Mậu Thân 1968, giải mã một nghịch lý lịch sử (Nguyễn Gia Kiểng)
Nếu những người cầm đầu chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào thời
điểm Mậu Thân 1968 không quá tồi, nếu Westmoreland không kém như vậy, nếu
Lyndon Johnson không hoảng hốt? Chỉ cần một trong ba lý do đó vắng mặt thì hậu
quả của cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân đã khác hẳn và lịch sử Việt Nam cũng sẽ
khác hẳn.
50 năm sau cuộc tổng tấn công đẫm máu của quân đội công sản vào các
thành phố và thị xã miền Nam Việt Nam một câu hỏi dần dần lấn át tất cả những
câu hỏi khác: tại sao một thảm bại quân
sự cho Đảng Cộng Sản Việt Nam đã có thể biến thành một thắng lợi chính trị
quyết định cho họ? Câu hỏi này chứng tỏ rằng ngày nay người ta đã biết khá
rõ nhiều sự thực về biến cố lịch sử này và càng biết nhiều hơn càng thấy nó khó
hiểu.
Một thảm bại quân sự
Cuộc tổng công kích
Tết Mậu Thân 1968 nhiều khi được mô tả là gồm ba đợt: đợt 1 vào dịp Tết Mậu
Thân, đợt 2 vào tháng 5 và đợt 3 vào tháng 8. Tuy vậy người dân miền Nam vẫn
gọi chung biến cố này là "cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân" bởi vì nó
đã chủ yếu diễn ra trong dịp Tết. Đợt 2 yếu hơn hẳn và đợt 3 không đáng kể.
Ngày nay ít ai còn
ngờ vực rằng nó đã là một thất bại quân sự thê thảm cho phe cộng sản. Các số
liệu mà chính quyền cộng sản đưa ra chẳng có gì đáng tin khi có hại cho họ. Thí
dụ như cuộc Cải Cách Ruộng Đất năm 1955 tại miền Bắc. Chính quyền cộng sản, khi
nhìn nhận sai lầm, đã đưa ra những con số nạn nhân 10.000 hay 15.000 để rồi hơn
một nửa thế kỷ sau cố giáo sư Đặng Phong sau một khảo cứu công phu đã tìm ra
con số nạn nhân chính xác 172.008 người. Trong trận Mậu Thân 1968 Đảng Cộng
Sản, một năm sau, đưa ra con số "43.000 chiến sĩ hy sinh", một con số
vớ vẩn vì quân đội Việt Nam Cộng Hòa cho biết đã thu lượm được 75.000 xác chết
cộng quân bị bỏ lại trên chiến trường, còn quân đội Mỹ cũng cho biết đã đếm được
58.000 xác.
Vào khoảng năm 1970
(hay 1971?) tôi có gặp ông Mai Văn Sổ một cán bộ hậu cần của quân đội cộng sản
trong trận chiến này. Ông là em song thai của ông Mai Văn Bộ đại sứ của chính
quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Pháp vào lúc đó. Hình như ông mang quân hàm
thượng tá lúc ra đầu thú và được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đưa sang Paris
trong mục đích giải độc tuyên truyền của phe cộng sản. Ông Mai Văn Sổ đã gây
tiếng vang lớn trong làng báo Pháp giữa lúc hội nghị Paris đang diễn ra và
người anh song thai của ông đang vừa là đại sứ vừa là thành viên phái đoàn Hà
Nội. Trong trao đổi riêng tư với anh em chúng tôi ông Sổ nói một cách vắn tắt:
"quân đội cộng sản đã tan tành".
Ông cho biết hầu hết các tiểu đoàn hay trung đoàn chỉ còn lại vài người. Ông
cũng nói thêm rằng số người thiệt mạng trên chiến trường chỉ là thiểu số, đa số
đã chết vì thương tích sau đó. Cũng lớn không kém là số người ra đầu thú mà
chính quyền miền Nam gọi là "hồi chính" (trở về với chính nghĩa),
nhiều đến nỗi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa phải lập một bộ mang tên Bộ Dân Vận
và Chiêu Hồi.
