Nhân cuộc tranh luận về "Nỗi buồn chiến tranh" (BBC tiếng Việt , Cù Mai Công , Thái Hạo , Nguyễn Quang Thiều , Trúc Lam , Lê Thọ Bình)

Nỗi buồn chiến tranh được vinh danh : Tại sao gần 40 năm vẫn còn tranh cãi ?
BBC, 04/12/2025
Gần 40 năm sau khi ra đời, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh một lần nữa gây sóng gió, ngay sau khi được vinh danh.

Phó Thủ tướng Mai Văn Chính và Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Trịnh Thị Thủy trao vinh danh cho nhà văn Bảo Ninh (giữa)
Tiểu thuyết này vừa được xướng tên là một trong "50 tác phẩm văn học – nghệ thuật xuất sắc sau thống nhất".
Tại lễ vinh danh do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức, nhà văn Bảo Ninh nhận hoa và bằng chứng nhận từ Phó Thủ tướng Mai Văn Chính và Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Trịnh Thị Thủy.
Ngay sau khi báo chí đưa tin sự kiện này, Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, cựu Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã lên tiếng trên trang Facebook cá nhân, "yêu cầu ban tổ chức phải thu hồi sự vinh danh", đồng thời soạn một bản kiến nghị rà soát nội dung và xem xét xử lý tác phẩm.
Tướng Tuấn viết :
"Khi tôi làm cục trưởng tôi đã cố gắng đọc hết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và tôi đã thấy cái mùi phản trắc lồng vào tiểu thuyết để hạ thấp tính anh hùng của quân đội ta và đã nhen nhóm sự lật sử thông qua văn học nghệ thuật...
Nay không hiểu sao Hội nhà văn Việt Nam đã bất chấp sự thật chọn một tác phẩm như vậy để vinh danh là tác phẩm tiêu biểu và càng không hiểu vì sao hai vị đại diện cho Chính phủ lại trao giải này cho ông Bảo Ninh ? Phải chăng trào lưu xét lại lịch sử đang lộng hành ở mọi cấp và 'tự diễn biến' đã không còn là lực lượng suy thoái trong Đảng mà đã và đang công khai thách thức dư luận và những ai bảo vệ thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta ?".
Bài đăng của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, người trước đó cũng có bài viết lên án Vua Gia Long và Tả quân Lê Văn Duyệt gây xôn xao mạng xã hội, đã góp phần thổi bùng tranh luận trên mạng xã hội Việt Nam về cuốn tiểu thuyết này.
Tâm điểm tranh luận
Một bộ phận cựu chiến binh từng trải qua Chiến tranh Việt Nam – mà phía Việt Nam gọi là Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước – và gia đình của họ lên án nhà văn Bảo Ninh, phê phán tác phẩm và chỉ trích hành động vinh danh của chính quyền, thậm chí đòi thu hồi giải thưởng, thu hồi sách, "rà soát", "xử lý"...
Nhiều người cho rằng tác phẩm này "bóp méo lịch sử", "phản động", "làm tổn hại hình tượng người lính", hay "tự chuyển hóa", "tự diễn biến"...
Ngược lại, nhiều độc giả đã đưa ra những đánh giá tích cực, cho rằng Nỗi buồn chiến tranh là một trong những tác phẩm hay nhất về chiến tranh và hậu chiến.
"Tôi cho rằng đây là tác phẩm văn học hiện đại xuất sắc nhất của Việt Nam. Tôi đã đọc và cảm thấy rất xúc động. Tôi không hề thấy có gì phản trắc ở đây hết" là một bình luận nhận được hàng trăm lượt "thích" dưới bài đăng trên Facebook BBC News Tiếng Việt.
Trong giới chuyên môn, cũng có nhiều người cho rằng tiểu thuyết này thực sự là một trong những tác phẩm văn học "đỉnh cao" của Việt Nam về đề tài chiến tranh.
Từ Hà Nội, nhà văn Trần Thanh Cảnh nói với BBC News Tiếng Việt rằng : "Việc chọn Nỗi buồn chiến tranh, một tác phẩm ngay từ khi mới ra đời cho đến nay vẫn gây ra những dư luận trái chiều nhau, tôi thấy đây là một hành động dũng cảm, vượt qua thường lệ của ban tổ chức".
"Dĩ nhiên với cá nhân tôi, Nỗi buồn chiến tranh xứng đáng được tôn vinh như thế này và, thậm chí phải hơn thế này rất nhiều. Nhưng với hoàn cảnh xã hội Việt Nam hiện thời, việc tôn vinh Nỗi buồn chiến tranh cùng với các tác phẩm văn học-nghệ thuật khác trong dịp này, như tôi đã nói ở trên, là rất đáng dành lời khen cho ban tổ chức", ông Cảnh đánh giá.
Về mặt ý nghĩa giải thưởng, nhà văn Trần Thanh Cảnh, tác giả bộ tiểu thuyết lịch sử Hùng khí Đông A và được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2015 với tập truyện ngắn Kỳ nhân làng Ngọc, cho rằng việc tôn vinh Nỗi buồn chiến tranh "rất có thể vượt qua cả ý nghĩa ban đầu mà những người tổ chức đưa ra".
Một người dùng Facebook cho rằng : "Mỗi tác phẩm văn học có quyền tồn tại. Người đọc có quyền yêu hay ghét. Nhưng khi nhà nước đứng ra vinh danh, thì nó trở thành một chuẩn mực văn hóa được đại diện, một lời tuyên bố chính thức, một giá trị được đưa lên tầm quốc gia".
Nhà văn Trần Thanh Cảnh cho rằng đọc cuốn này người ta "không những cảm nhận được sự khốc liệt của chiến cuộc mà còn nhận ra được tính chất phi nhân của cuộc chiến đã xảy ra trên đất Việt, và hầu hết các cuộc chiến trên trái đất này".
"Một cuốn tiểu thuyết với dung lượng rất vừa phải, nhưng mang trong đó mọi sắc thái của chiến tranh và đời sống nước Việt một thời. Có anh hùng cao thượng, có ti tiện tối tăm. Có tình yêu trong sáng và cũng có cả những tình dục thấp hèn. Đặc biệt với những người đã trải qua đời lính, họ sẽ cảm nhận được tình đồng đội sâu sắc trong đó. Câu chuyện của nhân vật chính, Kiên – người lính, và người yêu của anh – Phương - cô gái, một mối tình đẹp, day dứt, đau đớn… bị chiến tranh giày xéo cho tan nát.
"Thực sự đây là một cuốn sách hấp dẫn và cần phải có, cần phải xuất hiện ở thời điểm sau khi đất nước Việt Nam đã trải qua mấy cuộc chiến vô cùng tàn khốc. Nên ở góc độ thức tỉnh, tôi đặc biệt đánh giá cao cuốn sách này", ông Cảnh nói.
Một dòng ý kiến ít nổi bật hơn, nhưng không kém phần quan trọng, trong cuộc tranh luận mới về Nỗi buồn chiến tranh là việc dường như ban tổ chức giải thưởng này đã nhầm lẫn khi đưa xếp tác phẩm này vào danh sách "bản hùng ca đất nước". Dòng ý kiến này cho rằng Nỗi buồn chiến tranh có thể hay hoặc dở nhưng không thể là "bản hùng ca" được.
Không phải lần đầu
Nỗi buồn chiến tranh đã được dịch và xuất bản khoảng 20 quốc gia trên thế giới.
Ra đời năm 1987, tiểu thuyết của Bảo Ninh từng gây chấn động văn đàn khi khắc họa chân dung trần trụi của người lính chiến và những đau thương do cuộc Chiến tranh Việt Nam gây ra, khác với dòng chủ lưu của văn chương Việt Nam trước đó vốn tập trung ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Thoạt tiên, trong không khí háo hức của thời kỳ Đổi mới, các ý kiến bình luận về cuốn sách này trên báo chí chính thống khá đa dạng, có ca ngợi và có phê phán, chỉ trích.
