Phán Ký (Đăng Cổ Tùng Báo, 27/6/1907 - Nguyễn Văn Vĩnh)

LTS: Blog Thông Luận trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc một bài viết phê phán nạn hủ nho của nhà tư tưởng, nhà xã hội học, nhà báo, nhà văn lớn Nguyễn Văn Vĩnh, đăng trên Đăng Cổ Tùng Báo, số thứ Năm ngày 27 tháng Sáu năm 1907. Những lời phê phán của cụ Nguyễn Văn Vĩnh vẫn còn đúng cho đến tận ngày hôm nay. Cụ Nguyễn Văn Vĩnh là một trong những trí thức yêu nước thực sự, đã đóng góp lớn cho phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục cũng như công cuộc giáo dục và khai dân trí cho người Việt Nam. 



Trường Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) được thành lập
bởi một số nhà trí thức yêu nước tiên tiến, khởi đầu một phong trào yêu nước chống phong kiến chống thực dân với tính chất hoàn toàn mới chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam. 

ĐKNT trước hết tập trung vào chủ đề giáo dục. Nền giáo dục nước ta xưa nay rập khuôn Trung Quốc: “đặt đạo đức lên đầu, xem trí năng là thứ yếu, cho nên không nói tới giáo dục quốc dân … Chỉ những ai có chí làm công khanh, đại phu mới đi học, chớ không phải là giáo dục quốc dân nhằm phổ biến rộng rãi trong dân chúng, mà là định phân trên dưới, giữ gìn lễ phép. Đường lối giáo dục quốc dân không phải như thế, mà là làm rõ cái lý tương quan giữa nước với dân, sao cho họ biết vị trí của họ trong xã hội, chức phận ra sao, và làm thế nào để gây ý thức ái quốc ái quần, bồi dưỡng tài năng tự trị, tự lập… Một nước không có giáo dục quốc dân thì trăm họ u mê, không biết quốc gia, chính trị là gì.

PHÁN, KÝ

(Đăng Cổ Tùng Báo, số thứ Năm ngày 27 tháng Sáu năm 1907)

Các ông chớ có tưởng rằng: tôi sắp chê báng gì anh em đâu. Tôi cũng một làng, đâu lại dám thế. Những ông dèm chê mình là hẹp suy lắm. Có khác gì mấy ông Đại-pháp, thấy mấy người nói dối thì làm ngay sách nói rằng: bao nhiêu người An-nam cũng nói dối cả.

Vả lại bài này không phải là bài chê khen gì. Tôi chỉ có ý tìm cách mà bàn với anh em đồng-sự, xem có phương kế nào, mà để về sau cháu chắt chúng ta ai có nói đến rằng: “Cụ kị mày xưa làm thông ngôn”, chúng nó không phải đến nỗi xấu hổ mà thôi.

Có cách làm được đấy, các ông ạ !

Nước Nam ta bây giờ, chẳng phải nói dấu gì nhau, dốt tệ lắm, mà cũng vì cái dốt, cho nên người ta khinh bỉ, cũng vì cái dốt cho nên phải làm như trâu như bò, được đồng nào sắm đồ-tầu hết. Cũng vì cái dốt, cho nên trong nước cái nghĩa đoàn-thể không có; cũng vì cái dốt, cho nên nghệ hay không muốn làm, cứ ai chuyên về nghề ăn không; cũng vì cái dốt, cho nên người đói meo ra không lo, lo quan âm đói, tà ma đói; nói dút lại thì bao nhiêu cái khổ nhục nhằn nước Nam ta cũng vì một cái dốt mà ra cả.


Điều ấy bây giờ từ ông làm quan, người lái buôn, học trò, thợ thuyền, cho chí chúng mình ai ai cũng biết cả rồi, cho nên từ ngày Nhà-nước cải tân học đến giờ, ai ai cũng nao nức vào việc ấy làm.

Nhưng mà cái nao nức ấy, có ăn thua gì không?

Vị tất.

Là vì thế này: Mấy ông quan thì nao nức cũng có, nhưng xưa nay chỉ có một việc…. trị dân, còn việc dạy dân thì chưa quen. Cho nên bất quá chỉ đùng-đùng ông nọ mở tràng, ông kia mở tràng, nhưng học gì, học thế nào, nghe chừng đâu những khi rảnh việc quan, cũng đã nghĩ chán rồi, nhưng vẫn chưa ra. Hóa cho nên mở tràng cứ mở, nhưng gián hoặc cũng nhiều ông mở tràng, cho khai dân trí thì ít, cho mắt quan trên trông vào thì nhiều. Sau nữa lại còn cái nhẽ dân không, khó làm-quan!