Năm 1995 chính
quyền cộng sản đã điều chỉnh lại con số thương vong của họ trong dịp Tết Mậu
Thân: 111.306 người. Con số này coi có vẻ chính xác như là kết quả của một
nghiên cứu nghiêm chỉnh nhưng nó cũng vẫn rất xa sự thực. Các tài liệu của đảng
cộng sản cũng như của Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ cho thấy là Hà Nội đã gửi vào
miền Nam cho chiến dịch này hơn 200.000 quân chính quy và gần 300.000 tấn vũ
khí và đạn dược, chủ yếu bằng đường biển, qua cảng Sihanoukville của Campuchia.
Phối hợp với quân có sẵn tại miền Nam, lực lượng cộng sản vào thời điểm Tết Mậu
Thân là trên 500.000 người. Một tài liệu của cơ quan tình báo CIA Mỹ ước lượng
tổng số quân cộng sản lúc đó là khoảng 600.000 người. Cuối năm 1968 lực lượng
này sau những thương vong và hồi chính chỉ còn lại khoảng 200.000 với hàng ngũ
rã rượi và tinh thần suy sụp.
Sau này, từ năm
1979 đến cuối năm 1982, sau khi đi tù về và trước khi đi Pháp, tôi đã có dịp
trao đổi với nhiều người cộng sản có vai trò chỉ huy trong chiến dịch này, tất
cả đều nói là thiệt hại rất nặng, một số còn nói thẳng rằng lực lượng cộng sản "không còn gì". Thiệt hại về
phía Việt Nam Cộng Hòa trong trận đánh vào vào dịp Tết là gần 5000 người (con
số chính xác là 4954) và gần 16.000 người bị thương. Phía quân đội Mỹ có 3895
người thiệt mạng và khoảng 19.000 người
bị thương. Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa hình như chỉ coi trận Tết Mậu Thân là vào
dịp Tết nên không có những con số cho đợt 2 và đợt 3, chỉ có thống kê thiệt hại
cho cả năm 1968 theo đó quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã có 28.800 người thiệt
mạng, quân đội Mỹ và đồng minh 16.000 người.
So sánh những thiệt
hại của đôi bên và nhìn vào tình trạng kiệt quệ của quân cộng sản sau năm 1968
thỉ phải nói Trận Tết Mâu Thân đã là một thảm bại cho phe cộng sản. Mặc dù phía
Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh hoàn toàn bị bất ngờ nhưng lực lượng hai bên quá
chênh lệch. 500.000 quân cộng sản phải đương đầu với gần 800.000 quân Việt Nam
Cộng Hòa, 500.000 quân Mỹ và 50.000 quân Hàn Quốc. Hơn nữa các đội quân cộng
sản đến từ miền Bắc lại không biết địa hình, nhiều khi đi lạc rồi bị tiêu diệt.
Bộ chỉ huy cộng sản hy vọng rất nhiều ờ hai vũ khí mới: khẩu pháo cầm tay B40
và nhất là khẩu trung liên cá nhân AK47. Quả nhiên hai vũ khí này đã gây bất
ngờ rất lớn nhưng sau phút bỡ ngỡ ban đầu chúng đã bất lực trước các trực thăng
và xe bọc thép. Hy vọng nhân dân sẽ nổi
dậy ủng hộ lực lượng cộng sản lại càng não nề. Nhân dân miền Nam đã không hưởng
ứng mà còn thù ghét, nhất là khi họ được biết những vụ tàn sát dã man người dân
vô tội, đặc biệt là vụ thảm sát tại Huế trong đó khoảng 6.000 người, kể cả phụ
nữ và trẻ em, đã bị giết, nhiều khi bằng cách chôn sống. Ngày nay khi nhìn lại
biến cố Tết Mâu Thân không ai có thể chối cãi rằng đó đã là một thảm bại cho
phe cộng sản cả về quân sự lẫn nhân tâm. Khách quan mà nói đây là một hành động
tự sát.
