Con đường tổng thống chế là lựa chọn chống lại tương lai đất nước (Chu Tuấn Anh)
Nếu có anh em nhân sĩ nào đang ủng hộ tổng thống chế, tôi chỉ có thể bày tỏ sự phiền muộn và nói rằng lựa chọn của các anh hôm nay là một quyết định sai lầm, có thể hủy hoại tương lai đất nước và sẽ khiến những nỗ lực thực sự phải kéo dài hơn nữa nếu các anh thành công.
Đấu tranh chính trị cần một chiều dài về thời gian để giải quyết những vấn đề ngày càng phức tạp
Tôi viết bài viết này vào thời điểm ngày càng có nhiều ý kiến từ giới nhân sĩ – trí thức cho rằng chế độ Cộng sản Việt Nam nên chuyển hóa về một thể chế Cộng hòa tổng thống. Cá nhân tôi không có bất cứ một sự thù ghét nào dành cho tập thể nhân sĩ. Tuy nhiên, điều đó khiến tôi phải lên tiếng phản đối, và thậm chí buộc tôi phải lên án lập trường tổng thống hóa đất nước Việt Nam – vì đó là một lập trường sai và hoàn toàn tai hại cho đất nước. Tất nhiên, quần chúng với một vốn kiến thức ít ỏi về chính trị sẽ đặt ra câu hỏi: Nếu không phải chế độ tổng thống thì còn một chế độ nào khác thay thế một thể chế độc tài đảng trị hoặc độc tài tập thể? Nhưng một người trí thức phải có nhiệm vụ chống lại một lập trường sai trái ngay cả khi đó là một lập trường mạnh và đang thắng thế.
Như chúng ta đã thấy, một chế độ đa đảng chưa chắc đã phải là một chế độ đa nguyên. Một chế độ dân chủ đa nguyên thực sự cần có sự hiện diện của những đảng phái lớn mạnh, có nề nếp và có tư tưởng dân chủ. Theo kinh nghiệm đấu tranh của anh em Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, để xây dựng một đảng chính trị nghiêm túc, chúng ta cần ít nhất một vài thập kỷ để hoàn thiện một cơ sở tư tưởng, và một dự án chính trị cho một giai đoạn nắm quyền (dù là một đảng lãnh đạo, hoặc một đảng trong một liên minh lãnh đạo) để thực hiện một mục đích chính trị.
Tôi xin lấy một ví dụ về Đảng Xanh, hay Green Party, ở Đức và những nước dân chủ. Họ vốn xuất phát chỉ chiếm một thiểu số không đáng kể trong chính trị phương Tây, và không có ghế trong nghị viện do không đủ 5% phổ thông đầu phiếu. Tuy nhiên, vào năm 2018, họ đã ở vị thế của một chính đảng tham gia cầm quyền; nghĩa là dù không có tầm vóc dẫn đầu các cuộc bầu cử trong tương lai, nhưng mọi đảng cầm quyền phải liên minh với đảng Xanh để duy trì một liên minh đa số. Những ưu tư cho vấn đề môi trường ban đầu chỉ là của một thiểu số nhỏ những người cấp tiến và những nhà khoa học khi họ dần nhìn thấy mối nguy cho trái đất nếu nhiệt độ toàn cầu tiếp tục tăng. Những đảng Xanh được thành lập như một cứu cánh cho thế giới trước nhận thức rằng các hoạt động công nghiệp và phát thải của con người sẽ dẫn đến một sự thay đổi khí hậu, tạo ra một tình trạng hoàn toàn mới, buộc mọi sinh hoạt và điều kiện sống của con người phải thích nghi. Tuy nhiên, từ những thập niên 1990 cho đến gần đây, họ đã phải chờ đợi công nghệ phát triển đủ để hỗ trợ việc thực thi các chính sách bảo vệ môi trường. Khi dư luận lo ngại rằng việc từ bỏ năng lượng hóa thạch đột ngột có thể gây ra bất ổn về năng lượng, thì ngày nay, công nghệ đã giúp năng lượng tái tạo đạt được sự ổn định nhất định, có thể chiếm khoảng 30-40% tổng nguồn cung năng lượng. Đỉnh điểm là khi Nga xâm lược Ukraine, việc sử dụng khí tự nhiên từ Nga trở thành một rủi ro an ninh, khiến quá trình chuyển đổi sang năng lượng xanh trở thành một vấn đề sống còn đối với nền kinh tế và nền dân chủ. Khi đó, lập trường ủng hộ chuyển đổi xanh và chính trị ưu tiên bảo vệ môi trường mới giành được ưu thế. Sự trỗi dậy của xu hướng này phản ánh thực trạng khẩn cấp của biến đổi khí hậu.