Trong một lần trả lời phỏng vấn trước báo giới, nhà văn Bảo Ninh nói rằng khi xuất bản năm 1990, Nhà xuất bản Hội Nhà văn đề nghị đổi tên thành Thân phận của tình yêu để dễ bán, nhưng tên này chỉ dùng một lần khi xuất bản đầu tiên.
Năm 1991, Nỗi buồn chiến tranh là một trong ba tiểu thuyết được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải, cùng với Mảnh đất lắm người nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc Trường và Bến không chồng của tác giả Dương Hướng.
Tuy nhiên, trong khi hai cuốn Mảnh đất lắm người nhiều ma và Bến không chồng vẫn được in lại, Nỗi buồn chiến tranh bị dừng in trong hơn 10 năm và hứng chịu nhiều chỉ trích.
Năm 1994, Tạp chí Cộng sản của Tổng Biên tập Nguyễn Phú Trọng đăng bài viết Từ đâu đến Nỗi buồn chiến tranh của tác giả Trần Duy Châu.
Bài viết có đoạn :
"Không thể nào thực hiện được bằng những tư tưởng, những suy luận sáng sủa rõ ràng, Bảo Ninh phải cầu viện đến sự rối rắm, mơ hồ, hỗn độn của cái gọi là 'trực giác', 'vô thức' để tạo nên một hình ảnh đảo ngược của hiện thực, chuyển đổi các giá trị, biến trắng thành đen, thay khúc ca khải hoàn của toàn dân tộc thành tiếng hát bi thương của bài ai điếu của những kẻ lạc loài.
Người viết (cũng như nhân vật) phải biến mình thành một kẻ mộng du lang thang chập chờn với cái tâm trí huyền thuật (mentalité magique) của người mơ mộng, đúng hơn là của kẻ mắc bệnh tâm thần, nghĩa là những người được 'miễn truy cứu trách nhiệm' trước tòa án lương tâm thời đại, được miễn trừ sự phán xét của lý trí lành mạnh, tỉnh táo của bạn đọc xa gần".
Vào năm 1995, trên mặt trận báo chí chính thống đã có một đợt phê bình kịch liệt tác giả Bảo Ninh và cuốn tiểu thuyết. Làn sóng chỉ trích này bùng lên sau khi cuốn sách được dịch ra tiếng Anh, được báo Independent khen ngợi và đặc biệt là sau khi báo The New York Times vào tháng 5/1995 đăng bài viết trong đó có trích dẫn một số phát biểu của Bảo Ninh.
Tờ báo Mỹ dẫn lời Bảo Ninh nói (thông qua người phiên dịch) : "Đó là tuổi trẻ của tôi".
"Chỉ có mấy vị tướng tá thích nói về chiến thắng và chiến bại. Những người lính bình thường không thích nói về những điều đó. Tôi không cảm thấy vui hay tự hào về cuộc chiến này ; chiến thắng trong chiến tranh, về mặt cá nhân, không hiểu sao tôi lại không cảm thấy được điều đó. Tôi nghĩ rằng tôi đã đánh mất tuổi trẻ của mình".
Lúc bấy giờ, báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức một chuyên đề phê phán tác giả và tác phẩm. Tờ báo này chất vấn các thành viên trong Ban Chấp hành Hội Nhà văn khóa 4 đã bỏ phiếu bầu cho Nỗi buồn chiến tranh khi xét giải thưởng năm 1991.
Trong số những người từng bỏ phiếu cho tác phẩm này có các nhà văn Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khải, Vũ Tú Nam, Nguyễn Thị Ngọc Tú... Trả lời báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, đa phần những người này đều cố gắng làm nhẹ vấn đề bằng cách thừa nhận những "mặt yếu kém" trong tác phẩm, nhưng cũng ghi nhận một số "mặt được" và giải thích lý do bỏ phiếu chủ yếu để "khuyến khích gương mặt mới".
Nhà văn Vũ Tú Nam nói : "Về phần cá nhân, khi bỏ phiếu trong Ban chung khảo, tôi đã thiên về khuyến khích một cây bút trẻ có năng khiếu văn học, đã trải qua chiến đấu thực sự. Tôi cũng đã rất phân vân về những mặt yếu kém của cuốn sách, như : Sự mơ hồ của tác giả giữa chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa, cái nhìn u ám nặng nề, chỉ thấy sự mất mát riêng tư mà không thấy chiến thắng lớn lao do đóng góp của toàn dân. Tôi không cho rằng khi viết, tác giả có ý đồ xấu về chính trị, nhưng sự mơ hồ và cái nhìn u ám của anh đã khiến cuốn sách phản ánh méo mó cuộc chiến đấu thiêng liêng của dân tộc".
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng trình bày : "Tôi nhận ra mặt mạnh cũng như mặt yếu của tác phẩm, và bỏ phiếu thuận với ý nghĩ đây là một cây bút trẻ xuất thân từ một người lính cầm súng, học viên Trường viết văn Nguyễn Du, với tác phẩm đầu tay đã viết với tâm huyết của mình. Lá phiếu của tôi là phiếu khuyến khích một cây bút trẻ trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Tôi nghĩ rằng, đối với người hiểu biết văn học không ai có thể coi đây là một tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, lại càng không thể coi đây là một tác phẩm tiêu biểu về cuộc chiến tranh đánh Mỹ của nhân dân ta".
Nhà văn Nguyễn Khải nói : "Tôi là người đã bỏ phiếu ủng hộ ba cuốn tiểu thuyết : Nỗi buồn chiến tranh, Mảnh đất lắm người nhiều ma và Bến không chồng vào giải thưởng hàng năm của Hội Nhà văn. Lần đầu được đọc ba cuốn sách đó, tôi rất mừng vì những mảng hiện thực khá gai góc đã được miêu tả kỹ lưỡng và tài hoa, và cả những tìm tòi rất đáng ghi nhận trong nghệ thuật viết tiểu thuyết. Chúng tôi cũng có bàn nhiều tới mặt yếu kém của từng tác phẩm, nhất là cuốn Nỗi buồn chiến tranh vì cách nhìn chiến tranh của tác giả còn phiến diện và cái không khí ngột ngạt, u ám bàng bạc trong nhiều chương sách. Riêng tôi thì nghĩ đây là tác phẩm đầu tay của một tác giả còn trẻ. Nếu được khuyến khích thì anh ta sẽ nhanh chóng khắc phục được cách nhìn chủ quan, hạn hẹn của tác phẩm đầu".

Nhà Văn Bảo Ninh tên thật là Hoàng Ấu Phương, quê ở xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh (thuộc thành phố Đồng Hới), tỉnh Quảng Bình (cũ). Ông có thời gian từng đi bộ đội từ năm 1969 đến năm 1975
Trong khi đó, nhà thơ Vũ Quần Phương, thành viên của Ban chung khảo, nói: "Mọi người khen cách viết gọn, câu chuyện lôi cuốn, tốc độ nhanh, bút pháp có nét mới. Tôi cũng thấy thế. Và tôi đề nghị tặng giải B cho anh. Tôi không tán thành xếp giải A vì cuộc chiến tranh Bảo Ninh thể hiện không phải là cuộc chiến tranh ta đã trải qua. Tôi đã sống giai đoạn lịch sử này, tôi thấy cảnh ném bom của Bảo Ninh tả ở ga Thanh Hóa là không có ở thời chống chiến tranh phá hoại".
Ông Vũ Quần Phương còn nói thêm : "Nỗi buồn chiến tranh sau này được đề cao trong một số báo chí của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Xét kỹ những cộng đồng này phần lớn trong quá khứ dính với bên kia cuộc chiến. Cuốn tiểu thuyết có an ủi và chiêu tuyết cho họ. Họ đề cao cũng là điều dễ hiểu. Điều khó hiểu là sau một thời gian thử thách, có hồi âm từ bạn đọc trong nước, sau cả những nhận định, đánh giá lại của Ban Giám khảo đối với Nỗi buồn chiến tranh, thì tác giả của nó, qua phát biểu đây đó, lại không thể hiện có chuyển biến gì, không thấy cái phần mà nó đã thiếu sót với xương máu đồng bào mình…".
Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh cũng đăng tải những bài viết phê phán nặng nề hơn.
Tác giả Phạm Chí Dũng viết : "Tôi hiểu, điều tác giả muốn thể hiện ở đây là một quân đội cộng sản lộn xộn, vô kỷ luật, nằm trong một xã hội đầy bất công và nhung nhúc những kẻ tha phương khốn nạn theo kiểu Chí Phèo, một bản năng tình dục theo thuyết hiện sinh vương vấn chút mùi vị vô luân, một cái chết từ từ không tưởng của tất cả những kẻ nào sống bế tắc. Thật tồi bại, đó là một cái nhìn hoàn toàn sai lệch về cuộc chiến tranh của tác giả ! Đối với những chiến sĩ cộng sản đã kinh qua cuộc chiến tranh, đó là cách nhìn bệnh hoạn của những kẻ bệnh hoạn".
Đến năm 2016, tiểu thuyết này trượt Giải thưởng Nhà nước, khiến giới văn chương xôn xao.
Một bài viết trên báo VnExpress vào thời điểm đó dẫn lời nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên cho rằng lý do chính vẫn là "một số người bị định kiến về cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh và chưa thoát ra được".
"Họ vẫn mang một sự bảo thủ, xơ cứng trong đánh giá văn chương. Nó cho thấy tư duy quản lý, đánh giá văn học của ta vẫn đang có vấn đề. Một bộ phận vẫn cho rằng tác phẩm nói xấu, phản ánh sai trái cuộc chiến tranh của chúng ta. Họ không nhìn thấy giá trị văn chương đích thực và vẫn đánh giá bằng chính trị, tư tưởng", ông Nguyên nói năm 2016.
Trong khi đó, nhà thơ Lê Thiếu Nhơn vào thời điểm đó nhận định độc giả có thể cảm thấy buồn khi Nỗi buồn chiến tranh bị loại khỏi Giải thưởng Nhà nước, còn những người trong nghề không có gì bất ngờ.
"Bởi vẫn có nhiều người không muốn thừa nhận những điều Bảo Ninh viết, nhất là khi ông đề cập đến chủ đề chiến tranh với khía cạnh tang thương và phi nghĩa. Và nếu chỉ lấy tiêu chí sáng tạo văn học, nghệ thuật làm thước đo cho giải thì chắc chắn đã không có tên nhiều nhân vật làng nhàng lại được vinh danh ở các loại giải thưởng tầm quốc gia như hiện nay", VnExpress trích lời ông Nhơn.
Ảnh hưởng quốc tế
Nỗi buồn chiến tranh đã mang về cho tác giả Bảo Ninh những giải thưởng quốc tế như giải thưởng Châu Á trong lĩnh vực văn hóa của nhật báo Nikkei (Nikkei Asia Prize) năm 2011, giải Simhun của Hàn Quốc năm 2016, giải Văn học Châu Á năm 2018.
Trước khi bài phê phán của Tạp chí Cộng sản ra đời, tờ Independent của Anh đã dành lời khen cho Nỗi buồn chiến tranh trong một bài viết xuất bản năm 1994, cho rằng đây là "một tiểu thuyết chiến tranh hay và một cuốn sách tuyệt vời".
"Điều cuốn sách muốn nói là cho chúng ta thấy thanh niên Bắc Việt, những người trong hàng ngàn người được đưa vào Nam chiến đấu, cũng sợ hãi và dễ bị tổn thương như những người lính Mỹ ở bên kia chiến tuyến. Họ trưởng thành nhanh chóng hoặc tử trận. Trong số họ cũng có không ít những kẻ giết người và hiếp dâm tàn bạo", bài viết có đoạn.
"Cho đến khi Nỗi buồn chiến tranh được xuất bản tại Việt Nam vào năm 1990, những tác phẩm đề tài chiến tranh của Hà Nội chỉ bao gồm những hồi ký xúc động, những bài thơ yêu nước, những câu chuyện tình yêu đẫm nước mắt hay những câu chuyện dũng cảm về sự tàn sát, hy sinh hay can đảm".
Trong khi đó, trang web du lịch Travelfish gọi tác phẩm này là một cuốn sách du khách nên đọc khi đến Việt Nam, vì nó cung cấp một cách nhìn khác so với luận điệu tuyên truyền chính thống tại các bảo tàng chiến tranh.
Trang này nhấn mạnh rằng cuốn sách cho thấy chiến tranh đã tàn phá cuộc sống của nhiều người Việt Nam như thế nào, ngay cả ở "bên thắng cuộc".
Giáo sư Laichen Sun, từ khoa lịch sử của Đại học California, Hoa Kỳ, vào năm 2019 từng cho biết riêng tại Mỹ vào thời điểm đó đã có khoảng gần 30 trường đại học sử dụng cuốn Nỗi buồn chiến tranh làm tài liệu trong giảng dạy.

Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh đã được dịch ra nhiều thứ tiếng
Không thể đứng ngoài chính trị ?
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, báo chí, văn chương, nghệ thuật đều phải phục vụ mục đích chính trị. Nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ từ lâu được coi là chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa. Quan điểm truyền thống này đến nay vẫn được duy trì, dù diễn ngôn có thể đã hơi khác đi.
"Văn học, nghệ thuật không thể đứng ngoài chính trị, không thể tách khỏi sự lãnh đạo của giai cấp cầm quyền. Đó là quy luật", báo Quân đội nhân dân khẳng định trong bài viết ngày 20/9/2021.
Trong khi báo chí nhà nước thì hiếm khi xảy ra trường hợp "lệch chuẩn" vì có nhiều lớp kiểm duyệt khắt khe, một số nghệ sĩ bị coi là "lệch chuẩn", đặc biệt là những trường hợp có yếu tố chính trị, đã bị chỉ trích và xử phạt.
Đối với văn học nghệ thuật, có lẽ Nỗi buồn chiến tranh là một trường hợp như vậy, khi tác phẩm này vẫn tiếp tục bị phe thủ cựu chỉ trích gay gắt, gần 40 năm sau khi được xuất bản lần đầu.
Năm 2025, nhiều người – không chỉ có các cựu chiến binh mà kể cả những người trẻ – đã bày tỏ sự quan ngại về việc Nỗi buồn chiến tranh được trao giải.
Có ý kiến còn lên án việc trích đoạn tác phẩm này đã được đưa vào sách giáo khoa.
So sánh với hơn 30 năm về trước, nhà văn Trần Thanh Cảnh cho rằng dường như nhận thức của một số khá đông trong xã hội vẫn "ù lì, xơ cứng và hình như não trạng họ đã bị đông đặc như hơn 30 năm về trước".
"Hình như nhận thức xã hội của họ bị dừng tại đó. Nên họ chỉ biết nói ra những ý kiến cũ như cách đây hơn ba mươi năm. Có điều khi chúng ta nghe trong một không gian xã hội mở cửa với toàn thế giới này, ta thấy choáng! Choáng vì mức độ bảo thủ và nhận thức lạc hậu đến vậy. Thế nên ta có cảm tưởng nó ác nghiệt hơn.
"Không phải vậy, nó vẫn chỉ là những tư tưởng, luận điệu cũ rích của những kẻ bám víu vào chiến tranh, vào quá khứ để sống mà thôi", ông đánh giá.
Nhà văn Trần Thanh Cảnh cũng cho biết ông không thể hiểu được não trạng của những người cho rằng tác phẩm này xuyên tạc hình ảnh người lính "bộ đội Cụ Hồ", khắc họa họ là một đội quân ô hợp, làm tầm thường hóa mục tiêu của cuộc chiến, hay "lật sử".