Lý do của một liều lĩnh tự sát
Tại sao ban lãnh
đạo cộng sản lại lấy quyết định tự sát này?
Từ sau hội nghị
Geneve chia cắt đất nước Đảng Cộng Sản vì nhiều lý do vẫn cho rằng họ đương
nhiên phải thôn tính miền Nam. Họ hy vọng ở cuộc tổng tuyển cử được lập lờ dự
trù năm 1956 trong bản tuyên bố chung cùng với hiệp định Genève. Nhưng khi
chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra sáu điều kiện để đảm bảo cuộc tuyển cử sẽ được
thực hiện một cách lương thiện và được đa số các quốc gia trên thế giới ủng hộ
thì họ thất vọng. Thất vọng trở thành tuyệt vọng khi, năm 1957, chính Liên Xô
đề nghị hoãn vô hạn định cuộc tổng tuyển cử này và cho cả hai nhà nước Nam và
Bắc Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc. Hy vọng ở cuộc tổng tuyển cử tiêu tan,
chỉ còn lại giải pháp chiến tranh. Không phải cấp lãnh đạo cộng sản nào cũng
nhiệt tình với giải pháp này nhưng không ai dám công khai chống lại bởi vì đồng
thuận chính thức trong Đảng Cộng Sản lúc đó là phải thống nhất đất nước bằng mọi
giá.
Hậu quả của chọn
lựa chiến tranh là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ nắm được thế áp đảo vì là hai người
hiểu biết nhất về miền Nam và từng chỉ huy lực lượng cộng sản tại đây trong cuộc chiến 1945 – 1954. Cặp bài trùng này kết nạp được Nguyễn Chí
Thanh và dần dần gạt ra ngoài lề Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng,
Hoàng Văn Hoan và một phần nào đó cả Hồ Chí Minh. Chiến tranh càng khốc liệt
thì thế lực của họ càng mạnh và sau cuộc thanh trừng nhóm bị gọi là "bọn
xét lại chống đảng" thì quyền lực của họ trở thành tuyệt đối. Lê Duẩn trở
thành bí thư thứ nhất và cùng với Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức và xây dựng
đảng, kiểm soát quyền lực trung ương trong khi Nguyễn Chí Thanh chỉ huy cuộc
chiến trong Nam.
Tuy nhiên sau khi
Mỹ ào ạt đổ quân vào miền Nam, oanh tạc miền Bắc và gây thiệt hại nặng nề cho
quân cộng sản trong nhiều trận đánh lớn thì hy vọng chiến thắng tiêu tan và
quyền lực của bộ ba Duẩn , Thọ, Thanh bị đe dọa. Xuống thang trong chiến tranh
đồng nghĩa với sự đào thải của họ. Bộ ba này vì vậy phải tìm một giải pháp để
tự cứu. Giải pháp đó chính là cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân. Mục đích của
chiến dịch này là đổ toàn lực để đánh một trận liều lĩnh, chấp nhận những thiệt
hại lớn hầu gây một chấn động thật lớn buộc Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa phải chấp
nhận thương thuyết rồi từ đó chuyển sang chiến lược "vừa đánh vừa
đàm" dựa vào dư luận thế giới đang khá thuận lợi lúc đó để hy vọng một lối
thoát ít nhất không quá bẽ bàng. Nói chung chiến dịch này trước hết nhắm cứu
nguy quyền lực đang bị đe dọa của bộ ba Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí
Thanh. Tháng 6-1967 Nguyễn Chí Thanh ra Bắc họp để bàn kế hoạch nhưng đến nơi
không bao lâu thì bất ngờ bị đột quỵ và chết. Cuộc họp vẫn tiếp tục, kế hoạch
tổng tấn công trong dịp Tết Mậu Thân vẫn được duy trì với Khe Sanh, một huyện
lỵ thuộc Quảng Trị nằm sát biên giới Lào, được chọn làm điểm tấn công đầu tiên
với mục đích đánh lạc sự chú ý, làm cho phía Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa tưởng rằng
Hà Nội chỉ tập trung đánh Khe Sanh và muốn biến Khe Sanh thành một trận Điện Biên
Phủ mới. Về điểm này thì Hà Nội đã thành công, Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa quả
nhiên đã tin là Hà Nội đã tập trung toàn lực vào Khe Sanh và vì thế càng tin
tưởng phần còn lại của miền Nam, nhất là các tỉnh phía Nam có thể yên tâm đón
Tết Mậu Thân, vả lại hai bên lại đã có thỏa thuận hưu chiến trong dịp Tết.