Chúng ta cũng ngạc nhiên khi xu hướng xã hội, tức là đề cao tinh thần đoàn kết và giải quyết bất bình đẳng xã hội – một lập trường vốn dĩ đúng đắn – lại trớ trêu rơi vào giai đoạn bất ổn và phải cạnh tranh trực tiếp với các đảng có lập trường dân túy và chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Một lý do đơn giản là lập trường liên đới xã hội và bình đẳng cần một câu chuyện quốc gia và một tinh thần yêu nước để đạt được thắng lợi. Tuy nhiên, không phải đảng xã hội nào cũng có thể xây dựng được câu chuyện đó để vươn lên và giành được đa số ủng hộ.
Một điểm nhấn khác trong đời sống dân chủ là thế giới đang phát triển với tốc độ ngày càng nhanh, kéo theo những vấn đề mới ngày càng phức tạp. Ngày càng hiếm có một đảng phái chính trị quy mô lớn có thể đưa ra những quan điểm đúng đắn và lãnh đạo hiệu quả trên mọi lĩnh vực. Điều này dẫn đến sự suy giảm ảnh hưởng của các đảng truyền thống ở châu Âu, một phần do sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy, nhưng đồng thời cũng do sự xuất hiện và ủng hộ ngày càng nhiều đối với các tiếng nói khác, chẳng hạn như các phong trào bảo vệ môi trường hoặc các đảng hoạt động mạnh và giành được đa số ở cấp khu vực. Bối cảnh chính trị ngày càng trở nên phức tạp do tính chất phức tạp của các vấn đề, đến mức không một đảng phái nào trong các nền dân chủ ổn định có thể giành được đa số áp đảo. Việc liên minh trở thành một yêu cầu kỹ thuật bắt buộc để thành lập chính quyền sau mỗi cuộc bầu cử, đồng thời cũng là một nhu cầu tự nhiên của nền chính trị lương thiện, coi trọng sự hợp tác, công nhận lẫn nhau trong việc giải quyết những vấn đề phức tạp. Cũng cần nhấn mạnh rằng, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nhận thức được thực tế rằng trong giai đoạn chuyển tiếp dân chủ của Việt Nam, có thể sẽ thiếu vắng những chính đảng lớn—dù là để làm đối lập mạnh hay tham gia cầm quyền nhằm thực hiện những chính sách đúng đắn cho đất nước. Điều này xuất phát từ thực trạng phong trào chung của chúng ta phần lớn còn hời hợt và thiếu những nỗ lực nghiêm túc, chủ yếu do di sản lịch sử và sự đàn áp chính trị. Do đó, việc nỗ lực xây dựng các chính đảng cấp vùng và tổ chức chính quyền địa phương sẽ được ưu tiên, bởi đây là lĩnh vực ít phức tạp hơn và việc tổ chức chính trị không đòi hỏi quá nhiều thời gian như các hoạt động chính trị ở tầm vóc quốc gia.
Thật vậy, chúng ta cũng thấy rất nhiều vấn đề lớn của thế giới như sự sai lầm của chủ nghĩa cộng sản, vấn đề bất bình đẳng và chủ nghĩa phóng khoáng trong các nền dân chủ tư bản, vấn đề môi trường và biến đổi khí hậu… đều đã mất vài ba thập kỷ để giải quyết triệt để hoặc thậm chí để bắt đầu có đồng thuận và trở thành xu hướng chủ đạo trong chính trị. Quá trình đấu tranh chính trị đòi hỏi một chặng đường dài và sự nhìn nhận đầy đủ về tính phức tạp của chính trị. Điều này yêu cầu chính trị phải là kết quả của những nỗ lực từ một tổ chức hoặc đảng phái, chứ không thể chỉ dựa trên hình ảnh cá nhân hay lối đấu tranh mang tính cá nhân.
