Nỗi buồn Tháng 8 (Nguyễn Thượng Long)
Tôi nghĩ rằng nếu như chính trường Việt Nam ngay từ những ngày tháng
8-1945 trở đi được vận hành bởi những những tập thể có những dự án chính
trị trong sáng, những chính khách lương thiện đủ tâm đức và tài năng
lèo lái dân tộc tránh được 2 cuộc đổ máu 1945-1954 và 1955-1975 khủng
khiếp nhất trong lịch sử 4000 năm mà vẫn đi đến được độc lập như hơn 40
nước cùng cảnh ngộ thuộc địa thì đến nay, nếu Việt Nam không ngang hàng
với Nhật Bản thì cũng không phải tủi phận ở vị trí đội sổ Asean đang bị
Lào và Campuchia qua mặt và bị kẻ cuồng bạo phương Bắc không ngừng cưỡng
bức như hiện nay. (Nguyễn Thượng Long)
Tháng 8-1945... Bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên & sự ra đời của Đế quốc Việt Nam
Có quá nhiều người Việt Nam hôm nay không hề biết rằng, 5 tháng trước
ngày ông Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại quảng trường Ba Đình 2-9-1945, thì đất
nước đau khổ của chúng ta đã có bản Tuyên Ngôn độc lập đầu tiên với thế
giới rồi. Đó là bản Tuyên Ngôn của Hoàng Đế Bảo Đại sau khi nhà vua
tuyên hủy Hiệp Ước Patenotre. Vua Bảo Đại đã chuẩn y để các Thượng Thư
lục bộ đồng loạt xin từ chức - là các ông:
- Phạm Quỳnh, Thượng Thư bộ Lại.
- Hồ Đắc Khải, Thượng thư bộ Hộ.
- Nguyễn Phúc Ưng Úy, Thượng thư bộ Lễ.
- Bùi Bằng Đoàn, Thượng thư bộ Hình
- Trần Thanh Đạt, Thượng thư bộ Học.
- Trương Như Đính, Thượng thư bộ Công.
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên cũng được chính các vị này chấp bút, và
tại điện Kiến Trung - Huế ngày 11/3/1945 trước đông đủ các quần thần,
Hoàng Đế Bảo Đại ban chiếu chỉ có dấu ấn tín son và chữ ký của cả 6 vị
trong Cơ Mật Viện. Chiếu chỉ này chính là lời khẳng định nền độc lập của
Đế Quốc Việt Nam với những nội dung cơ bản sau:
“Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính
phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này Hòa Ước bảo hộ với nước Pháp bị bãi bỏ
và nước Nam khôi phục quyền độc Lập”.
“Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia
độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực
giúp cho sự thịnh vượng chung.”
“Vậy chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế
quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho
đạt được mục đích như trên - Khâm thử”.
Người đời nay dễ dị ứng và thắc mắc là sao tên nước ngày đó lại phản cảm
như thế? Khi kho tàng tiếng Việt chưa xuất hiện cụm từ “Quân Chủ Lập
Hiến” thì “Đế Quốc Việt Nam” chỉ thuần túy là cách gọi tên của một quốc
gia lập hiến có sự hiện diện của ngôi vua, tương tự như Thái Lan, Ấn Độ,
Anh Quốc, Hà Lan, Úc... hoàn toàn không theo nghĩa xấu như cộng sản gọi
Đế Quốc Mỹ sau này. Đế Quốc Việt Nam là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam
độc lập với ngày quốc khánh là ngày 11-3-1945.
Chính phủ đầu tiên của Đế Quốc Việt Nam do học giả Trần Trọng Kim đứng
ra tạo dựng. Chính phủ này quy tụ 100% là trí thức ở bậc thượng thặng
lúc đó, đã chọn Thủ đô là Phú Xuân.
