Mỗi người Việt 'gánh' 35 triệu nợ công: Chắc ai đó phải ăn dè hà tiện? (VNN)
35 triệu mỗi người là theo báo chí nhà nước, còn theo tiến sĩ Vũ Quang Việt thì nợ công của VN là 431 tỉ USD (năm 2016) bằng 210% GDP của VN. Tức là mỗi người nợ công hơn 100 triệu VNĐ. Nếu bạn không có tiền ư, thì bạn sẽ phải trả thêm nhiều loại thuế phí khi mua hàng hóa. Nhà nước không làm gì ra tiền để trả nợ cả, tất cả 90 triệu người VN phải è cổ mà trả.
Như
vậy, từ chỗ mỗi người dân chỉ "gánh" 31 triệu đồng nợ công vào năm
2017, thì đến 2018 dự kiến con số này sẽ tăng thêm 4 triệu đồng, lên 35
triệu đồng. Nhưng, con số đó có thể chưa dừng lại.
Theo
tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nợ công trong xu hướng tăng dần
đều, mỗi năm khoảng 360.000-380.000 tỷ đồng. Cụ thể, năm 2019 dự kiến
tăng lên mức hơn 3,9 triệu tỷ đồng và gần 4,3 triệu tỷ đồng vào năm
2020.
Phải nhìn nhận rằng, dòng vốn ODA đã góp phần cải thiện
đáng kể cơ sở hạ tầng của đất nước. Những công trình lớn đều được thực
hiện từ nguồn vay nợ ưu đãi của nước ngoài.
Tính riêng
giai đoạn 2011-2016, giao thông thì có Dự án đường cao tốc Nội Bài -
Lào Cai, Dự án đường cao tốc Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, cầu
Vĩnh Thịnh, cầu Nhật Tân, đường nối Nhật Tân - Nội Bài, Nhà ga hành
khách quốc tế T2 Sân bay Nội Bài.
Lĩnh vực năng lượng
thì có Dự án điện Phả Lại, Hàm Thuận - Đa Mi, Phú Mỹ, Ô Môn, dự án đường
dây truyền tải điện quốc gia, các dự án điện nông thôn. Dự án đường dây
500KV Pleiku - Mỹ Phước - Cầu Bông.
Trong lĩnh vực
năng lượng, đã xây dựng hàng loạt các dự án nguồn thuỷ điện, nhiệt điện
và năng lượng tái tạo, lưới điện và trạm phân phối... góp phần nâng cao
năng lực sản xuất, truyền tải, phân phối, quản lý hệ thống điện, đáp ứng
nhu cầu tăng trưởng phụ tải cao với tốc độ 15-17%/năm.
Đó là những ý nghĩa không thể phủ nhận của dòng vốn ODA.
Nhưng
ODA còn đó những nỗi lo khó lòng che lấp. Đó là tình trạng tham nhũng ở
một số dự án ODA đã bị phanh phui, là nhiều dự án lãng phí nằm đắp
chiếu mà VietNamNet nhiều lần phản ánh, là số tiền đội vốn hàng trăm
nghìn tỷ đồng trong các dự án, nhất là đường sắt đô thị.
Nhiều dự án tỷ đô vắt qua mấy nhiệm kỳ vẫn còn dang dở khiến đồng vốn ODA tưởng rẻ mà hóa ra đắt đỏ. Đường sắt Cát Linh - Hà Đông hiện
diện như một “nốt nhạc buồn” khi đồng tiền vay nợ không được sử dụng
hiệu quả. Trong khi, trách nhiệm vẫn là của tập thể, chưa thấy cá nhân
nào bị điểm mặt chỉ tên.
Đoàn giám sát của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về tình hình vay nợ nước ngoài giai đoạn 2011-2016 đã
đánh giá: Việc huy động nguồn lực ODA chưa có chiến lược mang tính căn
cơ, hiệu quả, chặt chẽ, còn thể hiện tính dàn trải, thiếu tập trung,
chưa có trọng tâm, trọng điểm, manh mún, chưa dành sự quan tâm thích
đáng đến việc xem xét hiệu quả sử dụng vốn vay, thể hiện qua cách “mạnh
ai người ấy làm”.