Những tranh cử tốn kém, mị dân và chia rẽ
Các cuộc bầu cử trong chế độ tổng thống thường có những sự tốn kém một cách quá đáng. Điển hình là trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2024, cả hai ứng cử viên đã tiêu tốn gần 5.6 tỷ đô la Mỹ; cuộc bầu cử Quốc hội cũng tiêu tốn 10.3 tỷ đô la, đưa tổng chi phí tranh cử lên mức 15.9 tỷ đô la Mỹ. Điều quá đáng là tổng chi phí đã đội lên 1.8 lần so với thời điểm năm 2016. Nhưng lý do là gì? Đó là vì các ứng cử viên đã cần phải chi trả một lượng tiền lớn cho những hoạt động quảng cáo đa phương tiện, hoạt náo quần chúng trên quy mô lớn và kéo dài tận từ 1.5 – 2 năm. Thế giới chỉ hoảng hốt trước sự hoại loạn của chế độ tổng thống Mỹ kể từ cuộc bầu cử năm 2016 giữa Donald Trump và Hillary Clinton, giữa Joe Biden và Donald Trump, và giữa Donald Trump và Kamala Harris. Nhưng nhìn lại một thống kê vào năm 2012, khi Obama và Mitt Romney tranh cử, 90% các quảng cáo đều tiêu cực, nghĩa là quảng cáo dùng để nhắm vào ứng cử viên đối thủ. Từ ngày 1/6 cho đến ngày bầu cử, có tới 64% quảng cáo được đánh giá là hoàn toàn tiêu cực, nghĩa là chỉ xoay quanh việc tấn công đối thủ mà thôi. Như vậy, số tiền đó đã không được sử dụng cho một cố gắng lương thiện – có nghĩa là cố gắng quảng bá cho những giá trị, tư tưởng, và chính sách bài bản cùng với nâng cao dân trí của cử tri trước một vấn đề. Nó chỉ dành nhiều cho sự chửi bới nhằm mị dân mà thôi. Mặt khác, điều này còn gây ra sự chia rẽ ngày càng sâu sắc trong xã hội, thúc đẩy xu hướng phân cực và sự thiếu nhìn nhận lẫn nhau. Nói đến đây, nếu dân tộc Việt Nam đã đồng thuận rằng chúng ta cần hòa giải dân tộc, thì làm sao giới trí thức Việt Nam có thể chấp nhận một thể chế chính trị đầy chia rẽ được áp dụng vào đất nước? Chúng ta chưa có dân chủ, chúng ta tụt hậu vì đã là nạn nhân của sự chia rẽ.
Đồng tiền ảnh hưởng trong chính trị
Nhưng một câu hỏi khác, ai là người tài trợ những chi phí tốn kém này? Câu trả lời là những tỷ phú và các thế lực tài phiệt. Mọi tổng thống đều phải dựa vào lực lượng này để có chi phí vận động tranh cử, và ngay cả những dân biểu trong Quốc hội. Với nhiệm kỳ ngắn ngủi chỉ hai năm, mối quan tâm chính của họ chủ yếu là duy trì mối quan hệ với các nhà tài trợ và giới tài phiệt để phục vụ cho các cuộc tranh cử—không khác gì những nhân viên marketing. Hệ quả là đồng tiền đã trở thành yếu tố quan trọng trong hoạt động chính trị tại Hoa Kỳ. Và một lẽ tất yếu, những người đã bỏ những khoản tiền khổng lồ vào các cuộc bầu cử sẽ đòi hỏi người nhận tài trợ phải thực hiện mục đích của người tài trợ, bao gồm cả những lợi ích cá nhân. Khi đồng tiền đã ảnh hưởng đến chính trị, chính trị gia bị giới tài phiệt bắt làm con tin, thì lá phiếu của người dân chẳng còn một tiếng nói nào trong chính trị cả. Thực ra đó cũng là ưu tư rất lớn mà Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã đặt ra. Nếu nhìn lại giai đoạn xây dựng và kiểm điểm phương tiện trong lộ trình 5 giai đoạn đấu tranh của chúng tôi, chúng tôi nói rõ rằng chúng tôi sẽ không chấp nhận những phương tiện không phục vụ cho dự án của chúng tôi mà chỉ phục vụ ý chí của người cung cấp phương tiện.
Chính trị Mỹ đã trở thành công cụ phục vụ cho các tập đoàn lớn và tài phiệt, giúp họ trốn tránh thuế và các nghĩa vụ xã hội mà không cần phải có một phiếu bầu nào. Trong khi đó, phần lớn phiếu bầu thuộc về người lao động và giai cấp trung lưu, nhóm chiếm đa số áp đảo trong xã hội, nhưng chính trị lại không phục vụ họ, không đảm bảo an ninh và không xóa bỏ tình trạng bấp bênh của họ. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2010, chính quyền Mỹ đã lựa chọn cứu các tập đoàn lớn “too big to fail” trước những người dân lâm vào cảnh phá sản và túng quẫn dù họ không phải thủ phạm.