"Không biết là tư duy của họ về những vấn đề trên là thực sự hay họ ào ào làm theo lệnh từ đâu đó. Nhưng tôi đã tiếp xúc và trao đổi với rất nhiều cựu binh đã trải qua chiến trường của cuộc chiến trước 1975 thì tôi thấy họ đều đồng tình và đánh giá cao những gì viết trong sách. Đặc biệt là những người thực sự cầm súng chiến đấu.
"Tuyệt đối không có ai nói với tôi là nhà văn Bảo Ninh bôi xấu hay phóng đại sự việc lên, thậm chí họ còn thở dài nói, thực tế chiến trường còn đau xót, ác nghiệt hơn trong sách gấp nhiều lần kia! Nên tôi đồ rằng, có khi những kẻ khoác áo cựu binh đang phản đối nhà văn Bảo Ninh kia, thậm chí chưa từng cầm súng xông ra chiến trường đâu", ông nói với BBC.
Còn đối với những người trẻ với "não trạng tồi tệ mà họ bị nhồi vào", ông Cảnh hy vọng "thực tế cuộc sống sẽ dần giải độc cho họ".
Nguồn : BBC, 04/12/2025
*****************************
Trận cuối cùng dữ dội nhất ở Sài Gòn ngày 30/4/1975 mà người lính trinh sát Bảo Ninh tham chiến
Cù Mai Công, Tiếng Dân, 03/12/2025
Dù sáng 30/4/1975, Tổng thống Dương Văn Minh đã yêu cầu binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa "ngưng nổ súng", vẫn còn trận cuối cùng dữ dội, đến tận trưa, chiều ngày 30/4 ở Sài Gòn : Cửa ô Bảy Hiền – Lăng Cha Cả, xung quanh Ông Tạ. Trong đó có một chiến sĩ sau này là nhà văn Bảo Ninh, tác giả "Nỗi buồn chiến tranh". Lúc ấy, ông là lính trinh sát của Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 24.

Vị trí các xe tăng của Quân Giải phóng bị bắn cháy ngày 30/4/1975 - Không ảnh của Jacques Pavlovsky
Tiếng bom đạn liên tục dội lên ở khu vực này từ rạng sáng 30/4. Dân Ông Tạ báo nhau : "Ở Bảy Hiền, Lăng Cha Cả đánh nhau lớn lắm". Như một số gia đình khu này, ba tôi chuẩn bị cho mỗi người trong gia đình một balô với đầy đủ những gì cần cho một cuộc di tản đến nơi an toàn hơn. Một thói quen thời chiến tranh của nhiều gia đình miền Nam. Tôi lúc ấy 13 tuổi cũng có một cái – dù vai bên trái đã trúng miểng đạn từ chiều 29/4.
Lực lượng chủ yếu của quân giải phóng (Quân giải phóng) tấn công vào đây là Sư đoàn 10 (Quân đoàn 3) và Trung đoàn xe tăng 273.
Lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa phòng thủ khu vực này chủ yếu là 1.000 quân của Bộ chỉ huy số 3 chiến thuật của Liên Đoàn 81 Biệt cách dù và một số lính Nha Kỹ thuật. Cụ thể là lính của Sở Liên lạc (Biệt kích Lôi Hổ) do thiếu tá Lê Minh chỉ huy từ Pleiku vào để cùng bảo vệ Bộ Tổng Tham mưu với Chiến đoàn 3 Biệt cách Nhảy Dù của thiếu tá Phạm Châu Tài (dù đơn vị này đã giải tán vào ngày 28/4/1975 theo lệnh miệng của đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Việt Nam Cộng Hòa thời điểm đó).
Trận chiến ở đây ác liệt với các bức ảnh nổi tiếng : Ba chiếc xe tăng của Quân giải phóng bị bắn cháy bên tường rào Lăng Cha Cả do phóng viên Hãng thông tấn Corbis chụp.

3 xe tăng Quân giải phóng bị bắn cháy ở khu vực tường rào Lăng Cha Cả. Phía sau là tháp chuông nhà thờ Mẫu Tâm - 389 Hoàng Văn Thụ, Tân Bình hiện nay - Ảnh Hãng tin Corbis
- Cựu binh Quân giải phóng Nguyễn Đình Thi, lúc đó là chính trị viên phó đại đội 2, tiểu đoàn 4, trung đoàn 24, Sư đoàn 10, đại đội đi trên ba chiếc xe tăng bị cháy này nhớ lại (lược trích) :
"…Tám giờ sáng 30/4, sau khi vượt qua ngã tư Bảy Hiền, đội hình xe tăng đi cùng Đại đội 2 tiến tới Lăng Cha Cả. Sau khi chiếm được một phần khu vực Lăng Cha Cả, xe tăng, xe bọc thép của Đại đội 2 và 7 đánh phát triển theo dãy phố bên phải đường Võ Tánh (nay là Hoàng Văn Thụ).
Xe tăng đầu tiên 875 vừa vượt hết dãy phố, nhô đầu ra khoảng trống thì bị hỏa tiễn M72 đặt trên một cái tháp đang xây dở ở phía trước cổng Bộ Tổng tham mưu bắn. Đứng cách xe tăng 875 chừng 30m, tôi thấy một quả cầu lửa lớn bùng lên ở phía đầu xe, bộ đội ngồi trên xe rơi tự do xuống đất.
Từ phía sau chiếc xe tăng thứ hai tiếp tục lao lên. Cũng như chiếc xe tăng 875, chiếc xe này vừa nhô đầu ra khỏi dãy phố, lại trúng hỏa tiễn của địch, xe bốc cháy dữ dội. Hai chiếc xe tăng vừa cháy chặn mất đường. Bất chấp nguy hiểm, lách sang trái hai chiếc xe vừa cháy, chiếc xe tăng thứ ba húc tung dải phân cách đường, tiếp tục lao lên, nhưng vừa nhô ra khỏi khoảng trống của dãy nhà, lại bị bắn cháy".
Cựu binh Nguyễn Đình Thi nhớ lại : "Khi tiếng súng ở các nơi trong nội đô Sài Gòn thưa dần sau tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh thì tại khu vực Lăng Cha Cả, cuộc chiến của tiểu đoàn 5 Trung đoàn 24 vẫn diễn ra rất ác liệt. Lính dù ở đây vẫn coi như chưa biết gì về lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Thế là trong vòng chưa đầy 20 phút cả ba chiếc xe tăng của ta đã cháy tại đây – Lăng Cha Cả".
"Thật đau xót – ông Thi nghẹn lời và kể tiếp – Trung đoàn trưởng Vũ Tài quyết định điều hai khẩu pháo 85 ly nòng dài lên hỗ trợ Tiểu đoàn 5 tấn công. Khẩu đội pháo đầu tiên của Trung đoàn 4 Pháo binh do đại đội trưởng Chính – quê Ninh Bình chỉ huy vừa vào tới khu vực bên trái Lăng Cha Cả, đang triển khai pháo, chưa kịp nổ súng, lại trúng hỏa tiễn của địch. Pháo hỏng, cả khẩu đội cùng đại đội trưởng Chính hy sinh. Tại cổng số 5, địch vẫn chống trả rất quyết liệt, thêm ba xe tăng nữa của ta lại bị địch bắn hỏng nặng".
- Thiếu tá chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy số 3 chiến thuật của Liên đoàn 81 Biệt cách dù Phạm Châu Tài kể : "Đến sáu giờ sáng, năm chiến xa T54 và đoàn quân tùng thiết của Việt cộng trên đường tiến vào Sài Gòn đã bị lực lượng của Sư đoàn Nhảy dù và Liên đoàn 81 chặn đánh trước cổng phi trường Tân Sơn Nhất. Bốn chiến xa của Việt cộng bị phá hủy".
