Thẩm vấn: Quy tắc trong thẩm vấn (Phần 1) (Hatechange)
Việc thẩm vấn thường gợi lên những hình
ảnh của các phương pháp khắc nghiệt, đau đớn, gây sợ hãi cho người cung
cấp thông tin. Tuy nhiên phương pháp dựa trên nỗi sợ hãi sẽ ít có tác
dụng với những người có kinh nghiệm, can đảm hoặc đôi khi là lì lợm.
Chúng tôi biết rằng cho dù bạn không làm
điều gì trái luật nhưng lại được mời tham gia một cuộc thẩm vấn trái
pháp luật, thì những trải nghiệm trong một căn phòng kín với những viên
anh ninh đầy quyền lực là điều không hề dễ dàng. Bạn chỉ có thể đứng
vững trước các “kỹ thuật” thẩm vấn nếu bạn hiểu làm thế nào mà nó hoạt
động, người thẩm vấn sẽ thực hiện các kỹ thuật gì và làm thế nào bạn có
thể đối mặt với tình huống đó.
Dựa trên nguyên tắc bạn chỉ sợ hãi trước
những gì bạn không biết, Hate Change thực hiện loạt bài về chủ đề Thẩm
Vấn nhằm trang bị vũ khí là kiến thức về thẩm vấn cho nhà hoạt động. Bạn
có thể sẽ thấy các bài viết cung cấp kiến thức thẩm vấn chung
có các thủ thuật về nói dối, nhưng vì tính đặc thù của hệ thống hành
pháp của Việt Nam, vì sự an toàn của bạn, chúng tôi nhấn mạnh rằng các
nhà hoạt động nên cân nhắc nguyên tắc không nói dối. Vì
vậy loạt bài này sẽ bao gồm: các kiến thức thẩm vấn một cách khái quát
và kiến thức chuyên sâu cho nhà hoạt động Việt Nam. Ở bài viết về chiến
thuật cho nhà hoạt động, chúng tôi sẽ đưa ra lập luận tại sao nguyên tắc
không nói dối lại quan trọng khi đương đầu với quá trình thẩm vấn.
Thẩm vấn là gì?
Thẩm vấn là một hình thức giao tiếp bất tương xứng trong đó, phương pháp mà mục tiêu của một bên khác hoàn toàn với bên còn lại.
Người thẩm vấn sẽ cố gắng tìm kiếm các
thông tin từ người bị thẩm vấn để phục vụ cho một số mục đích nhất định,
chẳng hạn như trả lời cho câu hỏi “Ai là người đã làm việc gì đó”. Mục
tiêu của người bị thẩm vấn là giữ được các lợi ích của riêng họ, bao gồm
tự bảo vệ bản thân và có thể là các mục tiêu xã hội rộng hơn, đặc biệt
là khi họ là một nhân chứng hoặc vô tội.
Có thể phân loại thẩm vấn thành 3 loại:
– Việc thẩm vấn mà người bị thẩm vấn sẽ tự do đưa ra thông tin, ví dụ như một nhân chứng cho một tội phạm.
– Việc thẩm vấn tìm kiếm thông tin mà
người bị thẩm vấn không muốn tiết lộ, ví dụ như trong việc thẩm vấn bạn
bè của một tên tội phạm bị nghi ngờ
– Việc thẩm vấn tìm kiếm sự thú nhận,
một sự thừa nhận một hành động cụ thể, ví dụ như trong việc thẩm vấn một
người bị nghi ngờ phạm tội.
Người thẩm vấn thường là những người
được đào tạo bài bản các kĩ thuật thẩm vấn, trong khi người bị thẩm vấn
có thể là nghi phạm, nhân chứng. Các kỹ thuật thẩm vấn có thể thay đổi
và biến hóa.
Mục tiêu chính của quá trình thẩm vấn là có được các thông tin và điều qua trọng nhất là khiến người khác hợp tác.
Bởi vì người bị thẩm vấn có lý do để
không tiết lộ hoặc nói cho người khác sự thật, do đó người thẩm vấn sẽ
sử dụng rất nhiều thủ đoạn khác nhau để đạt được mục tiêu của họ.
Việc thẩm vấn thường gợi lên những hình
ảnh của các phương pháp khắc nghiệt, đau đớn, gây sợ hãi cho người cung
cấp thông tin. Tuy nhiên phương pháp dựa trên nỗi sợ hãi sẽ ít có tác
dụng với những người có kinh nghiệm, can đảm hoặc đôi khi là lì lợm.
Quy tắc trong thẩm vấn
Dưới đây là mười ‘quy tắc của trò
chơi’ được mô tả bởi Walton, (2003), diễn tả trình tự một cuộc thẩm vấn
có thể diễn ra. Diễn biến này dựa trên hoàn cảnh là người bị thẩm vấn
không muốn đưa cho người thẩm vấn thông tin mà họ tìm kiếm.
1. Người bị thẩm vấn nên cẩn thận để
không vô tình nói điều gì có thể làm lộ thông tin mà anh ta muốn che
giấu, hoặc cho phép người thẩm vấn suy ra nó.
2. Người thẩm vấn có thể ép buộc người
bị thẩm vấn tiết lộ thông tin thông qua sự đe dọa hoặc sự trừng phạt,
nhưng chỉ bằng các phương tiện được cho phép (theo luật của từng quốc
gia và luật quốc tế)
3. Người thẩm vấn cần đặt câu hỏi cho
người bị thẩm vấn. Những câu hỏi này có thể, và thường có tính dẫn dắt,
định hướng và dàn dựng.
4. Người được thẩm vấn nên trả lời một
cách chung chung, mập mờ, gây nhầm lẫn nếu điều này giúp tình hình của
anh ta tốt hơn/ hoặc không xấu đi.
5. Người thẩm vấn nên thăm dò một cách
cẩn trọng câu trả lời và phản ứng của người bị thẩm vấn và cố gắng sử
dụng chúng để trích xuất thông tin.
6. Người bị thẩm vấn nên cố gắng nhất quán trong các câu trả lời.
7. Nếu người thẩm vấn tìm thấy những mâu
thuẫn trong câu trả lời của người bị thẩm vấn, hoặc những phát biểu
đáng ngờ, hoặc những tuyên bố không nhất quán với thông tin từ những
nguồn khác, thì nên đặt câu hỏi để kiểm tra chúng một cách nghiêm túc.
8. Nếu người thẩm vấn lấy được thông tin
mà anh ta muốn có từ người bị thẩm vấn, thì anh ta đã đạt được mục tiêu
của mình và cuộc đối thoại kết thúc với phần thắng thuộc về người thẩm
vấn.
9. Nếu người thẩm vấn chấm dứt thẩm vấn
mà không nhận được thông tin mà anh ta muốn, và người bị thẩm vấn vẫn
giữ được thông tin của mình, thì cuộc đối thoại kết thúc với chiến thắng
của người bị thẩm vấn.
10. Hai bên có thể sử dụng bất kỳ lý lẽ nào, ngay cả các thủ thuật không thích hợp và dối trá để đạt được mục tiêu của họ.
Theo Hatechange.org
Bài tiếp theo: Thẩm vấn: (Phần 2) – Người bị thẩm vấn nên làm gì?
Nguồn tài liệu tham khảo:
Walton, D. (2003). The interrogation as a type of dialogue, Journal of Pragmatics 35, 1771–1802