Vì sao Trần Đại Quang phải đi Phi châu? (Phạm Chí Dũng)
"Có bệnh thì phải vái tứ phương", tuy nhiên con bệnh ĐCSVN đã bị ung thư giai đoạn cuối rồi nên có sang tận Châu Phi hay Châu gì đi nữa cũng vô ích. Tiền hết là tình tan. Đến ngay cả tướng tá công an, bổng lộc thế mà còn xin về hưu non huống hồ gì các ngành nghề khác.
Cả Ai Cập và Ethiopia đều không có vị trí và vai trò địa - chính trị
đáng kể nào với Việt Nam, cũng không nằm trong danh sách chẵn một tá
‘đối tác chiến lược’ hay các ‘đối tác chiến lược toàn diện’ với Việt
Nam.
Do vậy, chuyến công du châu Phi của Trần Đại Quang chỉ có thể mang ý
nghĩa về kinh tế và thương mại chứ không có mục tiêu địa - chính trị như
cách mà ông Quang đã đi Ấn Độ và Nhật Bản vào đầu năm 2018.
Quang và Trọng
Tháng Ba năm 2018, mặc dù bị xem là ‘có vấn đề nghiêm trọng về sức
khỏe’, Trần Đại Quang vẫn thực hiện chuyến công du đến New Delhi và đã
mang về cho chính thể độc đảng ở Việt Nam thêm một ‘quan hệ đối tác
chiến lược’. Nhưng quan trọng hơn cả là vị thế địa chính trị của Ấn Độ:
quốc gia này không những là một đồng minh quân sự của Hoa Kỳ mà còn từng
cho Việt Nam vay ‘trả góp’ nửa tỷ USD viện trợ quân sự vào năm 2016.
Trong trường hợp không thể mua được hoặc chỉ mua được một ít vũ khí và
khí tài quân sự của Mỹ, Bộ Quốc phòng Việt Nam vẫn có thể tìm kiếm một
số chủng loại vũ khí thuộc thế hệ mới từ Ấn Độ.
Cũng vào tháng Ba năm 2018, nhân vật đầu đảng CSVN là Nguyễn Phú
Trọng đã rốt ráo tìm kiếm và tiến hành chuyến công du đến Pháp. Nhưng dù
đã phải chỉ đạo cho Bộ Ngoại giao Việt Nam bỏ đến hơn 4 tỷ đồng tiền
thuế của dân để đăng một bài viết lê thê của Tổng bí thư Trọng về ‘triển
vọng quan hệ Việt - Pháp’ trên trang quảng cáo của nhật báo Le Monde
của Pháp, ông Trọng vẫn không nhận được hứa hẹn nào từ Tổng thống Pháp
Emmanuel Macron về khả năng Pháp sẽ vận động Nghị viện châu Âu sớm thông
qua Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - châu Âu (EVFTA). Như vậy,
Nguyễn Phú Trọng đã thất thế một điểm đối ngoại trước Trần Đại Quang vào
đầu năm 2018.
Ngay sau chuyến đi Ấn Độ, Trần Đại Quang còn đi Nhật vào cuối tháng
Năm năm 2018. Dù được chào đón bằng 21 phát đại bác và được đón tiếp với
nghi lễ dành cho nguyên thủ quốc gia, đã được đón tiếp bởi Nhà vua
Akihito và Hoàng hậu, đã hội kiến với Chủ tịch Thượng viện Chuichi Date
và với Thủ tướng Abe, nhưng chuyến công du của Trần Đại Quang đến Nhật
Bản chỉ đạt được một kết quả nhỏ nhoi về ‘xin viện trợ’: phía Nhật cung
cấp thêm khoản viện trợ phát triển ODA cho Việt Nam trị giá 16 tỉ yên,
tương đương 142 triệu USD, cho dự án nâng cao năng lực đào tạo nghề.