Một trong những nguyên nhân, lại xuất phát từ chính thái độ bàng quan của người có trách nhiệm “xin” dự án.
Giống
như Đoàn giám sát thẳng thắn đánh giá: Nhận thức về ý nghĩa của nguồn
lực ODA trong một số bộ phận cán bộ còn hạn chế, phần nào do quan niệm
rằng nguồn vốn tài trợ “cho không”, việc Chính phủ đi vay và cấp phát
cho các địa phương, địa phương không phải chịu áp lực trả nợ, trả lãi.
Vì vậy, chưa thực sự chú trọng đến hiệu quả của dự án.
Dự
án viết “hay” để miễn là vay được tiền, không chú trọng đến hiệu quả
thiết thực, chưa thấy được trách nhiệm phải quản lý, sử dụng tiết kiệm,
hiệu quả.
Tư tưởng “ỷ lại, trông chờ” nguồn vốn ODA và
vay ưu đãi do Ngân sách Trung ương cấp phát đã khiến việc tiêu tiền đi
vay đổ dồn lên gánh nặng cho đời con cháu.
Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Bộ Tài chính, một số địa phương được nhắc đến là nơi phải
nhận trách nhiệm, nhưng vẫn dừng ở mức “trách nhiệm tập thể”.
“Chưa
làm rõ trách nhiệm, nhất là trách nhiệm cá nhân người đứng đầu các cơ
quan, đơn vị sử dụng vốn” là những lời đánh giá của đoàn giám sát.
Việt
Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình. Nguồn vốn ODA chắc chắn
giảm dần, thay vào đó phải dựa vào các nguồn vốn vay với chi phí cao
hơn. Trong khi, nợ công đã sát “trần” cho phép, sức ép trả nợ các khoản
vay cũ tăng dần từng ngày.
Vì thế, một cơ chế mới để
quản chặt dòng vốn ODA là không phải bàn cãi. Trong vô số các giải pháp
được Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, đoàn giám sát của Quốc hội đưa
ra, thì có lẽ chẳng có biện pháp nào hiệu quả hơn việc “Buôn tàu bán bè
không bằng ăn dè hà tiện”. Có vậy, khối nợ 35 triệu đồng mỗi người dân
vừa sinh ra đã phải gánh mới không “phình” ra thêm.
Tiếc
rằng, việc "ăn dè hà tiện" có nơi, có chỗ còn đang làm ngược lại vì còn
tư tưởng nợ cả nước mới lớn chứ chỗ mình đáng bao nhiêu.
Lương Bằng
Nếu nợ công là 431 tỷ USD, ai trả nợ cho DNNN thua lỗ? (NDH)
Một câu hỏi đặt ra là những khoản nợ nần khổng lồ của các
DNNN, các dự án 'đắp chiếu' thua lỗ và các đại án gây thất thoát hàng
nghìn tỷ đồng ai sẽ chịu trách nhiệm và lấy tiền ở đâu để bù đắp, trả
nợ.
Theo một phân tích của Tiến sĩ Vũ Quang
Việt, cựu Vụ trưởng Vụ thống kê của Liên Hiệp Quốc, vào năm 2011, nợ
công việt Nam về thực chất đã tăng đến 106% GDP, nếu tính cả nợ của các
tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Vào thời điểm đó, con số báo
cáo của Chính phủ về nợ công quốc gia chỉ vào khoảng 50% GDP.
Đầu
năm nay, tại hội nghị tổng kết ngành tài chính, Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc đã đưa ra cảnh báo rằng "nợ công nếu tính đủ đã vượt trần chứ không
chỉ sát trần". Người đứng đầu Chính phủ cũng dẫn lời chuyên gia nhận
định nếu không chấm dứt tình trạng này thì sự sụp đổ nền tài khóa quốc
gia là không thể tránh khỏi.