Trung đoàn 24 bị nghẽn ở Lăng Cha Cả do xe tăng Quân giải phóng bị bắn cháy trên đường Võ Tánh chặn mất lối sang Bộ Tổng tham mưu. Chỉ huy Trung đoàn 28 quyết định chuyển hướng tấn công, đi theo đường Trương Minh Ký (nay là cuối đường Lê Văn Sỹ) qua nhà thờ Tân Sa Châu, rẽ sang đường Thoại Ngọc Hầu rồi quẹo trái ra Võ Tánh đánh trực diện cổng chính Bộ Tổng tham mưu lúc 9g40.
Các xe tăng M48, xe thiết giáp M113 của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trước cổng Bộ Tổng tham mưu bắn chặn quyết liệt và lính Biệt cách dù phục sẵn (từ mấy hôm trước) trên các nóc nhà hai bên đường bắn vào đội hình.
Bên kia phản pháo lại. Trong khoảng nửa tiếng, ba xe tăng M48, thiết giáp M113 của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa bị bắn cháy ở khu vực trước cổng Bộ Tổng tham mưu. Một số lính Nhảy dù phòng thủ ở đây cũng tử trận. Những xe tăng, xe thiết giáp của lực lượng phòng thủ rút lui. Có chiếc M48 chạy ra tới ngã tư Phú Nhuận mới chịu ngừng cho lính trong xe leo ra đi đâu không rõ.
Thiếu tá Tài nhớ lại : "Một đoàn chiến xa khác của Việt cộng hướng vào cổng chính Bộ Tổng tham mưu. Một toán của Liên đoàn 81 phòng thủ trên cao ốc (đầu ngã ba Thoại Ngọc Hầu – Võ Tánh ; đối diện Bệnh viện dã chiến số 3 Mỹ bên kia đường, hiện nay là Bảo tàng Lực lượng Vũ trang miền Đông Nam bộ – CMC) đã dùng M72 bắn cháy chiếc đầu tiên. Chiếc thứ hai đã dùng đại pháo trên pháo tháp bắn vào cao ốc làm tê liệt tuyến phòng thủ đó, nhưng chiến xa này cũng bị bắn cháy trước cổng Bộ Tổng tham mưu".
Tổng cộng trận đánh vào Sài Gòn sáng 30/4 của Trung đoàn 24 và Trung đoàn xe tăng 273 của Quân giải phóng, theo cựu binh Nguyễn Đình Thi, "mũi tấn công này của ta bị địch bắn cháy tất cả bảy xe tăng và một xe bọc thép (tại ngã tư Bảy Hiền ta bị địch bắn cháy hai xe tăng, tại Lăng Cha Cả ta bị địch bắn cháy năm xe tăng, một xe bọc thép".
Khoảng 10g30, Trung đoàn 28 đánh chiếm xong tòa nhà Tổng hành dinh Bộ Tổng tham mưu Việt Nam Cộng Hòa và cắm cờ. 11g, Trung đoàn 24 làm chủ phi trường Tân Sơn Nhứt.
Thiếu Tá Phạm Châu Tài tập họp binh sĩ dưới quyền lần chót, nói với những chiến hữu của ông một lệnh cuối cùng : "Chúng ta là Biệt cách dù, không có vụ đầu hàng. Thôi tan hàng, và lặn cho kỹ…".

9g sáng 30/4/1975, binh lính Nhảy dù trại sư đoàn dù, căn cứ Hoàng Hoa Thám rút về phía Bảy Hiền, Ông Tạ để ra Trương Minh Ký (nay là đương Lê Văn Sỹ) - Ảnh Nguyễn Đạt
Các cánh Quân giải phóng hướng cửa ô này vô Sài Gòn là cánh quân cuối cùng hội quân ở Dinh Độc Lập trưa 30/4.
… Khoảng 10 – 10g30 sáng 30/4/1975, một hình ảnh "lạ" diễn ra trong mắt bà con trên đường Trương Minh Ký, Trương Minh Giảng (nay đều là Lê Văn Sỹ), trong mắt và trong ống kính của chàng trai 19 tuổi gan lì Nguyễn Đạt : Hàng trăm lính dù cởi áo trận, cởi trần, bỏ giày bốt-đờ-sô (botte de saut), đi chân không trên đường theo hướng Sài Gòn.
Không rõ trong đó có thiếu tá Tài không vì ông vốn là dân Sài Gòn – Gia Định gốc. Nhà ông, vợ con ông gần Viện đại học Vạn Hạnh trên đường Trương Minh Giảng (sau này là Trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh mà tôi học).
Theo sau những nhóm lính dù này không xa là hàng trăm bộ đội. Họ cũng chẳng buồn đuổi theo, bắn theo những người lính trước đó ít phút còn bắn vào họ, thiêu cháy nhiều đồng đội và gần chục xe tăng, xe thiết giáp của họ.

Phía sau nhóm lính Nhảy dù không xa là bộ đội Giải phóng tiến về phía Sài Gòn trên đường Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sỹ. Dáng vẻ ai cũng mệt mỏi, có người cúi đầu vẻ trầm tư - Ảnh Nguyễn Đạt
Đoàn gần chục người của gia đình tôi và họ hàng đi trong khung cảnh kỳ lạ này. Cũng không hiểu chuyện gì đang và sẽ xảy ra.
…Bom đạn đã yên. Lính cả hai bên đều đi không vội vã. Không một nụ cười trên môi những người lính cùng màu da, cùng dòng máu Việt ấy. Đánh nhau mấy tháng nay, chiến tranh đẫm máu hơn 20 năm, chắc bên nào cũng mệt mỏi, ngán ngẩm lắm rồi.
Cù Mai Công
*************************
Ông tướng đang sống trong kỷ nguyên gì ?
Thái Hạo, Tiếng Dân, 02/12/2025
Văn học Việt Nam từ 1945 đến 2000 được chia làm hai giai đoạn, theo tiến trình chính trị – xã hội : Trước và sau 1975.

Nỗi buồn chiến tranh thuộc loại tiểu thuyết chỉ có một nhân vật chính xuyên suốt toàn bộ tác phẩm.
Không phải kiến thức gì hàn lâm cao siêu cả, sách giáo khoa viết và học sinh phổ thông được dạy. Trước 1975 là nền văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu. Nhân vật chính của nó là con người quần chúng/đại chúng/quảng trường – không có chỗ cho đời sống cá nhân ; cảm hứng của nó là sử thi, ngợi ca, ta thắng địch thua…
Và cũng vì thế mà mặc dù có thành tựu và đã "hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị" nhưng nó trở nên phiến diện, một giọng, một chiều, là "nền văn học phải đạo".
Sau 1975, nó bắt đầu trở mình theo mệnh lệnh của hoàn cảnh mới. 10 năm đầu, do vẫn bị trượt theo quán tính, nên tính sử thi và "ăn mày dĩ vãng" vẫn đậm, tuy nhiên đã xuất hiện những tiếng nói cảnh tỉnh về những tiêu cực, về số phận cá nhân, về những mất mát của chiến tranh, sự tha hóa của con người. "Đất trắng" của Nguyễn Trọng Oánh hay kịch Lưu Quang Vũ xuất hiện trong giai đoạn này.
