Hội Nghị Trung Ương 15: Ông Tô Lâm thực sự tính toán điều gì? (Chu Tuấn Anh)

Hội Nghị Trung Ương 15 của chế độ Cộng sản Việt Nam đã diễn ra trong bóng tối, nơi mà mọi thông tin đều trở thành bí mật quốc gia. Chúng ta biết rất ít về những gì họ đã thảo luận trong những căn phòng, hội trường khép kín.
Tuy vậy, không khó để nhận ra họ đã đấu đá rất lớn. Ông Tổng bí thư Tô Lâm nhân ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng “nắn gân” Quân đội và nhấn mạnh lại là Quân đội phải là lực lượng bảo vệ Đảng. Trong diễn văn Hội nghị Trung ương, cụm từ “trung thành” cũng được lặp đi lặp lại. Những điều này chỉ có thể phản ánh tình trạng chia rẽ sâu sắc trong nội bộ đảng Cộng sản, và “tự diễn biến, tự chuyển hóa” đã không còn có thể ngăn chặn được nữa.
Có một chi tiết đáng chú ý là vào ngày 19/12, ông Phạm Minh Chính đã long trọng chủ tọa lễ khởi công 234 dự án với tổng số vốn là 130 tỷ đô la Mỹ, tương đương 32% GDP của Việt Nam. Có thể nói, mượn danh nghĩa theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% vào năm 2025 và trên hai con số vào năm 2026 thông qua giải ngân các dự án đầu tư công, liên minh Tô Lâm – Phạm Minh Chính đã lên kế hoạch lôi kéo, mua chuộc 200 ủy viên trung ương thông qua những sân sau của họ. Sự kiện tập đoàn VinGroup rút khỏi dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam và Mik Group, Đèo Cả rút khỏi liên minh đầu tư tại siêu dự án đô thị sông Hồng 33.5 tỷ đô phần nào phản ánh điều đó. Có lẽ kinh nghiệm “đấu đá chính trị”, mua chuộc và lôi kéo đã giúp ông Tô Lâm giành được kết quả bất ngờ trong Hội Nghị Trung Ương 15.
Nhưng một đảng chính trị chưa bao giờ đoàn kết trước lợi ích.
Ngược lại, phân chia lợi ích sẽ chỉ làm đảng Cộng sản Việt Nam phân rã, sụp đổ nhanh hơn mà thôi. Ông Tô Lâm sẽ sớm nhận ra mình không hề “thắng lớn” và thành công trong việc củng cố quyền lực tối cao như ông ta suy nghĩ. Vì giờ đây, số mệnh chính trị của Tô Lâm đang cột chặt vào một mục tiêu và những con số tăng trưởng không hề có thực. Nhưng điều nghiêm trọng hơn là những mục tiêu này đang bị vạch trần như một trò lừa bịp bợm và sẽ cho thấy hết mọi sự tai hại của nó chỉ trong năm sau mà thôi.
Sự tai hại của mục tiêu kinh tế Tô Lâm – Phạm Minh Chính khởi xướng
Như đã trình bày, tất cả các dự án này – từ đô thị đến các cơ sở hạ tầng – hầu hết sẽ rơi vào tay các tư bản thân hữu, bè đảng có mối quan hệ với chế độ. Khi được chấp thuận dự án, họ hoàn toàn được quyền chiếm dụng những “lô đất vàng”, tài nguyên bất động sản được đền bù với giá rẻ mạt rồi bán lại với mức giá cao hơn hàng chục, thậm chí hàng trăm lần theo giá thương mại. Khi quỹ đất được giải phóng, đất sẽ trở thành tài sản đem đi thế chấp ngân hàng để giải ngân những nguồn tín dụng phục vụ cho các hoạt động xây dựng. Các hoạt động bơm thổi để tăng giá trị tài sản thế chấp trong thời gian qua cũng đã khiến giá đất tăng lên chóng mặt. Điều đó có nghĩa là bất động sản càng được định giá cao, thì ngân hàng sẽ cấp phát tín dụng càng nhiều cho những doanh nghiệp tư bản đỏ. Điều này lý giải tại sao lạm phát đang có dấu hiệu mất kiểm soát, một lượng tiền lớn đã được bơm vào bất động sản – xây dựng theo quy chế này. Nó đặt ra nguy cơ vỡ nợ một loạt những ngân hàng, doanh nghiệp bất động sản-xây dựng và những người đầu cơ, tích trữ bất động sản. Tình hình có thể rất xấu!