Tiến sĩ Vũ Quang
Việt dẫn số liệu được cho là tin cậy cho thấy nợ Chính phủ năm 2015 là
115 tỷ USD bằng 59,5% GDP và ước tính nợ Chính phủ năm 2016 lên tới ít
nhất 131 tỷ USD, bằng 63,9% GDP.
Theo phân tích
của Tiến sĩ Vũ Quang Việt, nợ của khoảng 3.200 DNNN theo điều tra của
Tổng cục Thống kê năm 2014 là 4,9 triệu tỷ đồng (231 tỷ USD), gấp nhiều
lần con số 1,5 triệu tỷ đồng mà Bộ Tài chính đưa ra chỉ cho một số tập
đoàn và công ty lớn. Ước tính thêm cho thấy năm 2016, nợ của DNNN là 324
tỷ USD, bằng 158% GDP.
Như vậy, cộng cả nợ
chính phủ và nợ doanh nghiệp nhà nước sau khi trừ đi phần Chính phủ bảo
lãnh trùng lặp, tổng số nợ năm 2016 là 431 tỷ USD, bằng 210% GDP.
Như
vậy, cả nước làm ra 100 đồng nhưng có tới 210 đồng là vay nợ và nợ công
tính theo đầu người Việt Nam sẽ rơi vào khoảng 100 triệu đồng.
Sao không tính nợ của DNNN là nợ công?
Góp
ý cho dự án Luật quản lý nợ công (sửa đổi) tại phiên thảo luận ngày
30/5, đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP. HCM) cũng dẫn ra số nợ của DNNN
năm 2016 là 324 tỷ USD, bằng 158% GDP. Con số này còn cao hơn cả số nợ
mà các tập đoàn, tổng công ty nhà nước khác đang nợ.
Theo
ông Nghĩa, hiện nay có chủ trương là nếu nhà nước không bảo lãnh, không
cho vay lại thì không đưa vào nợ công, nhưng các DNNN đều do Nhà nước
quyết hết về nhân sự và nhiều tổ chức bố trí cán bộ Đảng chuyên trách về
quản lý, phải chấp hành lo kinh phí cho hệ thống chính trị trong doanh
nghiệp. Cho nên toàn bộ hiệu quả trong DNNN là Nhà nước chịu.
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa.
DNNN
có vai trò tác động nhất định trong địa phương, trong ngành, trong nền
kinh tế. Do đó, đại biểu Trương Trọng Nghĩa đặt vấn đề: Nếu nói Nhà nước
không chịu trách nhiệm gì cả, vậy doanh nghiệp đó vay nợ, phá sản thì
Nhà nước có yên được không?
Chính phủ đứng ra
bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay nợ nước ngoài, đến khi doanh nghiệp
thua lỗ, Chính phủ buộc phải đứng ra trả nợ.
Theo
báo cáo ngày 11/1/2015 của Chính phủ thì nợ nước ngoài của các tập đoàn
của Chính phủ, nợ nước ngoài của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước
381. 419 tỷ đồng, trong đó, vay ODA của Chính phủ 117.986 tỷ, vay lại
nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh là 124.104 tỷ và các tập đoàn tổng
công ty tự vay tự trả là 91.879 tỷ. Như vậy, tỷ lệ bảo lãnh rất cao.
Ông
Nghĩa cho rằng nếu “gạt” nợ DNNN ra khỏi nợ công thì cần phải xem lại
vì khoản nợ đó rất lớn. Do đó, dù không gộp vào nợ công nhưng cũng phải
đưa vào báo cáo nợ công chứ không thể “phủi tay” nợ của DNNN vậy được.
Điểm danh những khoản nợ nần, thua lỗ lớn
Trong
bài phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 5 ngày 5/5/2017, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đánh giá: “Không ít DNNN làm ăn thua lỗ, thất thoát,
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với những dự án đầu tư hàng nghìn tỷ đồng
"đắp chiếu", làm trầm trọng thêm nợ xấu ngân hàng và nợ công quốc gia,
gây bức xúc trong nhân dân…”.