Con số 16 tỷ yên trên chỉ bằng 10% số 160 tỷ yên mà Nhật Bản hỗ trợ
ODA cho Việt Nam hàng năm, trong 5 tính theo năm tài chính Nhật Bản
2012-2016, trung bình mỗi năm. Cách nào đó, kết quả của chuyến công du
‘xin tiền’ này khó mà làm cho ngân sách toang hoác chờ chực vỡ nợ của
chính thể Việt Nam được hài lòng.
Từ sau chuyến đi Pháp đến nay, Nguyễn Phú Trọng chưa đi nơi nào khác
mà ngồi nhà để ‘đốt lò’. Còn Trần Đại Quang rất có thể đang mang trên
mình sứ mạng ‘mở rộng thị trường Phi châu’.
Việt Nam muốn học bài Trung Quốc?
Tuy được xem là đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam tại châu
Phi, nhưng kim ngạch thương mại song phương năm 2016 giữa Ai Cập và Việt
Nam chỉ đạt 316 triệu USD, không là gì so với tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu hàng năm của Việt Nam khoảng hơn 400 tỷ USD.
Còn trao đổi thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Ethiopia còn èo uột hơn nhiều so với Ai Cập.
Trong khi đó theo Nhật báo Le Monde, Ethiopia là ‘biểu tượng đầu tư
của Trung Quốc ở châu Phi’. Le Monde đã từng có bài phóng sự về sự hiện
diện khắp nơi của Trung Quốc tại châu Phi, trong đó Ethiopia là biểu
tượng đặc trưng của làn sóng đầu tư ồ ạt, đặc biệt trong lĩnh vực cơ sở
hạ tầng.
Thị trường Ethiopia tràn ngập hàng Trung Quốc, từ quần áo đến đồ gia
dụng bằng nhựa hoặc thiết bị điện tử và máy móc… Nhiều nhà sản xuất
Trung Quốc đau đầu vì khối lượng hàng hóa dư thừa, giá bán rẻ, bỗng tìm
được đầu ra mới ở quốc gia châu Phi này.
Bắc Kinh được lợi rất nhiều trong chiến lược hợp tác thương mại “mất
cân đối” này. Năm 2016, Ethiopia có kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc
đạt 88,7 triệu USD, nhưng giá trị nhập khẩu lên đến 3,21 tỷ USD, chủ yếu
phục vụ các dự án hạ tầng do Eximbank tài trợ, tiếp theo là dệt may,
thuộc da hoặc dược phẩm.
Việt Nam đang muốn bắt chước Trung Quốc chăng?
Trong lịch sử buôn bán hai chiều với các quốc gia trên thế giới, Việt
Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc nhiều nhất. Từ nhiều năm qua, Trung
Quốc đã trở thành thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam,
chiếm tỉ trọng khoảng 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Hàng năm, Việt
Nam nhập siêu chính ngạch lên đến 20 - 30 tỷ USD, chưa kể phần tiểu
ngạch khoảng 20 tỷ USD nữa, tổng cộng đến 40 - 50 tỷ USD nhập siêu từ
Trung Quốc.
Vì sao Trần Đại Quang phải đi Phi châu?
Hiện tượng giới chóp bu Việt Nam phải thay nhau xuất ngoại để mở mang
thị trường xuất khẩu từ năm 2017 đến nay lại nằm trong bối cảnh Tổng
thống Mỹ Donald Trump giương cao ngọn cờ ‘công bằng và đối ứng’ - một
đòn thương mại liệt Việt Nam vào danh sách 16 quốc gia ‘gây hại cho kinh
tế Mỹ’ và đang đòi hỏi các Bộ Thương mại và Bộ Tài chính Mỹ phải thực
thi những biện pháp quyết liệt về hàng rào thuế quan thương mại đối với
hàng Việt Nam.
Vào năm 2017, Việt Nam xuất sang Mỹ lượng hàng hóa tổng giá trị 41,6
tỷ USD nhưng chỉ nhập khẩu có 9,2 tỷ USD, nâng mức thặng dư thương mại
lên con số 32,4 tỷ USD với Mỹ, gấp đến 160 lần so với giá trị xuất siêu
chỉ 200 triệu USD vào năm 2001 - thời điểm mà Việt Nam mới ký với Mỹ
Hiệp định thương mại song phương (BTA) đầu tiên.