Tôi là tất cả
Dù thực trạng tồi tệ là như vậy, nhưng những ứng cử viên tổng thống đều dương cao những khẩu hiệu như muốn nói: “Hãy bầu cho tôi rồi bạn sẽ có tất cả”, – If I’m elected, then everything. Như đã phân tích ở trên, các cuộc bầu cử tổng thống thường kéo dài vì các ứng cử viên thường khá mới mẻ, và quần chúng hoàn toàn mơ hồ về những chính sách và kế hoạch của họ cho đất nước. Joe Biden là một trường hợp ngoại lệ, nhưng ông chỉ thắng cử vì vào thời điểm năm 2020 người ta nhận thấy sự tệ hại của Donald Trump. Vào năm 2024, dù Trump đã có 8 năm kể từ năm 2016, người ta cũng hiểu rằng nhiệm kỳ đầu của Trump và Trump 2.0 sẽ là hai chính quyền rất khác nhau. Kamala Harris, dù có 4 năm làm phó tổng thống, nhưng không ai chắc chắn rằng nếu bà đắc cử, bà sẽ tiếp tục chính quyền của Joe Biden hay sẽ thực hiện những chính sách khác? Trong thời điểm đó, các ứng cử viên chỉ sử dụng những lời nói hoa mỹ và mị dân để giành được sự ủng hộ mà thôi. Ví dụ, đến nay, vẫn còn một lời hứa mà Donald Trump chưa bao giờ thực hiện, đó là chấm dứt chiến tranh ở Ukraine trong vòng 24 giờ. Tất nhiên, mọi tổng thống đều nói dối, nhưng Donald Trump là người nói dối thô bỉ và lộ liễu nhất.
Sự lạm dụng của nhánh hành pháp
Nhưng trong một đất nước đã phân cực của chế độ tổng thống, thì Quốc hội cũng trong một tình trạng phân cực, và đảng cầm quyền cũng chỉ hơn một vài phiếu để nắm đa số. Điều đó dẫn đến trường hợp mọi đạo luật được ban hành sẽ đều bị bế tắc, dù có thể là cần thiết nhưng bị phủ quyết vì không được đồng thuận trên một vài điểm nhỏ. Trước sự bế tắc như vậy, tổng thống thường có xu hướng lạm dụng quyền hành pháp để thông qua những gì mình đã hứa với cử tri (dù là chỉ với 50% cử tri đã bầu cho họ), như đã thấy rõ ở nhiệm kỳ thứ hai của Donald Trump, những xu hướng lạm dụng quyền hành pháp để thành lập DOGE, cắt bỏ viện trợ USAID, đàn áp báo chí, đặt ra những đạo luật thô bỉ với người nhập cư, v.v. Nhiều quyết định này bị tòa án phán xét là vi hiến, và đã dẫn đến cuộc khủng hoảng hiến định tại Hoa Kỳ (mà khủng hoảng hiến định ở đây cũng là một cuộc khủng hoảng của nền tảng dân chủ).
Thực tế thì sự lạm dụng quyền hành pháp, dù với một ý định lương thiện hay bất lương, sẽ làm suy yếu cho nền dân chủ. Chúng ta đã có những kinh nghiệm với Erdogan, Viktor Orban, Hugo Chavez. Những kẻ này đều cầm quyền bằng cách lạm dụng quyền hành pháp, triệt tiêu sự độc lập của tòa án và dẹp bỏ bảo chí độc lập (ở trường hợp của Erdogan thì hắn ta đã đập bỏ thể chế dân chủ đại nghị để thành lập tổng thống chế).
Tổng thống thực tế chẳng có tính chính đáng dân chủ nào
Tổng thống dù được bầu gần như trực tiếp bởi quần chúng thì tưởng như là có một chính đáng về dân chủ, nhưng thực tế tính chính đáng đó cũng chỉ tương đối mà thôi. Vì thường thì các chế độ tổng thống sẽ rơi vào tình trạng phân cực, và tổng thống đắc cử thường chỉ giành được một đa số vừa đủ để chiến thắng. Một nửa dân số không bầu cho họ sẽ cảm thấy mình là kẻ thất bại, và sẽ phản đối suốt trong nhiệm kỳ đó. Tổng thống cũng sẽ mời một vài “chuyên gia”, “nhà kỹ trị” tham gia tổ chức nội các hay chính phủ. Nhưng đa số những người này không thông qua bất cứ một cuộc bầu cử nào cả dù họ nắm các ghế bộ trưởng. Ngược lại, trong một nền dân chủ đại nghị, bộ trưởng trước tiên phải là dân biểu (hoặc là thông qua chiến thắng một cuộc bầu cử địa phương, hoặc là thông qua tỷ lệ đầu phiếu của đảng).