Đối với Việt Nam
Cộng Hòa bất ngờ đã hoàn toàn. Cũng bất ngờ không kém là số quân cộng sản được
tung vào trận đánh, gần như toàn bộ lực lượng hơn 500.000 người với hai vũ khí
lần đâu tiên xuất hiện B40 và AK47. Tuy vậy Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cũng phải
biết trước rằng cuộc tổng tấn công này sẽ thất bại bởi vì muốn tấn công, dù là
tấn công bất ngờ, phải có lực lượng mạnh hơn hẳn đối phương, trong khi lực
lượng hai bên quá chênh lệch theo thế bất lợi cho họ. Điều cũng làm họ hoàn
toàn thất vọng là nhân dân miền Nam đã không hề hưởng ứng lời kêu gọi nổi dậy
của họ. Sau một tháng lực lượng cộng sản không chỉ bị đẩy lui mà còn bị đánh
tan tành, với những tổn thất kinh khủng. Sau khi thu thập tàn quân họ đã cố gắng
mở một đợt tấn công thứ hai vào tháng 5 nhưng chỉ chịu thêm những thiệt hại vì
lần này yếu tố bất ngờ không còn nữa.
Tóm lại vụ tổng tấn
công Tết Mậu Thân chỉ là một hành động tuyệt vọng của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ
trong thế nguy ngập. Họ chấp nhận để quân cộng sản trả giá rất đắt với hy vọng
là nhờ đó có thể giữ được quyền lực. Chính họ cũng không ngờ tình hình lại diễn
biến một cách khác hẳn.
Giữa lúc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đang
tan nát
Cuộc tổng tấn công
Tết Mâu Thân đã là một khúc quanh lịch sử đưa đến sự sụp đổ của chế độ Việt Nam
Cộng Hòa và thắng lợi của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Câu hỏi vẫn còn nhức nhối cho
nhiều người là "tại sao đối với Đảng
Cộng Sản một thảm bại về quân sự lại có thể biến thành một thắng lợi quyết định
về chính trị?" Hay "tại sao
chế độ Việt Nam Cộng Hòa lại có thể để một thảm bại của đối phương biến thành
một đòn chí mạng cho chính mình?"
Phải nói rằng chế
độ Việt Nam Cộng Hòa vào lúc đó đang ở trong một tình trạng cực kỳ tồi tệ. Sự
sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm, tháng 11-1963, đã mở ra một giai đoạn hỗn
loạn trong đó các tướng tá bất tài, vô học và vô trách nhiệm thi nhau tranh
giành quyền lực trong lúc các sư sãi, mà thành phần chủ động là những cán bộ
cộng sản trá hình, xuống đường hàng ngày gây rối loạn. Một nhân vật nói lên
tình trạng của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó: Nguyễn Khánh. Ông này là
một sĩ quan của quân đội Pháp để lại –như tất cả các tướng lãnh Việt Nam Cộng
Hòa- đã đảo chính lật đổ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng của nhóm Dương Văn Minh,
Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính ba tháng sau khi họ lật đổ Ngô Đình
Diệm. Ông Khánh hành động như một kịch sĩ, liên tục đưa ra những lời tuyên bố
và sáng kiến nhảm nhí chỉ có tác dụng là làm cho tình hình rối loạn thêm. Sau
này vào tuổi gần 80, tại Mỹ, ông còn nhận lời làm "quốc trưởng" cho
trò hề chính phủ lưu vong của Nguyễn Hữu Chánh. Sự kiện một con người như vậy
mà đã có thể thao túng chính trường miền Nam trong hơn một năm chứng tỏ chính
quyền miền Nam lúc đó tan nát đến mức nào.