Đến như nhà-nho. Cánh ấy thì nhiệt-thành thực. Nhưng mà xưa nay chỉ quanh-quẩn có bấy nhiêu quyển sách, bây giờ thấy nên cải, thì cải đấy thôi, chớ đã rõ nó ra thế nào. Hiệu khách (Hoa kiều b/t) cũng có bán ít sách Tầu, sách Nhật, nhưng nghe nó cũng không được gẫy-gọn ra cho lắm. Cái nghiệp sách dịch có đâu bằng nguyên-bản. Ông Nhật, ông Tầu còn phải đi sao của người ta, bây giờ mình lại đi sao cái bản-sao giờ đang của họ, thì dẫu nhiệt thành đến đâu, nó cũng lúng-túng lắm. Vả lại bụng thì có, nhưng tiền ít, ai lo cho mà ăn, ai nuôi vợ con cho mà đi lo việc dạy người. Nhiệt thành lắm đến bán cửa-nhà ruộng-nương đi, tôi cũng đã lấy làm phục lắm rồi, nhưng mà bán mãi cũng phải hết chớ?


Có mấy ông cự-thương cũng hết sức dúp vào, nhưng nghề bây giờ đã buôn bán to thì bận cả ngày, có dúp vào thì cũng dúp ít bạc mà thôi.

Còn đến anh em ta.

Tôi xét ra không còn ai dúp được đồng-bào dễ hơn mình nữa, mà không nhân lấy cái dịp này, để làm cho cháu chắt về sau được ngửng mặt lên, cũng hèn.

Lương tiếng không mấy, cũng còn đủ ăn, có được ít của riêng thêm ra, thì lại càng vững chân nữa.

Việc làm thì giờ đã có, như làm Nhà-nước, thì một ngày có năm giờ rưỡi. Buổi chưa, buổi tối được nhàn-nhã thảnh-thơi lắm.

Chữ Đại-pháp biết, việc Đại-pháp nhờ được làm việc cũng thông hiểu nhiều hơn người ta. Nhật-báo, sách vở của người, mình có thể xem được.

Như thế mà giá anh em mình ai ai cũng đem tâm vào một việc học-hành cho rồi, để mà dúp anh em trong nước cũng được noi cách mới học-hành rối lên để bằng người ta thì dễ biết là bao nhiêu!

Cái giờ ngủ ban chưa nên bỏ bớt đi; cái buổi đi dạo lúc chiều bớt đi; canh tài-bản trầu hát bớt đi. Giá thử anh em ta để cái giờ ấy mà đọc lấy sách Đại-pháp cho nhiều, người hơn đưa người kém, người kém chịu khó một ít, cho thực rỗi, xem cho suốt cả, cái gì hay thì dịch ra tiếng An-nam, cho người nước nhà xem với. Ông nào thực rồi, bỏ quách cái kiêu ngạo xằng đi, mà dùm dúp đồng-bào, mở tràng dạy bảo anh em. Còn cái khoản giăng-hoa thì thiếu niên tất cũng phải có, nhưng ta phiên- phiến đi, mà nên lấy chữ tình điểm mùa xuân, chớ đừng ham chi cái cách nay cô này mai cô khác.

Nói đến điều này tôi lại chỉ ước gì tôi hóa ra vài ngàn cô con gái xinh đẹp. Giá các cô cứ nhìn óc người, trước khi nhìn cái nếp áo, cái sắc giầy, thì nước Nam được nhờ các ông Phán chúng tôi biết là bao nhiêu ?

Đấy, bấy nhiêu nhẽ tôi đã bày ra đó. Anh em ta nên tính phen này. Làm thế nào cho sự học nước Nam được hay, thì chắc đời sau có còn ông Phan-huy-Thịnh khác làm thơ, cũng không ai nghe nữa.

Nếu các quan vân cứ nao nức cho; các ngài cứ cho dân nhờ cái quyền do các ngài; các ông nhà nho cứ giữ cái nhiệt-thành cho; các ông cự thương cứ dúp ít nhiều tiền cho; mà mấy anh em mình quyền không có, tiền không có, cứ đem cái tài nhỏ mọn vào, cũng như viên gạch vào bức tường, thì gì mà chẳng xong?

Tha-hồ làm thơ các ông ạ, chúng ta đừng họa nữa. Cứ cố lên thôi!

TÂN – NAM – TỬ (Nguyễn Văn Vĩnh)