Những con số về
tình hình sản xuất, kinh doanh của các DNNN gần đây đã cho thấy kết quả
kinh doanh của khu vực DNNN không khả quan, thậm chí lỗ đến mức báo
động. Ông Đặng Quyết Tiến, Phó cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp, Bộ
Tài chính cho biết, tính đến cuối năm 2015, tổng tài sản của các DNNN
là hơn 3 triệu tỷ đồng, trong đó vốn chủ sở hữu là hơn 1,3 triệu tỷ
đồng, nhưng tổng doanh thu của các DNNN chỉ đạt gần 1,6 triệu tỷ đồng.
Theo
báo cáo của Chính phủ về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà
nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2015, các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước có tổng số nợ phải trả lên đến 1,5 triệu tỷ đồng.
Hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu bình quân năm 2015 là 1,23 lần, trong
đó có 25 DNNN có tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần, đứng
đầu là Tổng công ty Phát thanh truyền hình thông tin, Tổng công ty Xăng
dầu quân đội, Tổng công ty Cơ khí xây dựng….
Báo
cáo này cho thấy, số nợ các DNNN vay từ các ngân hàng thương mại và tổ
chức tín dụng cũng là vấn đề nhức nhối được Chính phủ chỉ ra, với những
cái tên điển hình như Tập đoàn Điện lực Việt Nam; Tập đoàn công nghiệp
Than – Khoáng sản Việt Nam; Tập đoàn Hóa chất Việt Nam; Tập đoàn
Viettel; Vinalines...
Có thể kể ra một số DNNN với những khoản nợ nần và thua lỗ khổng lồ dưới đây.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nợ 475.000 tỷ đồng: Báo
cáo tài chính 6 tháng năm 2016 của EVN ghi nhận doanh thu đạt gần
131.000 tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ. Song chi phí tài chính tăng
mạnh hơn 15.500 tỷ đồng đã khiến EVN bất ngờ báo lỗ 716 tỷ đồng, lỗ của
công mẹ gần 930 tỷ đồng. Tính đến 30/6/2016, tổng tài sản và vốn chủ sở
hữu hợp nhất của EVN đạt lần lượt là 663.000 tỷ và 187.700 tỷ đồng. Nợ
phải trả của EVN tăng lên 475.000 tỷ đồng, trong đó vay nợ tài chính lên
tới 395.000 tỷ đồng. 6 tháng đầu năm tập đoàn đã phải chi tổng cộng
6.900 tỷ đồng trả lãi. Năm 2015, EVN cũng phải chi hơn 12.000 tỷ đồng
trả lãi vay.
Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam (TKV) nợ 100.000 tỷ đồng: Theo
báo cáo tài chính của Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV), tính đến
cuối năm 2015, lợi nhuận sau thuế chưa phân phối của tập đoàn này âm
478 tỷ đồng, tổng nợ phải trả lên tới gần 100.344 tỷ đồng. Trong đó, nợ
ngắn hạn là 37.609 tỷ đồng, nợ dài hạn 62.734 tỷ đồng. Nguyên nhân thua
lỗ và nợ của TKV được Thanh tra Bộ Tài chính chỉ ra chủ yếu do hàng loạt
những dự án đầu tư chậm tiến độ, đội vốn. Tuy nhiên, bất chấp việc nợ
nần lớn, kinh doanh thua lỗ, TKV vẫn nung nấu ý định xây dựng hai trụ sở
hoành tráng ở Hà Nội và Quảng Ninh.
Bất chấp nợ nần lớn, kinh doanh thua lỗ, TKV vẫn nung nấu ý định xây dựng hai trụ sở hoành tráng ở Hà Nội và Quảng Ninh.
