới là
vấn đề quan trọng. Trong vòng 100 ngày thôi, ở đồng bằng này, người ta
có thể sản xuất ra 7-8 triệu tấn lúa. Chưa thấy một vùng đồng bằng nào
trên thế giới lại có một năng lực sản xuất, gọi là tương đối đặc biệt
như vậy. Nếu sức sản xuất của đồng bằng sông Cửu Long bị mai một bởi vì
nguồn nhân lực trẻ không còn ở tại chỗ, rồi đất đai bị bạc mầu dần vì
không còn được phù sa bồi thêm nữa, rồi nguồn nước thất thường... tất cả
những yếu tố đó đe dọa đến một vấn đề rất căn cơ : Làm cho “bao tử” của
nước Việt Nam bị đe dọa. Do đó, nếu nói về sự ổn định của đồng
bằng, ngoài yếu tố ổn định về môi trường, chúng ta phải coi sự ổn định
năng lực sản xuất của người dân trong vùng này là điều gì đó quan trọng,
từ bằng đến hơn sự phong phú của tài nguyên tự nhiên. Vì nếu tài nguyên
tự nhiên có phong phú mà không có con người thì cũng không tạo được vật
chất. Do đó, phải biết làm sao phải gìn giữ được năng lực sản xuất này
và biết làm sao cho người dân, từng gia đình một, người ta sống nổi trên
chính mảnh đất của họ, thì đến lúc đó, chúng ta mới duy trì được tính
ổn định.
Thành thử ra, nói ổn định ở đây, nói về tương lai gần,
tương lai xa, chúng ta thấy rõ ràng là chúng ta đang đối diện với một
tương lai rất nhiều vấn đề bất định. Nếu chúng ta không tổ chức, gìn giữ
được năng lực sản xuất của người dân trong khu vực này, thì chúng ta sẽ
phải đối phó với nhiều rủi ro trong tương lai.
RFI : Nhiều
nghiên cứu và diễn đàn khoa học đã cảnh báo rằng ổn định của lưu vực
Mêkông không được bảo đảm. Đâu là những nguyên nhân dẫn đến việc các
nước trong khu vực vẫn chưa tìm ra được đồng thuận cụ thể ?
TS. Dương Văn Ni :
Đây là một vấn đề rất nổi cộm trong quá khứ, đặc biệt trong thời gian
gần đây, nó lại nêu ra một vấn đề mang tính toàn cầu hơn. Trước hết,
chúng ta thấy đồng bằng sông Cửu Long mỗi một năm xuất khẩu 6-7 triệu và
2-3 triệu tấn tôm cá... Lượng nông sản này phân phối ít nhất cho tầm 40
quốc gia trên khắp thế giới. Như vậy, đồng bằng sông Cửu Long không chỉ
sản xuất để phục vụ cho 20 triệu người dân tại đồng bằng, hay là 100
triệu người dân của toàn nước Việt Nam mà nó còn đóng một vai trò quan
trọng trong mắt xích kinh tế thế giới.
Do đó, vấn đề của đồng bằng
sông Cửu Long phải vượt ra khỏi lưu vực của sông Cửu Long. Và không
thấy ra được chuyện này, thì mọi người chỉ lo phát triển phần của mình.
Ví dụ Lào có ưu thế phát triển thủy điện. Nhưng khi phát triển thủy điện
thì lại gây ra những hệ lụy ở hạ lưu gồm có Campuchia, Việt Nam...
Chúng ta thấy rằng Lào chỉ có khoảng từ 6-8 triệu dân, trong khi nội
đồng bằng sông Cửu Long thôi đã có 20 triệu dân và có 60-80 triệu dân
sống lệ thuộc vào dòng sông này. Dịch bệnh vừa xảy ra, chúng ta thấy rõ
là ngành công nghiệp, dịch vụ bị ngưng trệ, thì lượng điện đâu có cần.
Có nhiều điện nhưng không có lương thực thực phẩm trong khu vực, thì
phải đối diện với rủi ro rất nhiều.
Điểm thứ hai mà chúng ta thấy
là vừa rồi, khi dịch bệnh xảy ra, có hàng triệu người từ các thành phố
lớn, như Sài Gòn, Bình Dương, Sông Bé... quay trở về đồng bằng sông Cửu
Long tránh dịch. Chúng ta đặt tình huống là nếu đồng bằng sông Cửu Long
không còn sức để hấp thụ thì mấy triệu người này đi đâu. Chúng ta biết
là họ sẽ tìm những chỗ nào có nước, có lương thực để đi, thì đến lúc đó,
liệu biên giới giữa các quốc gia còn thực sự yên ổn không hay là nó sẽ
tạo ra sự xáo trộn trong khu vực và sự xáo trộn đó luôn luôn tạo ra nguy
cơ lớn nhất cho những cộng đồng nào có số lượng ít.
Chính vì vậy,
những quốc gia trong lưu vực sông Mêkông phải thấy rằng đây là một vấn
đề lệ thuộc lẫn nhau. Thế nhưng, đây lại là một thách thức rất khó, đã
bàn từ vài chục năm mà vẫn chưa tìm thấy được một tiếng nói chung. Các
quốc gia vẫn thấy phần của mình là quan trọng. Nhưng tôi vẫn tin rằng
những đợt xáo trộn dịch bệnh như này cũng làm cho người ta thức tỉnh và
nhìn lại tất cả những vấn đề. Hy vọng là sẽ có một tiếng nói, một sự
đồng thuận về chia sẻ nguồn nước hợp lý, về gìn giữ hệ sinh thái của
sông Mêkông, bởi vì đây là tương lai không phải của một thế hệ mà của
nhiều thế hệ tiếp theo.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ tịch Quỹ Nghiên cứu và Bảo tồn Mekong.