Đến đây, bạn cũng có thể phản bác lại tôi rằng thể chế Hoa Kỳ cũng không phải một dạng dân chủ trực tiếp. Họ cũng có cơ chế đại cử tri, và số phiếu phổ thông không giúp tổng thống đắc cử mà phải dựa vào số phiếu tại từng bang. Tuy nhiên, đây cũng là một phản biện thiếu thuyết phục. Cơ chế đại cử tri dường như đã lỗi thời và hầu như các đại cử tri không có quyền bỏ phiếu ngược lại với ủy quyền họ nhận được. Bầu cử Mỹ cũng đã đưa chính trị Mỹ vào một tình trạng phân cực mà kết quả bầu cử chỉ được định đoạt tại 7 bang chiến địa (con số cho đến năm 2024). Các bang còn lại hầu như không đóng một vai trò đáng kể để thay đổi cuộc bầu cử vì họ luôn bầu cho một đảng duy nhất. Mặt khác, tình trạng phân chia lại đơn vị bầu cử (gerrymandering) diễn ra một cách tràn lan nhằm thay đổi kết quả bầu cử một cách thiếu lương thiện. Vậy thì những hình thức “gián tiếp hóa” như vậy cũng có chính đáng nào đâu ngoài việc làm dân chủ yếu đi mà thôi.
Sự suy yếu của các chính đảng
Và điều quan trọng nhất chúng ta phải bàn là sự tồn tại của tổng thống chế đã làm gia tốc sự sụp đổ của các chính đảng. Tại Hoa Kỳ, không có một đảng thứ ba nào có thể tồn tại được vì tình trạng phân cực. Người ta chỉ dồn phiếu cho một trong hai bên có khả năng chiến thắng nhất.
Mỗi cuộc bầu cử tổng thống giống như một lần trưng cầu dân ý, trong đó quyền lực dân chủ được trao cho một cá nhân, thay vì một chính đảng hoặc một tổ chức chính trị. Tuy nhiên, những cá nhân thường không thể giải quyết được những vấn đề chính trị ngày càng phức tạp và thiếu sự kế thừa các ý kiến (Những chính sách đúng thường là kết quả của một cuộc thảo luận kéo dài một vài thập kỷ). Họ cũng không có một đội ngũ hay một đồng thuận nào. Một cá nhân cầm quyền, dù lương thiện, cũng thường bị cuốn vào những ưu tư giải quyết các vấn đề ngắn hạn, tình thế và cấp bách, trước khi họ lại phải bước vào một cuộc bầu cử mới đầy khốc liệt, và cũng phải dành từ 1,5 đến 2 năm cho các hoạt động tranh cử. Chính chế độ đó đã không nuôi dưỡng những nỗ lực xây dựng một dự án chính trị dài hạn và nghiêm túc để thay đổi một hoặc một tập hợp các vấn đề chính trị lớn.
Một đặc tính chứng tỏ uy tín và sự trưởng thành của một chính đảng là có một cơ sở quần chúng. Nhưng vì các chính đảng trong nền chính trị Hoa Kỳ hay một nền tổng thống chế ngày càng không có khả năng thực hiện nhiệm vụ thay đổi chính trị và thực thi một dự án lương thiện, cơ sở quần chúng của họ ngày càng mất niềm tin và xa vời với họ. Chúng ta có thể bất ngờ, nhưng cũng hiểu lý do tại sao tầng lớp lao động ngày càng tỏ ra bất mãn với Đảng Dân Chủ. Những người bảo thủ truyền thống thực tế đã bầu cho Trump chứ không phải đảng Cộng Hòa. Thực tế, cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa hiện nay đều không còn giữ được cơ sở quần chúng của mình. Nếu vì lý do nào đó mà các tài phiệt rút hết nguồn tài trợ, các đảng này sẽ tan vỡ một cách chóng vánh.
Hãy lựa chọn dân chủ đa nguyên và khước từ tổng thống chế
Đến đây, tôi sẽ không phân tích thêm nhiều về tại sao chế độ tổng thống hoại loạn và cũng sẽ không đề cập trực tiếp tại sao chế độ dân chủ đại nghị là một thể chế ổn vững hơn (điều mà đã được đề cập trong Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai). Tôi nghĩ vấn đề chúng ta cần bàn hiện nay tuyệt đối không phải là thể chế nào ưu việt hơn, mà là liệu có sự thiếu lương thiện khi khuyến khích chế độ CSVN chuyển hóa thành một dạng độc tài cá nhân (mà chế độ Tổng thống Cộng hòa là một ví dụ). Thực tế, đây không phải là một ý kiến thuần túy về việc chuyển hóa sang dân chủ, mà là việc lựa chọn mô hình tổng thống.