Từ tháng 6-1965
tình hình tương đối ổn định hơn với Hội Đồng Quân Lực cầm quyền trong đó tướng
Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (quốc trưởng) và Nguyễn
Cao Kỳ làm chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (thủ tướng) nhưng vì cả hai
người này đều không có uy tín nên bộ máy chính quyền vẫn chao đảo, miền Trung
gần như bất phục tùng trung ương trong gần nửa năm trời. Ngay sau đó lại xẩy ra
sự đấu đá ngay giữa Thiệu và Kỳ để tranh nhau ứng cử tổng thống cuối năm 1967.
Kết quả là Nguyễn Cao Kỳ, mầu mè và phô trương, dù nhiều quyền hơn và phe đảng
đông hơn phải nhượng bộ nhận ứng cử phó tổng thống cho Nguyễn Văn Thiệu, mờ
nhạt và thiển cận nhưng ít tai tiếng và được lòng Mỹ hơn. Tuy vậy vào thời điểm
Tết Mậu Thân quyền hành của Kỳ vẫn còn mạnh hơn Thiệu, hai người chia đôi Dinh
Độc Lập với mỗi người một bô tham mưu riêng.
Một hậu quả của sự
tan nát của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là bộ máy an ninh tình báo bị tê
liệt. Sự kiện chính quyền Việt Nam Cộng Hòa không hề biết tới cuộc tổng tấn
công Tết Mậu Thân chỉ giản dị là không tưởng tượng nổi. Nó đã được chuẩn bị từ
hơn nửa năm trước, Hà Nội đã gửi vào Nam hơn 200.000 quân chính quy và hơn
300.000 tấn vũ khí, hơn nữa còn dàn quân chung quanh, thậm chí xâm nhập, gần
như tất cả các thành phố và thị xã trên khắp lãnh thổ. Vào lúc súng bắt đầu nổ
Nguyễn Văn Thiệu đang về quê ăn Tết, còn Nguyễn Cao Kỳ đang đánh bài. Tất cả
những điều này đều khó tưởng tượng, nhưng điều còn khó tưởng tượng hơn là những
gì xẩy ra sau đó. Nha Trang và sau đó Đà Nẵng bị tấn công đầu tiên. Sài Gòn chỉ
bị tấn công một ngày sau nhưng vẫn không chuẩn bị gì cả. Huế còn chỉ bị tấn
công sau Sài Gòn 4 giờ nhưng cũng không đề phòng và quân cộng sản đã chiếm được
thành phố mà không găp một chống cự nào.
Trong lịch sử cận
đại không có trận chiến nào diễn ra một cách kỳ cục như vậy. Càng khó tưởng
tượng khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó là một chính quyền quân đội đặt
an ninh lên trên hết và có đầy đủ phương tiện truyền thông hiện đại. Nếu có một
chút danh dự của một người làm tướng thì cả Thiệu lẫn Kỳ đều phải tự xử sau sự
kiện ô nhục này, nhưng họ chỉ biết tự mãn chứ không có danh dự. Các cấp lãnh
đạo và tướng lãnh của Việt Nam Cộng Hòa cũng không khác họ bao nhiêu, không
thấy ai tỏ ra xấu hổ. Không phải là phe cộng sản đã hành quân khéo và giữ bí mật
giỏi, họ hành quân rất luộm thuộc, sai cả giờ phát động vì lẫn lộn lịch tầu và
lịch ta. Vấn đề chỉ là chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó quá tồi dở. Bộ máy
hành chính cũng như quân sự có nhiều người rất tốt, rất dũng cảm và rất giỏi
nhưng lãnh đạo quá tồi nên cũng giống như một cơ thể cường tráng nhưng cái đầu
không hoạt động.