Chính sách kinh tế của liên minh Tô Lâm – Phạm Minh Chính cần phải được nhận diện là một thủ đoạn chính trị để bàn giao tài sản, ngân quỹ của đất nước cho quan chức và các sân sau, tư bản bè đảng để đổi lấy sự trung thành chính trị. Lâu dần, những dự án xây cất lên không thực sự gắn với những mục tiêu phát triển xã hội và trở nên hoang phí. Bản thân ông Tô Lâm còn từng thừa nhận có tới 2 triệu tỷ đồng mắc kẹt ở 2000 dự án cũ như kết quả của sự “lãng phí”. Càng lúc, ông Tô Lâm chỉ càng chứng tỏ rằng ông là “đồng phạm” trong những cáo buộc mà ông dùng để tố cáo đồng chí của mình.
Và tất nhiên, nạn nhân của chính sách kinh tế Tô Lâm – Phạm Minh Chính sẽ là những người dân oan mất đất và những người nghèo, người lao động cảm thấy cơm áo gạo tiền ngày càng là một gánh nặng, làm cho thân phận người Việt Nam ngày càng trở nên tủi nhục.
Sơ lược về lộ trình phát triển của Việt Nam
Một người có hiểu biết về kinh tế – chính trị cơ bản cũng hiểu rằng một thành tựu kinh tế chỉ có giá trị khi tăng trưởng kinh tế được phân bổ đồng đều và thực sự nâng cao mức sống con người. Nếu kinh tế tăng trưởng 5% thì những người nghèo nhất trong xã hội cũng phải tăng trưởng 5%.
Mọi người Việt bình dân cũng hiểu rằng những con số tăng trưởng dựa trên “siêu dự án” chẳng có ý nghĩa gì với họ. Người lao động cảm nhận tăng trưởng thông qua mức lương tăng theo thời gian và lạm phát được kiểm soát một cách hợp lý. Khi Việt Nam bắt đầu xuất hiện những ngành công nghiệp gia công và nhìn thấy con đường xuất khẩu hàng hóa, quả thực mức lương của người lao động đã tăng lên đáng kể – dù đó chỉ là những ngành công nghiệp giá trị thấp như dệt may, da giầy; gia công lắp ráp phân đoạn cuối như đóng gói bao bì.
Nhưng chỉ trong chưa đầy một thập kỷ thì tăng trưởng đã đạt đến giới hạn khi mức lương không thể tăng thêm do cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, buộc các quốc gia phải giữ lương của người lao động cùng các chi phí sản xuất khác rẻ nhất có thể. Điều đó tất nhiên đặt ra một mục tiêu khẩn cấp là chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp – dệt may và công nghiệp lắp ráp gia công sang nền kinh tế công nghiệp bậc cao và hướng về nền kinh tế dịch vụ. Nó cũng tương đương với lộ trình tăng trưởng từ một nền kinh tế thu nhập trung bình thấp (dưới 5000 đô la Mỹ) sang nền kinh tế thu nhập trung bình cao (hiện tại là 15,000) và tiến về mức thu nhập cao.