Chúng ta cần ý thức được rằng, giai đoạn cuối cùng của chế độ độc tài đảng trị sẽ dẫn đến sự hỗn loạn toàn diện và một tập thể độc tài không còn khả năng đưa ra quyết định chính trị. Một sự chuyển hóa rất tự nhiên là chuyển hóa về độc tài cá nhân. Điều đó cũng có nghĩa là chế độ buộc phải tiến hành thanh trừng những thành phần chống đối, hoặc ngay cả bị tình nghi là chống đối, để trao quyền lực và lợi ích từ một số đông cho một thiểu số nhỏ hơn hay một cá nhân. Đó có thể là điều Tô Lâm muốn hoặc không, nhưng chúng ta cũng hiểu rằng trước một tình trạng chế độ vẫn còn cố thủ với dân chủ như hiện tại, bất cứ ai cầm quyền cũng sẽ bị trượt theo xu hướng này. Điều đó có nghĩa là việc chuyển hóa thành độc tài cá nhân sẽ dẫn đến sự đàn áp, bắt bớ và thanh lọc một cách tàn bạo, thậm chí còn nghiêm trọng hơn các cuộc “đốt lò” chống tham nhũng dưới thời ông Nguyễn Phú Trọng. Không khí khủng bố và chia rẽ này sẽ khiến bất cứ ai trong đảng CSVN trở thành nạn nhân chính trị chỉ vì họ không chủ động tổ chức để giải tán và mở đường cho một cuộc chuyển tiếp sang dân chủ đa nguyên.
Chúng ta cũng cần nhớ rằng, kể từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền, Trung Quốc trên thực tế đã vận hành theo một dạng thể chế tổng thống về nội dung. Trước tình trạng hỗn loạn trong đảng, toàn bộ quyền lực và bộ máy đàn áp đã được trao cho Tập Cận Bình. Bạn có thể không đồng tình với quan điểm này, nhưng một điều không thể phủ nhận là về bản chất, mô hình này không khác gì tổng thống chế, bởi một cá nhân đã thâu tóm toàn bộ bộ máy quyền lực, sử dụng triệt để quyền hành pháp để trấn áp nội bộ đảng và cai trị đất nước. Tất nhiên anh em Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên cũng đã có nhiều phân tích tại sao Tập Cận Bình sẽ thất bại. Tôi tin rằng ngày thất bại đó sẽ sớm được nhìn thấy trong một vài năm tới. Cần lưu ý rằng, Tập Cận Bình đã đưa ra những giải pháp giả tạo, và thực tế là làm trầm trọng hóa vấn đề của Trung Quốc. Theo ý kiến cá nhân của tôi, có thể ngày sụp đổ của họ sẽ đến khi chế độ cảm thấy họ buộc phải tiếp tục mở rộng kênh đào mang tên Dự án dẫn nước Nam Bắc – dự án dẫn nước từ vùng thấp hơn phía Nam thuộc sông Giang Tử tới các vùng công nghiệp ở phía Bắc, tốn kém 70 tỷ đô la và chuyên trở 44,8 tỷ tấn nước hàng năm để chấm dứt tình trạng hoang hóa và thiếu nước ở phía Bắc. Điều đó sẽ đẩy miền Nam Trung Quốc vào tình trạng bất mãn tột cùng, với câu hỏi tại sao họ phải chịu đựng một công trình hủy hoại toàn bộ môi sinh và tài nguyên của mình chỉ để cứu một miền Bắc Trung Hoa—vùng lãnh thổ vốn đại diện cho chính quyền trung ương trong suốt chiều dài lịch sử đàn áp họ. Trong một vài năm kể từ khi hoàn tất và vận hành hết công suất, tình trạng bạo loạn có thể xảy ra ngay lập tức. Dù chúng ta không muốn một đế chế Trung Quốc bạo loạn, nhưng đặc tính đế chế và sự chuyển hóa về địa chính trị và các mâu thuẫn tích tụ trong Trung Quốc sẽ làm nguy cơ đó trở nên trực diện hơn bao giờ hết. “Tổng thống Tập Cận Bình” đã được trao quyền lực để đoàn kết quốc gia cộng sản, nhưng đảng cộng sản Trung Quốc (CSTQ) cũng sẽ chỉ chia rẽ hơn; và đảng CSTQ cũng không thể đoàn kết đế chế Trung Hoa đang ngày càng phân cực.