Điều cũng tai hại
không kém sự kiện để bị đánh bất ngờ là không khai thác được sự thảm bại về mặt
quân sự cũng như dân vận và nhất là những tội ác của quân cộng sản như cuộc
thảm sát tại Huế. Lúc đó mọi đèn chiếu và mọi con mắt của thế giới hướng về Sài
Gòn chính quyền Việt Nam Cộng Hòa được một dịp ngàn năm một thuở để chinh phục
cảm tình và hậu thuẫn của thế giới nhưng lại không có gì để nói, không những
thế còn nói ngu, như Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố coi Hitler là thần tượng.
Lý do chính là Lyndon Johnson
Sự tồi dở của chính
quyền Thiệu Kỳ quả là đã vượt mọi tưởng tượng, nhưng nếu chỉ có thế thì biến cố
Tết Mậu Thân cũng sẽ chỉ là một tai họa cho cặp Lê Duẩn - Lê Đức Thọ và chính
quyền Hà Nội. Người đã góp phần quyết định chuyển bại thành thắng cho ĐCSVN là
Lyndon Johnson. Ông này là một tay hoạt đầu chính trị địa phương với kiến thức
hạn hẹp, hoàn toàn không có một tư tưởng chính trị và một tầm vóc chính trị
nào. Ông thăng tiến nhờ tính thực thà tận tụy và nhờ may mắn, sau cùng trở
thành tổng thống vì một sự tình cờ: tổng thống Kennedy bị ám sát. Do bản chất
của chế độ tổng thống trong đó các chính đảng không đủ mạnh để đảm nhiệm vai
trò của một lò sản xuất ý kiến và đào tạo nhân tài, sau những tổng thống kiệt
xuất đầu tiên, các tổng thống Mỹ thường không phải là những người có bản lãnh
chính trị, nhưng Lyndon Johnson là một trong những tổng thống kém nhất.
Sau vụ Tết Mậu Thân
thái độ của ông là thái độ của một người hoảng hốt bỏ chạy. Ngày 31/3, ngay khi
cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân của quân cộng sản còn đang gây sôi nổi trên
khắp thế giới, ông tuyên bố chấp nhận thương tuyết song phương với Hà Nội và
chỉ cho Việt Nam Cộng Hòa tham dự với tư cách quan sát viên đúng như đòi hỏi
của Hà Nội. Ông cũng tuyên bố sẽ không ra ứng cử tổng thống nữa. Quyết định này
tương đương với một lời thú nhận đã sai lầm và thất bại bởi vì mới một năm
trước tại Hội Nghị Quân Sự Tối Cao tại Guam với hai tướng Thiệu và Kỳ ông đã
dõng dạc tuyên bố cương quyết giúp Việt Nam Cộng Hòa đánh bại cuộc xâm lược của
cộng sản và ông không ngừng nhắc lại cam kết này cho đến ngay trước Tết Mậu
Thân. Chính Hà Nội cũng không thể ngờ tổng thống Mỹ có thể hốt hoảng như thế
ngay cả nếu cuộc tổng tấn công không thất bại thê thảm như nó đã thực sự diễn
ra. Thái độ hoảng hốt bỏ chạy của Johnson đã có ảnh hưởng tức khắc trên quần
chúng Mỹ. Ngay sau đó các cuộc thăm dò dư luận cho thấy 80% người Mỹ muốn rút
khỏi Việt Nam. Các nghị sĩ và dân biểu Mỹ trong tuyệt đại đa số là những người
chạy theo chứ không thách thức dư luận. Họ còn một lý do khác để không thách
thức dư luận. Quan tâm hàng đầu của Mỹ khi can thiệp vào Việt Nam là bảo vệ lưu
thông qua eo biển Malacca giữa Malaysia, Singapore và Indonesia nơi quá phân
nửa hàng hóa của thương mại quốc tế được chuyển qua nhưng từ năm 1965 Indonesia
đã tiêu diệt hết lực lượng cộng sản trong khi an ninh của Malaysia và Singapore
cũng không còn bị đe dọa nữa. Như thế số phận của Việt Nam Cộng Hòa đã được
quyết định.