Tuy vậy, việc chuyển đổi một nền kinh tế thường diễn ra rất lâu ngay cả với những quyết tâm lớn. Một quá trình chuyển dịch nền kinh tế – nghĩa là từ bỏ những ngành nghề cũ, vốn gắn với sinh kế, công ăn việc làm của hàng triệu người để phát triển những ngành công nghiệp – dịch vụ mới – bước đầu có thể gặp những khó khăn và thử thách. Tất nhiên, đó là một quá trình không thể hoàn tất trong ngày một ngày hai. Những gì một chính quyền phải làm là giữ gìn cân đối tài khóa, kiểm soát lạm phát và nâng đỡ mọi sáng kiến, mọi cố gắng lương thiện của dân tộc để có một tốc độ tăng trưởng vừa phải, nhưng cân đối, dài hạn và ít rủi ro tài chính vĩ mô cũng như môi trường và xã hội.
Một nguyên nhân khác phải kể đến là chúng ta cần thời gian cho giáo dục và đào tạo. Cụ thể, chúng ta sẽ phải mất tới 20-30 năm để có được một thế hệ lao động mới có thể làm chủ được công nghệ – kỹ thuật và dần nuôi dưỡng được sự đổi mới sáng tạo; từ những em bé được sinh ra ngày hôm nay trên đất nước Việt Nam với điều kiện là những mầm non này nhận được những giáo dục và nâng đỡ tốt nhất. Tuy vậy, chúng ta cũng không đảm bảo là những công dân của Việt Nam trong tương lai sẽ không rời bỏ đất nước sau khi nhận được mọi sự giáo dục và đãi ngộ. Để giữ chân người Việt Nam với đất nước Việt Nam, đất nước buộc phải có một chính quyền dân chủ tôn trọng quyền con người, thực sự cởi mở với mọi sự khác biệt và được lãnh đạo bởi những con người yêu nước mà thôi!
Lẽ ra, với mọi sự khiêm tốn, các cấp lãnh đạo Việt Nam phải giải thích cho người dân hiểu rằng quá trình vươn lên của đất nước còn nhiều gian khổ và cần những phấn đấu trong cam go. Thực sự, không dễ và không thể có một phép màu nào để những người thu nhập chưa đến 5000 đô la Mỹ/năm với trình độ sản xuất, kỹ thuật và tổ chức hiện tại có thể đuổi kịp được mức thu nhập trung bình 15,000 đô la trong một thời gian ngắn. Trái với mục tiêu “vượt qua bẫy thu nhập trung bình” mà ông Tô Lâm hô hào, chúng ta còn ở cách cái bẫy đó rất xa! Và nếu thực sự có một con đường để vươn lên trong bối cảnh thế giới hiện tại, đất nước Việt Nam buộc phải có dân chủ đa nguyên với một mô thức kinh tế – chính trị và những định hướng lớn đúng đắn nhất. Chỉ có lựa chọn đó mà thôi!
Chế độ Cộng sản đang chuyển hóa về chế độ tài phiệt?
Có thể ông Tô Lâm sẽ thắng lớn sau khi thành công bàn giao một phần lớn tài sản đất nước cho tập thể quan chức tham nhũng và sân sau của họ. Nếu thực sự liên minh Tô Lâm – Phạm Minh Chính thành công trong kế hoạch này và thậm chí ông Tô Lâm nhờ đó giành được thêm cả chức Chủ tịch nước bên cạnh chức vụ Tổng bí thư, điều đó phản ánh một sự chuyển hóa của chế độ Cộng sản từ độc tài tập thể sang chế độ tài phiệt mafia dựa trên độc tài cá nhân theo mô hình của Nga.
Tuy vậy, con đường này cũng không hề dễ dàng với ông Tô Lâm, lý do như đã trình bày ở trên là ông Tô Lâm đã dồn toàn bộ vốn liếng chính trị của mình vào một mục tiêu không có thực, hay nói đúng hơn là giả dối. Ông Tô Lâm đã hứa hẹn thiên đường, nhưng những gì chờ đợi đất nước năm 2026 là địa ngục của một cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội. Nếu có một khả năng suy nghĩ tối thiểu, ông Tô Lâm phải nhận ra rằng ngay cả khi thành công loại bỏ đối thủ chính trị của mình bằng kế hoạch này, ông Tô sẽ là nạn nhân của chính sự thành công của mình mà thôi.