Chúng ta cũng phải nói về Gorbachev, một người thực ra tương đối lương thiện và sáng giá trong chế độ Cộng sản Liên Xô. Ông ta cũng “tổng thống hóa” chế độ Cộng Sản Liên Xô bằng cách thâu tóm quyền lực và tạo dấu ấn cá nhân để chấm dứt tình trạng chia rẽ và “cứu đảng”. Nhưng những chính sách glasnost and perestroika của ông cũng chỉ là một sự chạy rượt đuổi hay tự diễn biến về một điều gì bắt buộc phải đến. Để rồi mùa đông năm 1991, ông tuyên bố giải thể Liên Bang Xô Viết. Yeltsin là tổng thống Nga đầu tiên và cũng đã đắc cử năm 1996. Dù là đối thủ chính trị của Gorbachev, ông cũng thi hành những chính sách mở cửa và đổi mới tương tự, để rồi cũng thất bại ê chế vì giải pháp phải được đặt ở một tổ chức chính trị chứ không nằm ở một cá nhân. Các bạn có thể nhìn lại giai đoạn đó trong bài viết Chúng ta học được gì từ một cuộc chuyển hóa dân chủ thất bại tôi có viết năm 2018.
Những cá nhân như Gorbachev và Yeltsin đã biến mất và không còn ai nhớ vè họ dù họ đã từng chiến thắng một cách tuyệt đối. Nhưng đằng nào thì những người này cũng là những người cởi mở và ít hung bạo. Còn với những cá nhân bạo ngược, vẫn duy trì ý chí đàn áp trong một giai đoạn như vậy, thì có lẽ họ sẽ là nạn nhân của chính bạo lực mà họ reo rắc.
Nhưng cũng có một con đường khác không đòi hỏi những đảng viên cộng sản hay đất nước chúng ta trở thành nạn nhân đó là con đường dân chủ đa nguyên. Nghĩa là:
Tôn trọng quyền con người, cùng những quyền cơ bản của dân chủ: tự do ngôn luận, tự do ứng cử và bầu cử, tự do hội họp và biểu tình được tuyên ngôn trong Hiến pháp.
- Chúng ta chấp nhận với nhau đất nước Việt Nam cần hòa giải và chúng ta mở ra tiến trình đó. Hòa giải ở đây là hòa giải giữa các thành phần dân tộc của đất nước, và hòa giải người Việt Nam với đất nước Việt Nam. Những đảng viên đảng CSVN cũng là một thành phần trong tiến trình hòa giải đó.
- Chúng ta sẽ có những chính đảng lành mạnh. Những sinh hoạt chính trị lành mạnh cấm các chính đảng nhận tiền từ tài phiệt. Các chính đảng phải tự tài trợ trước hết bằng đóng góp của đảng viên, và cảm tình viên, những đảng có tầm vóc sẽ được tài trợ thông qua gói 1% GDP một cách minh bạch.
- Chúng ta mở ra một nền dân chủ đa nguyên chấp nhận mọi thành phần dân tộc, và tổ chức tản quyền bằng cách thành lập chính quyền vùng. Chúng ta tuyên bố từ bỏ tập quyền.
- Một thể chế dân chủ đại nghị được tổ chức hợp lý thông qua hai hình thức đơn danh và bầu cử tỷ lệ
- Những chính sách hợp lý khuyến khích tự do, sáng tạo, cùng những đầu tư hợp lý cho đất nước
Sự kiện một số nhân sĩ khuyên Tô Lâm nên đi về chế độ tổng thống thực chất là “vẽ đường cho hươu chạy” để duy trì quyền lực và lợi ích của một nhóm người trong tình trạng đất nước đang ở ngã ba đường và đang ở trong một tình trạng khẩn cấp cần được dân chủ hóa. Trước tiên, đây là một quyết định chống lại đất nước Việt Nam. Chúng ta không thể chấp nhận một thái độ trí trá, bất lương về tri thức trong tình trạng đất nước đang cần một hướng đi về dân chủ một cách quả quyết và minh bạch. Thứ hai, nếu con đường tổng thống chế được chọn, nó sẽ chỉ tạo ra thêm nhiều nạn nhân của những cuộc thanh trừng bắt buộc phải diễn ra (thực tế thì Việt Nam cũng chẳng có những người như Gorbachev hay Yeltsin cho một cuộc hạ cánh mềm). Đất nước ta đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế song song với cuộc khủng hoảng tương lai giống như cơn ác mộng đã hành hạ Gorbachev và Yeltsin. Tổng thống chế cùng với việc chấp nhận một đội “kỹ trị gia” bao gồm những nhân sĩ cũng không thể giải quyết được những vấn đề gốc rễ, vì những nhân sĩ không có những kiến thức đúng. Họ chỉ ngộ nhận họ đúng đắn mà thôi. Để đi lên từ khủng hoảng kinh tế, chúng ta cần thực thi những chính sách hòa giải dân tộc, khuyến khích kinh tế đặt trên nền tảng tư doanh, thi hành chính sách tản quyền, cùng với những đầu tư lớn cho tương lai, những giải pháp mà chỉ có một tổ chức tuyệt đối lương thiện và đã rốt ráo thảo luận mới có thể thực hiện được.