Quốc kỳ là lá cờ Quẻ Ly, Quốc ca là bài Đăng Đàn Cung với lời lẽ
nhân ái, bình dị, không có mùi máu người, thây người cùng sự thôi thúc
khói lửa binh đao như bài Tiến Quân Ca của Văn Cao mà những người cộng
sản Việt Nam trong kỳ họp quốc hội khóa I - 1946 đã chọn. Đây là lời ca
của Đăng Đàn Cung:
“Kìa núi vàng bể bạc
Có sách trời... sách trời định phần!
Một dòng ta - gầy non sông vững chắc.
Đã ba ngàn mấy trăm năm!
Bắc Nam cùng một nhà con Hồng cháu Lạc.
Văn minh đào tạo
Mầu gấm hoa càng đượm
Rạng vẻ dòng giống Tiên Long.
Ấy công gầy dựng
Từ xưa đà khó nhọc
Nhớ ơn dày nặng
Lòng trung quân đã sẵn
Cố thương nhau... thương nhau một niềm.
Nguyện nhà Việt Nam muôn đời thạnh trị.”
Nội các Chính phủ Trần Trọng Kim, từ trái sang phải: Hoàng Xuân Hãn,
Hồ Tá Khanh, Trịnh Đình Thảo, Trần Trọng Kim (bị micro che mặt), Vũ Ngọc
Anh, Trần Văn Chương, Trần Đình Nam, Vũ Văn Hiền, Phan Anh, Nguyễn Hữu
Thi (ảnh Trung Bắc Chủ Nhật, 20.5.1945, Thư viện Quốc gia Pháp).
Ngôn ngữ chính thống của Đế Quốc Việt Nam là tiếng Việt, Hoàng Đế là Bảo
Đại, Tổng Lý (Thủ Tướng) là Trần Trọng Kim (1883-1953).
Vì nhiều lý do tế nhị, trong đó có lý do để tránh cho dân tộc khỏi bị
cuốn vào cơn lốc của thế chiến II đang ở giai đoạn tàn lụi mà nội các
Trần Trọng Kim không thành lập Bộ Quốc Phòng, mọi lo toan bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ vẫn phải nhờ quân đội Nhật. Về vấn đề này, giáo sư Lê
Xuân Khoa viết: “Chính phủ Trần Trọng Kim mang tiếng là thân Nhật,
nhưng thật ra chỉ là lợi dụng cơ hội Nhật đảo chính Pháp để nắm lấy
quyền cai trị, nhằm dần dần phục hồi độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Đó
là phương cách thực tế và khôn ngoan nhất mà bất cứ một chính trị gia
sáng suốt nào, kể cả Hồ Chí Minh cũng sẽ chọn lựa vào lúc đó”.
Đế Quốc Việt Nam ra đời và chỉ tồn tại được trong 5 tháng, từ tháng
3-1945 đến 8-1945. Tháng 8-1945 trong biến cố cướp chính quyền do Việt
Minh phát động, nội các của Thủ tướng Trần Trọng Kim không chủ trương
bạo động, không hề muốn có việc chém giết người Việt, ông Kim đã thẳng
thừng từ chối lời gợi ý của tư lệnh quân đội Nhật ở Đông Dương rằng, nếu
ông Kim muốn, quân đội Thiên Hoàng lúc đó tuy đã thất thế trước đồng
minh, họ vẫn dư sức giúp tiêu diệt sạch lực lượng Việt Minh lúc đó còn
rất yếu. Quá tin những người cộng sản núp bóng Việt Minh sẽ đặt tổ quốc
lên trên hết, dân tộc lên trên hết, Thủ Tướng Trần Trọng Kim cùng các
thành viên chính phủ chủ động trao chính quyền cho Việt Minh trong ngày
23-8-1945 mà không hề có bất cứ một hành động quân sự chống đối nào.