Westmoreland đã làm Johnson hoảng hốt
Nhưng tại sao
Johnson lại hốt hoảng đến như thế?
Lý do đầu tiên là
cách ứng xử của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Johnson không phải là một chính
trị gia có bản lãnh và hiểu biết rất ít về thế giới nói chung và Châu Á nói
riêng, ông chỉ phán đoán như một người Mỹ bình thường qua những sự kiện khách
quan, và sự kiện khách quan không thể tưởng tượng được là chính quyền Thiệu Kỳ
lại có thể không biết gì về một cuộc tổng tấn công lớn như vậy. Trong thâm tâm
ông phải nghĩ rằng chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là một bọn vô dụng không đáng
giúp đỡ và có giúp cũng vô ích. Cũng đừng nên quên rằng từ sau khi lật đổ chính
quyền Ngô Đình Diệm các tướng tá Việt Nam Cộng Hòa đã làm tất cả để dư luận thế
giới khinh thường.
Tuy vậy Việt Nam
Cộng Hòa không phải là lý do chính khiến. Lý do chính là Westmoreland, tư lệnh
quân đội Mỹ tại Việt Nam. Westmoreland đã tỏ ra rất dở trong biến cố Tết Mậu
Thân. Trước hết ông mắc lừa trận đánh hỏa mù Khe Sanh. Ông thực sự tin là Hà
Nội chỉ muốn đánh lớn ở Khe Sanh. Sau khi cuộc tổng tấn công nổ ra ông vẫn
tuyên bố rằng đó chỉ là một cố gắng để lôi kéo sự chú ý của Mỹ và Đồng Minh
khỏi Khe Sanh. Đây là một sai lầm rất nghiêm trọng nơi một vị tướng chỉ huy
500.000 quân. Nhưng sai lầm lớn hơn nhiều của Westmoreland là đã xin tổng thống
Johnson viện trợ thêm 206.000 quân sau đó. Ông không thấy rằng quân cộng sản đã
thảm bại. Đối với Johnson việc Westmoreland xin viện binh là bằng cớ rằng Mỹ và
Việt Nam Cộng Hòa đã thất bại. Và ông hốt hoảng bỏ chạy.
Thử tưởng tượng
điều gì sẽ xẩy ra nếu thay vì xin tiếp viện thêm 206.000 quân Westmoreland báo
cáo với tổng thống Mỹ rằng quân cộng sản vừa làm hành động tự sát, lực lượng
của họ đã tan tành và Mỹ có thể rút bớt 200.000 quân, lực lượng còn lại cũng
thừa sức giúp Việt Nam Cộng Hòa đánh bại cộng sản. Đây không phải là chính trị
giả tưởng mà là sự thực bởi vì ngay sau đó Nixon liên tục rút quân nhưng vào
tháng 01/1973 khi hiệp định Paris được ký kết quân cộng sản chỉ giữ được một
huyện Sa Huỳnh trên tổng số 245 quận huyện của miền Nam, dù lúc đó quân Mỹ đã
rút gần hết. Nhưng lúc đó quyết định bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa không đảo ngược
được nữa, như cựu ngoại trưởng John Kerry sau này từng tuyên bố.