PVN mất trắng chục nghìn tỷ đồng ở Venezuela: Tại
cuộc họp báo cuối năm 2013, ông Phùng Đình Thực thời điểm đó là Chủ
tịch Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN), đã thừa nhận “thất bại”
bất đắc dĩ ở Venezuela. Sau 3 năm ký kết hợp đồng, mọi kỳ vọng gửi gắm ở
dự án liên doanh khai thác dầu nặng Junin 2 tại quốc gia dầu mỏ này đã
phải tạm dừng. Tổng mức đầu tư dự án được loan báo lên tới 12,4 tỷ USD,
phân kỳ làm hai giai đoạn, ban đầu rót 8,9 tỷ USD, giai đoạn 2 rót 3,5
tỷ USD. Phần vốn mà phía Việt Nam phải đóng góp tương ứng với tỷ lệ tham
gia 40% trong hợp đồng là 1,241 tỷ USD. Nếu tính cả “phí tham gia hợp
đồng” (bonus) 584 triệu USD thì tổng nhu cầu vốn của phía Việt Nam là
1,825 tỷ USD.
Sau nghi lễ ra mắt hoành tráng,
"siêu dự án" đã chẳng đi tới đâu. Chưa kể các chi phí đầu tư lên đến
hàng trăm triệu USD, chỉ riêng tiền mặt mà PVN trực tiếp trao cho
Venezuela, một đi không trở lại, đã lên đến 532 triệu USD: 442 triệu
tiền "bonus", 90 triệu tiền góp vốn ban đầu.
Tháng
4/2013, ban lãnh đạo mới của PVN đã quyết định bỏ dự án này để "cứu"
khoản tiền phải nộp lên đến 142 triệu USD, chấp nhận bỏ hơn 500 triệu
USD, cho dù chưa thu được giọt dầu nào. Chưa kể nhiều chi phí khác, ai
chịu trách nhiệm về khoản thất thoát 532 triệu USD, tương đương hơn
11.000 tỷ đồng "tiền tươi thóc thật" này?
Viettel Global lỗ 6.800 tỷ ở châu Phi, nợ 18.700 tỷ: Theo
báo cáo được công bố, năm 2016 Viettel đạt doanh thu hơn 226.000 tỷ
đồng và lợi nhuận trước thuế là 43.200 tỷ đồng. Dù doanh thu tăng trưởng
nhưng lợi nhuận năm 2016 của Viettel giảm tới 2.600 tỷ đồng (gần 6%) so
với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chính khiến lợi nhuận Viettel sụt
giảm là do khó khăn tại các thị trường nước ngoài, mà cụ thể là Tổng
Công ty Đầu tư quốc tế Viettel (Viettel Global). Báo cáo tài chính 6
tháng đầu năm 2016 của Viettel Global cho biết, công ty này lỗ trước
thuế tới 1.860 tỷ đồng và lỗ sau thuế hơn 2.100 tỷ đồng.
Thị
trường Châu Phi tiếp tục là nơi khiến Viettel Global sa lầy. Sau khi có
lãi 265 tỷ đồng tại Châu Phi, Viettel Global liên tục lỗ nặng tại đây.
Năm 2014, số lỗ là 676 tỷ đồng, sang năm 2015 tăng vọt lên 2.600 tỷ đồng
và chỉ trong 6 tháng đầu năm 2016 đã lỗ tiếp tới hơn 3.500 tỷ đồng. Như
vậy, trong vòng 2 năm rưỡi, thị trường Châu Phi đã khiến Viettel Global
lỗ tổng cộng 6.800 tỷ đồng.
Ngoài ra, chi phí
lãi vay lên tới hơn 300 tỷ đồng, khi vay nợ ngắn hạn tăng 14% lên 8.871
tỷ đồng chỉ trong 6 tháng đầu năm 2016. Tổng vay nợ của Viettel Global
là gần 18.700 tỷ đồng, chiếm gần 50% tổng nguồn vốn.
PVC lỗ 3.500 tỷ đồng dưới thời ông Trịnh Xuân Thanh: Tổng
Công ty cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC) gắn liền với tên tuổi
của ông Trịnh Xuân Thanh, người từng nắm giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng
quản trị. Ông Thanh khiến dư luận rúng động vì khiến PVC thua lỗ khủng.