Rất tiếc vị Thủ Tướng đầu tiên của chính phủ quân chủ lập hiến đầu tiên
của Việt Nam không hề biết thế giới quan của người cộng sản lại là cộng
sản Việt Nam là “Mục Hạ Vô Nhân”, tức là chỉ có ĐCS là đỉnh cao
trí tuệ, là trên hết... nên kể cả khi chưa cướp được chính quyền họ đã
hoàn toàn phủ nhận sự hiện diện của Đế Quốc Việt Nam. Trong con mắt của
Việt Minh thì chính phủ Trần Trọng Kim là một chính phủ chẳng ra gì.
Theo họ - vua Bảo Đại chỉ là kẻ đàng điếm, ăn chơi vô tích sự, chính thể
do ông ta tạo ra vẫn phải dựa vào Nhật Bản để tồn tại... thì đó chỉ là
một chính phủ bù nhìn không thể công nhận; và theo họ, chính quyền Việt
Nam phải dựa trên liên minh công -nông sau này được gắn thêm cái đuôi
kệch cỡm “Của Dân - Do Dân - Vì Dân” đầy huyễn hoặc. Nền học vấn
của thế hệ chúng tôi vẫn đinh ninh điều đó là đúng, rằng Tuyên Ngôn độc
lập ngày 2-9-1945 của ông Hồ Chí Minh tại quảng trường Ba Đình mới là
number one. Thứ chính trị áp đặt vô lối đó có tôn trọng sự thật lịch sử
không? Câu trả lời là: KHÔNG!
Khi thế giới là thế giới phẳng, nhờ sự bùng nổ thông tin mà nhiều giá
trị tưởng rằng bất biến đã thi nhau lung lay và đổ xụp. Người đời đã
biết đến một thứ gọi là “Chính Trị” xác lập trên những trí trá, lèo lái,
áp đặt, hết sức chủ quan của kẻ cầm quyền. Kiểu như hôm nay lãnh đạo CS
Việt Nam nói: “Khai thác Bauxite ở Tây Nguyên là chủ trương lớn của Đảng”, lãnh đạo Hà Nội nói: “Thay thế cây xanh là để môi trường sống Hà Nội ngày một tốt lên!”, hay như lãnh đạo Sơn La mới nói: “Xây tượng đài Bác Hồ là nguyện vọng của các dân tộc Sơn La”.
Thực chất không như vậy. Đây chỉ là những cuộc làm ăn trên lưng người
lao động của đám quan tham đủ cấp bậc ngang nhiên diễn ra giữa thanh
thiên bạch nhật mà thôi.
Nhiều thập kỷ đã trôi qua, giờ đây nói nội các Trần Trọng Kim là nội các
thân Nhật thì vẫn đúng, còn nói nội các Trần Trọng Kim chỉ là bù nhìn
của Nhật Bản thì có quá chủ quan không, khi chỉ trong 126 ngày tồn tại
(Từ 17-4-1945 đến 23-8-1945) họ đã làm được cả một núi công việc có lợi
cho quốc kế dân sinh như:
- Thả tù chính trị.
- Thành lập tổ chức Thanh Niên Tiền Tuyến.
- Thu hồi Nam Kỳ.
- Cải cách hành chính.
- Sơ thảo hiến pháp.
- Thay thế các ảnh hưởng của Pháp.
- Đưa quốc ngữ vào vị trí ngôn ngữ chính.
- Cứu đói.
Vậy mà ông Kim vẫn sòng phẳng và ngang ngửa trước Tổng Tư Lệnh quân đội Nhật ở Đông Dương Tsuchihashi đến như thế này:
“Quân đội nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa hẹn trả quyền
tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó khăn
của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp nước
tôi, cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật… Nếu các ông cho tôi là
người làm việc cho nước Nhật, việc đó không phải là phận sự của tôi. Tôi
sẵn sàng xin lui” (Lệ Thần Trần Trọng Kim).