Cũng thử tưởng
tượng nếu thay vì về quê ăn Tết như ông Thiệu hay đánh bài như ông Kỳ, các cấp
lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa lập tức có mặt chỉ huy cuộc phản công và đến hiện
trường thăm hỏi dân chúng và khích lệ quân lính. Hay ngay cả có lỡ để bị bất
ngờ -điều cần nhắc lại là không thể tha thứ được- nhưng sau đó có thái độ xứng
đáng, có lập luận thuyết phục để khẳng định lòng tin và lên án những tội ác của
quân cộng sản tại Huế và nhiều nơi khác. Nếu như thế thì Lyndon Johnson đã
không quá hốt hoảng. Nhưng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và những người cầm
đầu chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã chỉ là chính họ. Đã chỉ có Nguyễn Ngọc
Loan làm cử chỉ côn đồ tự tay bắn chết một du kích vừa bị bắt ngay trước ống
kính của một ký giả nước ngoài. Hình này được trưng ra trước cả thế giới và làm
xấu thêm hình ảnh vốn đã xấu của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Cũng cần nói thêm là
Nguyễn Văn Thiệu chắc chắn không ý thức được sự nguy ngập của chế độ sau biến
cố Mậu Thân vì sau đó ông còn giở trò độc diễn trong cuộc bầu cử tổng thống
1971 làm danh nghĩa dân chủ của Việt Nam Cộng Hòa mất hết nội dung. Không những
thế năm 1973, hai năm trước khi bỏ chạy, ông còn sửa đổi hiến pháp để có thể
ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa.
Hậu quả đã có thể rất khác
Nếu những người cầm
đầu chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào thời điểm Mậu Thân không quá tồi, nếu
Westmoreland không kém như vậy, nếu Lyndon Johnson không hoảng hốt? Chỉ cần một
trong ba lý do đó vắng mặt thì hậu quả của cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân đã
khác hẳn và lịch sử Việt Nam cũng sẽ khác hẳn. Thực tế là, về phía Hà Nội, một
chọn lựa liều lĩnh ngu xuẩn đã đưa đến một thảm bại quân sự làm hàng trăm ngàn
người chết nhưng rồi lại biến thành một thắng lợi chính trị và sau cùng một
thắng lợi toàn diện. Ngược lại, về phía Sài Gòn, một thắng lợi quân sự lớn đã
biến thành một thảm bại chính trị và sau cùng một thất bại hoàn toàn. Kẻ thắng
không xứng đáng để thắng nhưng kẻ thua lại rất xứng đáng để thua. Và Việt Nam đã
là Việt Nam hiện nay. Số phận nước ta thật hẩm hiu.
Bài học nào?
Người Việt Nam
không chọn được Johnson và Westmoreland, nhưng còn hai chế độ cộng sản và Việt
Nam Cộng Hòa? Những người miền Bắc đã để cho Đảng Cộng Sản thống trị và Đảng
Cộng Sản đã để cho một nhóm người thiển cận và độc hại chung quanh Lê Duẩn và
Lê Đức Thọ thống trị, trong khi những người miền Nam đã để cho những người
chẳng ra gì như Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ dẫn vào vực thẳm. Khi một dân
tộc không có một lớp trí thức chính trị thì tất cả đều có thể xẩy ra. Đó là bài
học lớn nhất của biến cố Mậu Thân 1968 và của giai đoạn lịch sử gần đây.
Một lời sau cùng
cho bên thắng cuộc.
Chiến thắng
30/4/1975, hậu quả của biến cố Mậu Thân 1968, đã làm cho nhóm Lê Duẩn – Lê Đức
Thọ say sưa đến mất trí. Họ tưởng họ là thiên tài và anh hùng dân tộc. Họ nghĩ
họ đã rất may mắn. Nhưng lịch sử có logic của nó. Họ đã chỉ được một cơ hội để
chứng tỏ sự tồi dở và sẽ mãi mãi được các thế hệ mai sau nhớ đến như những tai
họa. Sau cùng chính họ mới là những người không may nhất.
Nguyễn Gia Kiểng
(15/02/2018, Giao
thừa Mậu Tuất)