Năm 2012, PVC khiến giới chứng khoán rúng động khi bất ngờ báo lỗ khủng
1.847 tỷ đồng dù chỉ 1 năm trước đó vẫn lãi 117 tỷ đồng. Sang năm 2013,
tình hình còn bi đát hơn. Sau khi khiến công ty thua lỗ 1.578 tỷ đồng
trong gần 2 quý đầu năm, ông Trịnh Xuân Thanh rời PVC trong tháng
5/2013. Tính chung cả năm 2013, PVC lỗ 2.228 tỷ đồng. Nhưng chỉ tính
riêng dưới thời ông Thanh, PVC đã lỗ tới 3.425 tỷ đồng.
Tính
đến ngày 30/6/2016, PVC còn khoản lỗ lũy kế lên tới hơn 2.896 tỷ đồng,
nợ vay ngắn hạn 1.093 tỷ đồng và 1.481 tỷ đồng nợ vay dài hạn.
12 dự án thua lỗ ngành công thương nợ 55.000 tỷ đồng: Đáng
chú ý, ngành Công Thương có 12 dự án nghìn tỷ khác đang lay lắt hoặc
“đắp chiếu” không thể hoạt động, chậm tiến độ, kém hiệu quả, làm ăn thua
lỗ, điển hình là nhà máy sản xuất xơ sợi Đình Vũ, dự án nhà máy gang
thép Thái Nguyên giai đoạn 2, nhà máy nhiên liệu sinh học Bio-Ethanol
Dung Quất, nhà máy đạm Ninh Bình… Cho đến nay, tổng số lỗ của 12 nhà máy
này đã lên đến khoảng 16.000 tỷ đồng, tổng số nợ lên đến 55.000 tỷ
đồng, trong khi tổng tài sản là hơn 57.600 tỷ đồng.
12 dự án thua lỗ ngành công thương nợ 55.000 tỷ đồng
Không
chỉ làm ăn kém hiệu quả, chìm trong thua lỗ, khối DNNN còn “tai tiếng”
bởi những vụ án tham nhũng kinh tế lớn, phức tạp trong nhiều năm qua.
Những vụ việc điển hình có thể kể đến như vụ án cố ý làm trái quy định
của nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng tại Công ty
In, thương mại, dịch vụ Agribank; vụ án đưa hối lộ, lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong thi hành công vụ xảy ra tại Tổng Công ty Xây dựng đường
thủy Việt Nam; vụ án tham ô tài sản, rửa tiền xảy ra tại Công ty TNHH
MTV vận tải Viễn Dương Vinashin (Vinashinlines) mà Giang Kim Đạt bị đề
nghị án tử hình,...
Một câu hỏi đặt ra là những khoản thua lỗ, nợ nần khổng lồ này của các DNNN, lấy tiền ở đâu để bù đắp và trả nợ?
Nhắc
lại quan điểm của Đại biểu Trương Trọng Nghĩa, Nhà nước vẫn phải chịu
trách nhiệm giải cứu khi DNNN thua lỗ. Theo ông, thực tế điều này đã xảy
ra, trong không ít trường hợp các khoản vay của DNNN không được bảo
lãnh, nhưng vẫn có sự đồng ý của Nhà nước. Do đó, khi những DNNN này
không trả được nợ, Nhà nước phải có nghĩa vụ trợ giúp.
Thứ
hai là Nhà nước dùng quỹ tích lũy trả nợ để giúp, có hình thức cấp vốn,
rồi chỉ đạo một số ngân hàng thương mại của Nhà nước khoanh nợ, giãn
nợ. Như vậy, dù nói là tự vay tự trả nhưng với DNNN ở Việt Nam, theo ông
Nghĩa, đại đa số các trường hợp DNNN thua lỗ đều được Nhà nước cứu giúp
bằng nhiều hình thức. Cho đến nay chưa có trường hợp DNNN nào phá sản
cả.
Báo Mới (2/6/2017)