Dân chủ đa nguyên vẫn là lựa chọn của đất nước?
Thời gian qua, những tường thuật của các báo đài không chính thức cũng cho hay bản thân hai ông Lương Cường và Phan Văn Giang cũng đứng ra phản đối chính sách tăng trưởng kinh tế cẩu thả của ông Tô Lâm và Phạm Minh Chính. Giới truyền thông cũng nói thêm đó là nguyên nhân thất bại của hai ông tướng quân đội trước hai ông tướng công an. Hai ông tướng quân đội có lúc được ủng hộ trước sự chống đối lớn dành cho ông Tô Lâm ngay chính trong đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng để rồi bị cô lập trong Hội Nghị Trung Ương 15.
Tôi vẫn nghĩ hai ông Lương Cường và Phan Văn Giang là những người giáo điều và khuôn phép, thậm chí còn bị tiêm nhiễm những sai lầm của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhưng họ không tỏ ra cẩu thả, huênh hoang như ông Tô Lâm và cũng không giả dối như một kịch sĩ như những gì ông Phạm Minh Chính đã thể hiện.
Tuy vậy, cũng cần nói thêm ở thời điểm này điều tồi dở nhất là nhân danh “kỷ cương, luật Đảng” để cứu Đảng, hay tỏ ra mình là người “khuôn phép, giáo điều” để được chấp nhận. Nhất là khi chủ nghĩa giả dối đó đã khiến nhiều đồng bào, anh em trở thành nạn nhân của nó, trong đó có những tù nhân chính trị và dân oan. Nhiều người dân oan cũng là những cựu chiến binh đã từng nhập ngũ và tham gia chiến đấu dưới là cờ của chế độ. Có chính nghĩa nào còn lại ở một chế độ đã đến hồi cáo chung và còn trở nên tàn bạo, mất hết mọi lý chí cơ chứ? Hơn nữa, dân chủ đã thắng thế về mặt tư tưởng và chỉ còn chờ đợi một thắng lợi chính trị cuối cùng. Kẻ dại khờ nhất sẽ chỉ là những người chậm chân nhất không bước ngay sang hàng ngũ dân chủ từ thời điểm này mà thôi.
Thực tế, trong thời gian qua, lực lượng an ninh cũng đã không ngừng làm việc với các thành viên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Những lực lượng trong Công an, Quân đội và Tuyên giáo cũng không ngừng “phản bác” các ý kiến chính trị của chúng tôi. Chắc chắn rằng họ đã đọc bài viết của Tập Hợp rất cẩn trọng và chúng tôi tin rằng nhiều người trong số họ cũng đã chỉ phản bác gượng gạo vì cấp trên chỉ đạo mà thôi.
Đằng nào thì phong trào tự diễn biến, tự chuyển hóa đã là xu hướng của đa số trong chính nội bộ đảng Cộng sản. Nhất là khi những quyết định nhân sự cấp cao của chế độ Cộng sản Việt Nam hiện chỉ nằm ở 200 ông ủy viên Trung ương và 16 ông Ủy viên Bộ Chính trị, phần lớn trong số họ đều là những người tham nhũng, ham mê quyền lực và là những tỷ phú với các sân sau, tài sản trôi nổi. Khi đảng Cộng sản đang mất đi chính cơ sở quần chúng của họ và xu hướng dân chủ ngày càng thắng thế trong nội bộ chế độ và bên ngoài xã hội, chúng ta không có một lý do nào để tìm kiếm một giải pháp trong đảng Cộng sản nữa cả. Tương lai dân chủ đa nguyên và hòa giải dân tộc đã là một lựa chọn không chỉ đẹp nhất, đáng có nhất mà còn dung dị nhất!
Chu Tuấn Anh
(28/12/2025)