Sau Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam "cởi trói cho văn nghệ", văn học chuyển mình mạnh mẽ, từ chút cảnh tỉnh ban đầu nó chuyển mạnh sang phản tỉnh, từ con người quần chúng nó đi sâu vào con người cá nhân, cảm hứng sử thi được thay thế bằng dòng văn học thế sự, đời tư… "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh ra đời trong giai đoạn này. Nó không còn nhìn chiến tranh như một bản anh hùng ca nữa, mà trần trụi và đau đớn, với những mất mát, sang chấn, sự hủy hoại…
Tác phẩm này đã phải chịu những long đong, bị đánh, bị đấu tố, bị thu hồi. Nhưng rồi, cái gì có giá trị thật với đời sống và với văn học thì sẽ tự sống được mà không cần ai bảo kê. Nó trở lại với văn đàn bằng các giải thưởng và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, làm vinh dự cho nền văn học Việt Nam như một tiếng nói nhân bản, đứng cạnh nhiều tác phẩm ưu tú của nhân loại về đề tài chiến tranh…
Những tưởng sóng gió đã phải qua đi từ lâu và người ta phải thấy vui mừng về một tác phẩm mang tên "văn học Việt Nam", nhưng không, "sự ám ảnh của quá khứ" vẫn còn đeo đẳng trong những đầu óc bị mắc kẹt với các định kiến và đường biên nhỏ hẹp của tư tưởng địch ta, công thần, hãnh tiến…
Việc ông tướng về hưu Nguyễn Thanh Tuấn tỏ ra đau buồn và gay gắt tố cáo khi "Nỗi buồn chiến tranh" mới đây được vinh danh là một điển hình cho não trạng ấy (vào đọc hàng trăm bình luận còn choáng hơn !). Ông viết trên facebook (xin trích nguyên văn, không sửa lỗi chính tả) : "Một đêm không ngủ khi đọc tin 'Nổi buồn chiến tranh' được vinh danh ? Là Chiến sĩ Giải phóng tôi yêu cầu Ban tổ chức phải thu hồi sự vinh danh này !". "Phải chăng trào lưu xét lại lịch sử đang lộng hành ở mọi cấp và "tự diễn biến" đã không còn là lực lượng suy thoái trong Đảng mà đã và đang công khai thách thức dư luận và những ai bảo vệ thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta ?".
Ông Tuấn quên mất rằng, từ lâu Nỗi buồn chiến tranh đã được đưa vào sách giáo khoa để dạy cho học sinh phổ thông, như bộ 2000, bộ 2006 và gần nhất là bộ sách theo chương trình 2018 vừa mới biên soạn xong cho học sinh lớp 12.
Trong bộ sau cùng này (Kết nối tri thức và cuộc sống), ở bài "Khả năng lớn lao của tiểu thuyết", "Nỗi buồn chiến tranh" được trích hai đoạn cùng với các hướng dẫn đọc, trong đó có câu hỏi : Trong hồi ức của Kiên, chiến tranh đã hiện lên với "khuôn mặt" như thế nào ? Theo hiểu biết của bạn, đây có phải là "khuôn mặt" duy nhất của chiến tranh không ? Vì sao ?
Rõ ràng, người soạn sách đã rất công tâm và trung thực, gợi mở để học sinh phải đi tìm những khuôn mặt khác của chiến tranh, cái khuôn mặt đầy những tự hào, khí thế ngút trời, trước Nỗi buồn chiến tranh.
Trong khi hàng triệu học sinh phổ thông suốt mấy chục năm qua đã biết đến Nỗi buồn chiến tranh như một thành tựu đáng tự hào của Văn học Việt Nam, thì lạ thay, đến tận hôm nay, một ông tướng nghỉ hưu vẫn tỏ ra đau đớn khôn tả khi tác phẩm ấy được vinh danh, rốt cục thì ông tướng đang sống trong kỷ nguyên gì ?
Thái Hạo
******************************
Chúng ta hận thù đến bao giờ ?
Nguyễn Quang Thiều, Tiếng Dân, 02/12/2025
Lời bình của Tiếng Dân : Bài viết "Chúng ta hận thù đến bao giờ" của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, đã thẳng thắn nói lên một sự thật mà nhiều người né tránh : Kẻ thù lớn nhất của dân tộc ta không phải lúc nào cũng mang quân phục ngoại bang, mà đôi khi kẻ thù nằm ngay trong tâm trí chúng ta, dưới hình hài của hận thù và ngu dốt.
Những ví dụ ông đưa ra — từ cựu binh Mỹ được trao Huân chương Hữu nghị đến cuộc gặp giữa những người từng nã đạn vào nhau — không phải để lãng quên lịch sử, mà để chỉ ra điều này : Chúng ta đã từng làm những điều tưởng như không thể, đó là biến "kẻ thù không đội trời chung" thành đối tác chiến lược. Nếu làm được điều đó mà vẫn nuôi dưỡng hận thù trong đời sống hôm nay, thì đó không còn là vết thương lịch sử nữa, mà đó là sự lựa chọn.
Hận thù không giúp một dân tộc mạnh hơn, ngược lại nó sẽ làm cho một dân tộc yếu đi, đất nước bị kéo thụt lùi và chúng ta tự mắc kẹt trong vũng lầy cảm xúc của chính mình. Đúng như tác giả cảnh báo, để hận thù kéo dài chính là tự gieo vào lòng mình một thứ ung thư tinh thần, bệnh ung thư này lan nhanh, âm ỉ và tàn phá cả tương lai.
Thông điệp của nhà thơ rất rõ : Lịch sử đã đi tới. Thời đại đã đi tới. Chỉ còn lại câu hỏi : Chúng ta có chịu đi tới hay tiếp tục để bóng tối dắt đi theo chiều ngược lại ?

Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn phản đối vụ vinh danh tác phẩm "Nỗi buồn chiến tranh" của nhà văn Bảo Ninh. Ông chụp mũ những người làm việc này là "bọn trở cờ". Ảnh trên mạng / Tiếng Dân edit
***
Nguyễn Quang Thiều : Chúng ta hận thù đến bao giờ ?
Nếu bạn hỏi tôi : Ai là kẻ thù của dân tộc Việt Nam ? Thì tôi sẽ trả lời : Trước hết là những kẻ mang quân xâm lược đất nước này. Đó là phong kiến Trung Hoa, quân Nguyên Mông, đó là quân đội Pháp, Mỹ, Nhật, Pol Pot và gần đây nhất là năm 1979 với quân đội Trung Quốc.
Vì sao tôi dùng từ "trước hết" ? Vì có những kẻ thù ở nhiều nghĩa và ẩn danh. Ví dụ như sự hận thù và ngu dốt là một kẻ thù kinh khủng.
Hồi chiến tranh, nhiều người Việt Nam trong đó có tôi, nghĩ không bao giờ Việt Nam và Mỹ có thể là bạn. Nhưng năm 2023, cố Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đón Tổng thống Joe Biden và ký kết hiệp ước đối tác chiến lược toàn diện với kẻ thù "không đội trời chung" là Mỹ. Đây là mức quan hệ cao nhất giữa hai quốc gia.

Ngày 22/9/2024 tại New York, theo đề nghị của Hội nhà văn Việt Nam, Tổng bí thư Tô Lâm, lúc đó kiêm Chủ tịch nước, đã ký và trực tiếp trao tặng Huân chương Hữu nghị cho 2 lính Mỹ đã từng cầm súng xâm lược Việt Nam. Thay mặt người Việt Nam, ông đã trao tặng Huân chương Hữu Nghị cho những người từng là "kẻ thù không đợi trời chung" của dân tộc Việt Nam.

Mấy năm trước, tôi đã đưa nhà thơ, cựu binh Mỹ Bruce Weigl đến thăm nhà văn, người lính giải phóng Trúc Phương. Họ đã uống rượu và đọc thơ cho nhau nghe. Cả hai đều nói về chiến tranh với những nỗi buồn riêng. Trong chiến tranh mỗi người đều tìm cách tiêu diệt người khác. Chiến tranh đã dạy cho họ nhiều điều. Nhưng tôi nghĩ, hòa bình còn dạy cho họ nhiều hơn thế.
Nếu chúng ta tiếp tục hận thù thì chúng ta sẽ mãi đi lòng vòng trong đầm lầy. Và hận thù nếu không được giải thoát khỏi con người, nó sẽ trở thành căn bệnh "ung thư tâm hồn" của một người hay của cả một dân tộc.
Thời gian đã thắp sáng con đường mỗi dân tộc đang đi và hướng về phía trước trong khi một số kẻ vẫn chìm trong bóng tối u mê.