Chúng ta không còn ở trong thời đại tiền công nghiệp hóa hay giai đoạn công nghiệp than thép để nói về những biện pháp kỹ trị, những biện pháp nâng cao năng suất, “phát triển mũi nhọn”, “phát triển chọn lọc”. Một nền kinh tế dựa trên thông tin, tri thức và các giá trị vô hình đòi hỏi sự cải thiện không ngừng về dân chủ cũng như mở rộng các quyền con người. Việc đi theo con đường tổng thống hóa sẽ chỉ mở ra một kỷ nguyên mới đầy tan nát cho đất nước, trong khi tình trạng hiện tại vốn đã rất rối ren.
Một điều khiến tôi hoảng hốt là những ý kiến đó được đề ra sau khi cả thế giới nhìn thấy sự xuống cấp về dân chủ tại Hoa Kỳ. Trước nay chúng tôi nói tổng thống chế là một mô hình thất bại với ngoại lệ là Hoa Kỳ. Nhưng ngày nay chúng ta không còn một ngoại lệ Hoa Kỳ: Hoa Kỳ là một chế độ tổng thống thất bại. Và như tôi trình bày ở trên, thực tế Trung Quốc cũng là một cuộc “chuyển hóa tổng thống” thất bại. Một trường hợp cũng phải nhắc đến là Rodrigo Duterte và đất nước Philippines. Duterte sẽ phải đối mặt với tòa án quốc tế và có thể chịu án tù vì những hành vi tàn bạo và vô học của mình. Đây là bi kịch của một cá nhân hung bạo, không có kiến thức chính trị nhưng lại vô tình đắc cử tổng thống. Philippines sẽ đối diện với một tương lai bất ổn và thiếu rõ ràng nhất trong số các quốc gia dân chủ ở Đông Nam Á, vì họ đã lựa chọn mô hình tổng thống toàn quyền và áp dụng triệt để hệ thống của Hoa Kỳ. Nói đến đây, Tô Lâm và những đảng viên trong đảng CSVN phải ý thức được rằng, họ (những người kêu gọi chế độ tổng thống) đang vẽ đường cho các vị đi vào những bi kịch lớn nhất của đất nước và cuộc đời của các vị nếu các vị thực sự nghe và làm theo.
Chúng tôi, bằng mọi lương tri và tình yêu nước, kêu gọi đất nước Việt Nam đoạn tuyệt với những lời kêu gọi đi về tổng thống chế. Chúng ta cần quả quyết đi trên con đường dân chủ đa nguyên để đất nước chúng ta có một tương lai đáng kể trong Kỷ Nguyên mới. Tôi cũng từng chia sẻ với anh em rằng, chúng tôi đấu tranh cho dự án Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai, không phải một dự án chính trị nào khác. Đó là một dự án vô cùng tham vọng, và với những cố gắng đúng nghĩa, chúng ta sẽ bước vào một tương lai mới và sẽ có những thành tựu và chỗ đứng trong một vài thập kỷ. Tuy nhiên, điều đó chỉ được đảm bảo nếu hôm nay chúng ta đang đi theo con đường dân chủ đa nguyên. Nếu con đường tổng thống chế được lựa chọn, tôi vẫn sẽ đấu tranh vì anh em chúng tôi, Trần Khắc Đức và Quách Gia Khang, sẽ không từ bỏ đất nước. Nhưng có lẽ đó cũng sẽ là một tương lai hết sức khiêm tốn và mong manh. Tôi không thù ghét anh em nhân sĩ, ngược lại, tôi còn dành cho họ tình cảm đồng bào và sự cảm mến. Tuy nhiên, nếu có anh em nhân sĩ nào đang ủng hộ tổng thống chế, tôi chỉ có thể bày tỏ sự phiền muộn và nói rằng lựa chọn của các anh hôm nay là một quyết định sai lầm, có thể hủy hoại tương lai đất nước và sẽ khiến những nỗ lực thực sự phải kéo dài hơn nữa nếu các anh thành công.
Chu Tuấn Anh
(02/04/2025)