Tôi nghĩ rằng nếu như chính trường Việt Nam ngay từ những ngày tháng
8-1945 trở đi được vận hành bởi những những tập thể có những dự án chính
trị trong sáng, những chính khách lương thiện đủ tâm đức và tài năng
lèo lái dân tộc tránh được 2 cuộc đổ máu 1945-1954 và 1955-1975 khủng
khiếp nhất trong lịch sử 4000 năm mà vẫn đi đến được độc lập như hơn 40
nước cùng cảnh ngộ thuộc địa thì đến nay, nếu Việt Nam không ngang hàng
với Nhật Bản thì cũng không phải tủi phận ở vị trí đội sổ Asean đang bị
Lào và Campuchia qua mặt và bị kẻ cuồng bạo phương Bắc không ngừng cưỡng
bức như hiện nay. Rất tiếc nền chính trị của CS Việt Nam sau những ngày
8-1945 đã không đi vào những chính đạo dẫn đến những rạng rỡ, lại lạc
bước trên những mê lộ vòng vèo chỉ dẫn đến những trớ trêu, chia rẽ,
những bế tắc nhuốm mầu đọa đầy vẫn do ngoại bang chi phối. Có thể nói,
chính khách CS Việt Nam từ 8-1945 trở đi... họ thực sự chỉ làm nhiệm vụ
của những quân cờ trên bàn cờ của các siêu cường.
Giờ đây con đường “thoát Trung” còn khó hơn cả con đường tìm đến sao Hỏa
Thật là một trớ trêu, 70 năm sau ngày người cộng sản Việt Nam giải thể
nội các Trần Trọng Kim và coi Đế Quốc Việt Nam chỉ là bù nhìn phụ thuộc
Nhật Bản thì lúc này CS Việt Nam đã tự nguyện núp dưới “Lá Bùa 16 chữ
vàng và 4 tốt” đầy ma mị của Trung Quốc, mỗi lần đứng trước các ông lớn
Bắc Triều, ban lãnh đạo Việt Nam hôm nay không một ai có được chỉ 1/3
cái khí phách của ông Trần Trọng Kim trước các võ quan Nhật Bản ngày nào
qua trích đoạn trên.
Trong con mắt của những người cộng sản, chính thể VNCH cũng chẳng tốt
đẹp hơn gì nội các bù nhìn Trần Trọng Kim. Nhưng... hãy cùng một lần
nhìn lại ánh mắt của phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ khi ông đứng trước
người đồng minh Hoa Kỳ của VNCH, cũng là những kẻ đã khai tử cho chế độ
này...
Người mang kính gọng đen đứng bên tay mặt ông Kỳ
là Tiến sĩ H. Kissinger kiến trúc sư số 1 cho cái chết của VNCH
Và...
Một cú cúi chào không bình thường của ông
Trương Tấn Sang, làm rầu lòng người dân Việt
Hãy cùng đọc lại một vài xuất ngôn đình đám nhất của cuộc đua để được
lòng Trung Quốc của một số ứng cử viên cho chiếc ghế TBT trong nhiệm kỳ
tới, sẽ thấy tư chất bù nhìn, phụ thuộc của các quan chức CSVN. Nếu ông
Phùng Quang Thanh bộ trưởng bộ quốc phòng, người đã bỏ xa đám Lê Chiêu
Thống - Trần Ích Tắc - Mạc Đăng Dung... trước kia về sự thần phục quỵ
lụy Tầu bằng những “ tâm tư” hết sức vong bản, trơ trẽn và sống sượng:
“Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ
con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung
Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc”...
Ông Dũng đang mạt sát Mỹ và “Diễn Biến” với Tầu.