Nguyễn Quang Thiều
***********************************
Tư duy thụt lùi của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn
Trúc Lam, Tiếng Dân, 02/12/2025
Hơn 35 năm trước, khi "Nỗi buồn chiến tranh" của nhà văn Bảo Ninh ra đời, nhiều người nhận ra rằng, đây không phải là một cuốn tiểu thuyết để đọc "cho vui", mà là một tiếng nói dám nhìn thẳng vào sự thật: Nỗi đau của chiến tranh. Ngày 30/11/2025, tác phẩm này được chọn là một trong 50 tác phẩm văn học – nghệ thuật xuất sắc nhất sau năm 1975.

Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn. Nguồn : Báo Chính phủ
Đó là một tín hiệu đáng mừng, bởi văn học Việt Nam cuối cùng cũng đang bước ra khỏi lối viết một chiều, lối viết chỉ được phép kể chuyện chiến thắng mà không được nói về nỗi đau mất mát của con người.
Nhưng niềm vui ấy vừa lóe lên thì Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, cựu Cục trưởng Cục Tuyên huấn, lập tức phản ứng dữ dội. Ông Tuấn đòi "thu hồi sự vinh danh", đòi "rà soát nội dung", thậm chí yêu cầu phải "xử lý" tác phẩm.
Kiểu phản ứng này nói lên một điều : Vẫn còn những người muốn kéo văn chương trở về thời chỉ được phép viết theo lệnh, chỉ được ca ngợi, mà không được đụng đến sự thật.
"Nỗi buồn chiến tranh" kể đúng bản chất chiến tranh, chứ không "phản trắc" gì cả
Ở đâu cũng vậy, văn học về chiến tranh, nếu viết đúng sự thật thì rất buồn. Vì chiến tranh vốn không đẹp, không hào nhoáng, mà nó là máu, là nước mắt, là cái chết và là nỗi ám ảnh mà những người đã đi qua vẫn phải mang nó theo suốt đời.
"Nỗi buồn chiến tranh" được tôn vinh vì nó dám nói lên điều đó. Nhưng ông Tuấn lại cho rằng cuốn sách này "hạ thấp tính anh hùng", "mang mùi phản trắc". Thật ra, đây là cách hiểu sai giữa nghệ thuật và tuyên truyền. Một người lính đau đớn, hoang mang, bị ám ảnh sau chiến tranh — không phải là kẻ phản trắc. Họ là con người thật. Và chính họ, với nỗi đau thật, mới xứng đáng được tôn trọng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, báo chí, văn chương, nghệ thuật đều phải phục vụ mục đích chính trị
Cái kiểu tư duy "chỉ được viết mặt sáng", "chỉ được kể chiến công", "không được kể về nỗi buồn" chính là lý do nhiều thế hệ lớn lên với một lịch sử méo mó : Chỉ thấy người hùng đứng trên bục, không thấy những thân thể nằm lại trên chiến trường.
Trong khi đó, thế giới từ lâu đã tôn trọng những tác phẩm viết về chiến tranh bằng nỗi đau thật. Tác phẩm "Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh" của Erich Maria Remarque – một cựu binh Đức – đã mô tả chiến tranh bằng tất cả sự kinh hoàng của nó. Tác phẩm đó từng bị Đức Quốc xã cấm đoán, nhưng thời gian đã chứng minh nó là kiệt tác. Bộ phim mới nhất được chuyển thể từ tác phẩm này đã giành được 4 giải Oscar hồi năm 2023.
Và Bảo Ninh đã làm điều tương tự cho người lính Việt Nam. Vậy, có gì phản trắc ở việc nói lên nỗi đau thật ? Nếu có chăng, chỉ là một số người… sợ sự thật.
Văn học sinh ra không phải để phục vụ tuyên giáo
Điều nguy hiểm trong phát biểu của Trung tướng Tuấn là ông vẫn xem văn học như một công cụ tuyên truyền, phải nghe theo một tiêu chuẩn chính trị nào đó.
Ông hỏi, vì sao Chính phủ lại trao giải ? Ông cho rằng tác phẩm đó là "sự phản trắc", rằng hai quan chức Chính phủ đang "tự diễn biến". Và ông yêu cầu phải "rà soát", "xử lý"…
Đó là tư duy của một thời mà văn học phải chịu đủ thứ "vòng kim cô". Nhưng thời nay, người đọc không còn chấp nhận kiểu văn chương chỉ để ca ngợi. Văn học phải nói lên những điều mà con người thật sự cảm thấy.
Những người lính trở về từ chiến trường chắc chắn không cần đọc loại lịch sử chỉ toàn là hào quang, sáng chói. Họ cần được xã hội nhìn nhận nỗi đau tinh thần, những ám ảnh mà họ phải sống chung cả đời.
Nếu cứ bắt văn học chỉ được nói những điều đẹp đẽ, không được chạm vào bóng tối, thì hóa ra chúng ta đang che giấu chính những vết thương của người lính.
"Xét lại lịch sử" không phải là tội, mà là trách nhiệm
Ông Tuấn cho rằng, việc vinh danh "Nỗi buồn chiến tranh" là dấu hiệu của "tự diễn biến", "xét lại lịch sử". Nói như vậy là ông nhầm lẫn giữa xét lại sự thật với "xét lại để lật đổ".
Không ai muốn lật đổ gì ở đây cả ông Tuấn ạ. Nhưng một dân tộc muốn trưởng thành thì phải dám hỏi lại quá khứ.
Những nước lớn trên thế giới đều trải qua quá trình tự soi lại chính mình : Nước Đức nhìn lại Thế chiến thứ hai. Nước Nhật nhìn lại chủ nghĩa quân phiệt. Và một cường quốc như Mỹ cũng đã và đang nhìn lại cuộc chiến Việt Nam.
Nhờ vậy mà họ trở nên mạnh mẽ hơn. Chỉ có những chế độ bất an, sợ dân trí, sợ sự thật, mới xem việc nhìn lại là điều nguy hiểm.
Sự thật mà lúc nào cũng giấu giấu giếm giếm, không dám cho dân biết, thì không phải là sự thật, mà đó chỉ là một bài diễn văn, lúc nào cũng đẹp đẽ, hào nhoáng !
Nỗi sợ của tư duy cũ : Sợ dân suy nghĩ, sợ mất quyền diễn giải lịch sử
Cách ông Tuấn phản ứng cho thấy một điều : Vẫn còn những người tin rằng chỉ họ mới có quyền quyết định người dân phải hiểu lịch sử thế nào, phải có cảm xúc ra sao.
Nhưng thời nay không phải là thời của vài chục năm trước, bởi người dân đã đọc được nhiều, tiếp cận được nhiều với thế giới qua mạng internet. Họ có vô số nguồn thông tin, cho nên không thể cứ tuyên truyền mãi những điều dối trá rồi nghĩ rằng dân đang tin mình. Không ai có thể chỉ tay, ra lệnh, bắt người dân phải "đọc cái này", "không được đọc cái kia" rồi tự lừa dối mình rằng dân tin và làm theo.
"Nỗi buồn chiến tranh" có lẽ được nhiều người yêu mến vì nó nói tiếng nói của con người, không phải tiếng nói của khẩu hiệu. Và đó chính là điều làm cho những người quen "định hướng tư tưởng" như ông Tuấn, cảm thấy bất an.
Xã hội chỉ phát triển khi dám để văn học nói lên sự thật
Chuyện ông Tuấn phản đối "Nỗi buồn chiến tranh" không chỉ là chuyện một cuốn sách, mà đây là chuyện của hai cách nghĩ đang va vào nhau : Một bên muốn văn học trung thực, nhân bản, còn một bên chỉ muốn văn học ca ngợi, tô hồng. Một bên nhìn tương lai, còn một bên muốn níu kéo quá khứ. Một bên muốn tiến bộ, trong khi bên kia muốn đi thụt lùi.
Danh dự của một dân tộc không nằm ở việc che giấu nỗi đau, mà danh dự nằm ở chỗ dám đối diện với sự thật. Và nếu văn học nói lên sự thật lại bị xem như "đe dọa chế độ", mọi người có thể nhận ra rằng cái chế độ này nó yếu ớt như thế nào ?