Nhưng Trump đang rất có thể sẽ ‘san bằng thâm hụt thương mại’, tức sẽ
buộc Việt Nam phải hạ mức thâm hụt thương mại xuống mức dưới 8 tỷ
USD/năm. Theo đó Việt Nam phải tự cắt giảm mức thâm hụt thương mại trong
thời gian tới, có thể bắt đầu ngay trong năm 2018 này và sẽ phải giảm
mạnh trong năm 2019, bi kịch xuất khẩu sẽ kéo theo bi kịch kinh tế và
cũng là bi kịch ngân sách, càng khiến rệu rã chân đứng của chế độ chính
trị ở Việt Nam.
Từ năm 2017 đến giữa năm 2018 đã mở đầu bằng hàng loạt “điềm xấu”
dành cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ: Bộ Thương mại Mỹ
nâng tỷ lệ thuế đánh vào hai mặt hàng thép và tôm Việt Nam lần lượt là
53% và hơn 25%. Cộng hưởng với việc bị Liên minh châu Âu “rút thẻ vàng”
đối với hàng hải sản Việt Nam và đang lấp ló “thẻ đỏ”, kim ngạch xuất
khẩu của hải sản Việt Nam vào hai thị trường EU và Mỹ trong năm 2018
chắc chắn sẽ bị giảm sút phần nào, nếu không muốn nói là giảm đáng kể so
với doanh số năm 2017.
Còn nhớ vào đầu năm 2017 sau khi TPP gần như tan vỡ, Tổng bí thư đảng
Nguyễn Phú Trọng đã có một phát ngôn ấn tượng: “triển vọng phát triển
còn tốt lắm”.
Nhưng làm thế nào để “đất nước đi tới không gì cản nổi” - như một thể
loại “tự sướng” từng ra rả vào thời chiến tranh, trong lúc tình hình
các FTA (hiệp định thương mại tự do) của Việt Nam với đa số các nước vẫn
rơi vào tình thế bất lợi?
Cho dù Việt Nam vẫn luôn quảng cáo rằng chính thể này có đến 16 FTA,
nhưng hiện trạng các FTA vẫn ngổn ngang, nhưng chỉ có hai FTA của Việt
Nam với Mỹ và châu Âu là còn xuất siêu được - lần lượt là hơn 30 tỷ USD
và 25 tỷ USD mỗi năm. Còn thặng dư xuất siêu với Nhật bằng 0, trong khi
ngay cả Hàn Quốc, tưởng là “dễ ăn”, nhưng Việt Nam lại phải nhập siêu
đến 20 tỷ USD vào năm 2016 và gần 25 tỷ USD vào năm 2017.
Hiện tượng giới chóp bu Việt Nam phải đi tìm kiếm thị trường ở Ai Cập
và Ethiopia - những quốc gia có giá trị song phương thương mại với Việt
Nam rất nhỏ nhoi - cho thấy hàng xuất khẩu Việt Nam ra thế giới đang
ngày càng bế tắc.
Trong khi đó, EVFTA vẫn chưa đâu vào đâu. Sau khi đạt ‘thành tích’
kết thúc giai đoạn rà soát pháp lý kéo dài đến hơn 2 năm thay vì thông
thường chỉ mất 6 tháng, hiệp định này vẫn còn phải chờ đợi Ủy ban châu
Âu và Nghị viện châu Âu ký kết và thông qua.
Nhưng từ sau vụ mật vụ Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ở Đức vào
tháng Bảy năm 2017, Liên minh châu Âu đã thực sự ‘mở mắt’ trước một Việt
Nam nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ‘vô số luật nhưng chỉ dùng
Luật Rừng’. Trong bối cảnh cơn khủng hoảng ngoại giao Đức - Việt đã lan
sang Slovakia và cả một phần khối châu Âu, muốn EVFTA được ký kết và
thông qua, Việt Nam không còn cách nào khác là phải cải thiện nhân
quyền, nếu không muốn nói phải cải cách thể chế chính trị.
VOA