Ông Nguyễn Tấn Dũng một người đã từng nổi tiếng là người cấp tiến, ưa
Mỹ, thích phương Tây và ghét Tàu nhất, vậy mà giữa lúc Liên Sô với hồ sơ
Crime, Trung Quốc với hồ sơ Biển Đông... đang bắt tay nhau, cảm thông
và ủng hộ nhau rất bất lợi cho Việt Nam, giữa lúc quan hệ Việt-Mỹ và vấn
đề vào TPP của Việt Nam đang rất tế nhị và Mỹ đang có vai trò đối trọng
đủ sức làm phá sản những tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông thì diễn
văn đọc trong lễ kỷ niệm 30-4-2015 vừa qua tại Sài Gòn, ông Dũng đã làm
nhiều người ngơ ngác khi ông thể hiện ông là một Nguyễn Tấn Dũng vẫn
tiếp tục đánh Mỹ đến cùng và quỵ lụy Tàu cũng không kém đối thủ chính
trị nào... Ông Dũng đánh đi tín hiệu này cho ai đây và người đời sẽ có
cảm nghĩ gì về tư thế của Việt Nam trước các siêu cường khi nghe lời
miệt thị người này và lời cám ơn người khác đặt ra rất không đúng lúc
của ông Dũng:
"Đế quốc Mỹ đã ngang nhiên áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, biến miền
Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, đàn áp tàn bạo cách mạng miền
Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc. Chúng đã
gây ra biết bao tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát đối với đồng
bào ta, đất nước ta"… và "Tại buổi lễ trọng thể này, một lần nữa chúng
ta chân thành cảm ơn các nước XHCN, nhất là Liên Xô, Trung Quốc".
Với người quan tâm tới thế sự, ai mà chẳng tâm tư... khi một chính khách
như ông Dũng, người đã từng nhiều lần thoát hiểm một cách ngoạn mục
trước các “Hố Đen” chính trị do các đồng chí của ông tạo ra lại
có thể có những phát ngôn thiếu thận trọng đến thế sao? Và có một hiện
tượng ít người để ý là tuy bị mang tiếng là bù nhìn của Nhật Bản, nội
các Trần Trọng Kim và hậu duệ sau này của họ là Việt Nam Cộng Hòa đã
không hề chủ động làm hư hao một ly, một lai đất đai biển đảo nào của tổ
tiên vào tay ngoại bang, đâu có tệ hại như những thua thiệt về lãnh
thổ, biển đảo luôn chỉ thuộc về phía Việt Nam trong quan hệ giữa Việt
Nam và Trung Quốc qua nhiều thập kỷ.
Chê nội các Trần Trọng Kim là bù nhìn của Nhật, miệt thị VNCH là chư hầu
của Mỹ... vậy thử hỏi Việt Nam hôm nay Độc Lập - Tự Chủ cái gì mà từ
ông Phạm Bình Minh đến ông Nguyễn Phú Trọng muốn đi Mỹ đã phải đi Trung
Quốc để quán triệt định hướng đã. Sau chuyến đi Việt Nam vội vã của Đức
ông Trương Cao Lệ, biến cố Phùng Quang Thanh đột ngột chuyển hướng bi
hài như thế... cho thấy ước vọng Việt Nam “Thoát Trung” lúc này
có khác gì ước vọng tìm đường đến Sao Hỏa. Đến nỗi phó thủ tướng Vũ Đức
Đam đã từng phải thốt lên một câu hết sức vô trách nhiệm và thiếu chính
trị:“Việc đòi lại chủ quyền biển đảo là trách nhiệm của con cháu chúng
ta!”. Chỉ riêng những điều tưởng là vụn vặt đó thôi, câu hỏi “Ai phụ thuộc vào ngoại bang hơn ai?” đã được trả lời quá sức thuyết phục rồi.
Không biết giờ đây dưới những tầng đất sâu trên cao nguyên Đà Lạt, ông Trần Trọng Kim có khi nào cựa mình mà rơi lệ trước cảnh “Quốc Thổ trầm luân!”.
Nếu thực sự có đời sống tâm linh, tôi tin rằng ở bên kia thế giới, Tổng
Lý Trần Trọng Kim cùng toàn bộ thành viên nội các của ông, những ngày
này chắc là vẫn rơi rơi những giọt “Lệ Thần” đau buồn, điều mà
hơn 70 năm về trước, cũng vào các ngày tháng 8 này, khi dễ dàng bàn giao
chính quyền cho Việt Minh các ông đã không bao giờ nghĩ đến.