Bảo vệ lịch sử không phải là bảo vệ vẻ đẹp của lịch sử, mà là phải bảo vệ sự thật của lịch sử. Bảo vệ chế độ không phải là từ chối mọi tiếng nói khác biệt. Và bảo vệ danh dự của một dân tộc không bao giờ đồng nghĩa với việc quay lưng với sự thật.
Việt Nam chỉ có thể đi tới nếu chế độ này dám để cho văn học, nghệ thuật và con người được quyền nói lên sự thật.
Cuối cùng, xin được nói thẳng với Trung tướng Tuấn rằng: Lịch sử không cần phải lúc nào cũng bóng loáng. Chế độ không cần phải "đẹp mọi lúc mọi nơi". Nhưng con người thì cần phải được tôn trọng — ngay cả nỗi buồn của họ.
Trúc Lam
Chú thích :
Cựu cục trưởng tuyên giáo Nguyễn Thanh Tuấn viết : "Khi tôi làm Cục trưởng tôi đã cố gắng đọc hết "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh và tôi đã thấy cái mùi phản trắc lồng vào tiểu thuyết để hạ thấp tính anh hùng của quân đội ta và đã nhen nhóm sự lật sử thông qua văn học nghệ thuật… Nay không hiểu sao Hội nhà văn Việt Nam đã bất chấp sự thật chọn một tác phẩm như vậy để vinh danh là tác phẩm tiêu biểu và càng không hiểu vì sao hai vị đại diện cho Chính phủ lại trao giải này cho ông Bảo Ninh ? Phải chăng trào lưu xét lại lịch sử đang lộng hành ở mọi cấp và ‘tự diễn biến’ đã không còn là lực lượng suy thoái trong Đảng mà đã và đang công khai thách thức dư luận và những ai bảo vệ thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta ?".
********************************
Vinh danh "Nỗi buồn chiến tranh" và giới hạn của sự bất bình
Lê Thọ Bình, Tiếng Dân, 01/11/2025
Việc tiểu thuyết ‘Nỗi buồn chiến tranh’ của Bảo Ninh được xướng tên trong top 50 tác phẩm văn học – nghệ thuật tiêu biểu sau thống nhất đã gây ra phản ứng dữ dội từ Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, cựu Cục trưởng Cục Tuyên huấn. Ông cho rằng cuốn sách mang "mùi phản trắc", "hạ thấp tính anh hùng của quân đội" và là dấu hiệu của "trào lưu xét lại lịch sử". Từ đó, ông yêu cầu thu hồi sự vinh danh và xử lý tác phẩm.

Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn và status của ông về "Nỗi buồn chiến tranh". Nguồn : Báo QĐND/ Nguyễn Thanh Tuấn/ Tiếng Dân edit
Phản ứng này cho thấy một cuộc tranh luận lớn hơn : Với chiến tranh, tư liệu lịch sử sống động và đầy mâu thuẫn, đâu là giới hạn của sự phản biện, đâu là vai trò của văn học, và ai có quyền phán quyết về sự thật ?
Chiến tranh không chỉ có hào quang
Ngay từ khi ra đời năm 1987, ‘Nỗi buồn chiến tranh’ đã gây chấn động không phải vì nó "phủ định lịch sử", mà vì nó mở ra một giọng điệu mới, giọng điệu của nỗi đau. Bảo Ninh viết về chiến tranh từ góc nhìn người lính trải qua cái chết, dằn vặt, ám ảnh, mất mát tình yêu và sự sụp đổ tinh thần. Tác phẩm không nhằm tôn vinh hay bôi nhọ ; nó khắc họa sự thật tâm lý của những người đã đi qua chiến tranh, phần sự thật mà trước đó văn học chính thống ít khi đề cập.
Văn chương không phải là bản báo cáo thành tích, và càng không nên chỉ có một màu hào hùng. Một dân tộc trưởng thành là dân tộc đủ dũng khí nhìn vào cả ánh sáng lẫn bóng tối trong lịch sử của mình.
Chính chiều sâu nhân bản ấy khiến ‘Nỗi buồn chiến tranh’ được dịch ra gần 20 thứ tiếng, được thế giới đón nhận như một trong những tiểu thuyết chiến tranh xuất sắc nhất Châu Á. Những giải thưởng quốc tế từ Nhật Bản, Hàn Quốc hay các tổ chức văn học khu vực không trao cho một cuốn sách "phản trắc", mà cho một tiếng nói chân thực, giàu sức nhân văn.
Vinh danh một tác phẩm, không phải thay đổi lập trường chính trị
Việc Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch vinh danh tác phẩm này không hề đồng nghĩa với việc nhà nước thay đổi quan điểm lịch sử hay xem nhẹ những hy sinh của quân đội. Một quốc gia có thể vừa vinh danh chiến thắng, vừa vinh danh nỗi đau, bởi cả hai đều cấu thành ký ức chiến tranh.
Ở nhiều nước từng trải qua chiến tranh, như Mỹ, Nhật Bản, Đức, các tác phẩm phản tư, phê phán và day dứt thường được xem là bước tiến của nền văn hóa trưởng thành. Không ai kết tội "Người lính bị lãng quên" của Tim O’Brien là "phản quốc" ; cũng không ai yêu cầu thu hồi "Bi kịch chiến tranh" của Ōoka Shōhei. Những tác phẩm này được học trong trường học, được nghiên cứu, được tranh luận, vì chúng giúp thế hệ sau hiểu chiến tranh toàn diện hơn.
Sự bất bình không nên thay thế đối thoại
Phát biểu của tướng Nguyễn Thanh Tuấn phản ánh mối lo có thật : Nỗi sợ những giá trị lịch sử cốt lõi bị xói mòn. Nhưng nỗi lo ấy không thể là lý do để đòi xử lý một tác phẩm văn học đã tồn tại gần 40 năm, được đánh giá bởi giới phê bình trong và ngoài nước.
Nếu xem văn học chỉ là công cụ tuyên truyền, thì mọi khác biệt về góc nhìn đều dễ bị quy chụp thành "xét lại", "phản bội". Còn nếu coi văn học là nơi con người đối diện với sự phức tạp của chính mình, thì những tác phẩm như ‘Nỗi buồn chiến tranh’ là cần thiết hơn bao giờ hết.
Phản biện trong lĩnh vực văn hóa không thể được giải quyết bằng mệnh lệnh hành chính. Nó cần được giải quyết bằng các diễn đàn học thuật, bằng đối thoại bình tĩnh, và bằng sự tôn trọng quyền đa dạng quan điểm.
Cần một tư duy rộng mở về ký ức chiến tranh :
Gần 50 năm sau hòa bình, Việt Nam đã bước vào giai đoạn mà ký ức chiến tranh ngày càng cần được nhìn lại một cách sâu sắc, đa chiều và trưởng thành. Một quốc gia tự tin không sợ những tiếng nói nhói lòng ; trái lại, nó biết rằng những tiếng nói ấy làm cho lịch sử trở nên đầy đủ hơn.
Vinh danh ‘Nỗi buồn chiến tranh’ là sự ghi nhận văn học, không phải là sự phủ định chiến công. Và trong một xã hội hiện đại, sự bất bình của một cá nhân, dù là tướng lĩnh quân đội, cũng không nên trở thành lý do để cấm đoán một tác phẩm đã chứng minh được giá trị nhân văn và giá trị nghệ thuật suốt nhiều thập kỷ.
Văn học không phải để củng cố một phiên bản lịch sử duy nhất, mà để giúp chúng ta điềm tĩnh, nhân hậu và thấu hiểu hơn. Nếu một dân tộc không đủ rộng lượng để lắng nghe cả những trang viết đau buồn về chính mình, thì chính sự im lặng ấy mới là điều đáng lo ngại.
Lê Thọ Bình