Ông già và chủ nghĩa xã hội huyền ảo (Trẻ Online- Phạm Thị Hoài)
Trong ký sự Cuba đã dẫn, mười sáu năm
trước, Arthur Miller nhận xét: Sau nửa thế kỷ nắm quyền, Fidel đã thành
một sinh thể lộn thời đại. Một chiếc đồng hồ cổ chỉ sai giờ, cứ đêm
khuya lại tùy tiện đánh chuông phá sự yên bình của cả xóm. Xóm nghèo
Cuba, anh hùng, lạc hậu như thuở nào, tiền đồn của một hệ thống đã biến
mất.
Càng xa Mạc Tư Khoa, ta càng gặp những
người cộng sản giống chúng ta như những con người, triết gia lừng lẫy
một thời Jean-Paul Sartre nói thế. Xa đế chế Sô-viết hơn cả, thuở đó, là
Cuba. Chủ nghĩa xã hội nhiệt đới cha-cha-cha và vị lãnh tụ ngậm xì-gà
dường như là phiên bản đỡ giáo điều hơn, cận nhân tình hơn, bớt nghiêm
trọng hơn nguyên bản Siberia băng giá. So với Việt Nam, bán đảo tiền đồn
cũng nhiệt đới của cách mạng vô sản thế giới ở đầu này, thì Cuba, hòn
đảo cũng tiền đồn ở đầu kia có vẻ phóng khoáng vui tươi hơn vài bậc.
Thời chúng tôi đi học ở các nước xã hội
chủ nghĩa, Cuba và Mông Cổ là hai tấm vé hạng chót. Liên Xô hiển nhiên
là hạng nhất, song Cộng hòa Dân chủ Đức được coi là thiên đường. Cuba
nghèo, lạc hậu và anh hùng, toàn những điều Việt Nam có đủ dùng cho
nhiều thế hệ. Nên tôi không thấy Cuba có gì đặc biệt hấp dẫn.
Các bạn Cuba cùng trường cũng không phải
là những tấm gương sáng. Họ học hành vừa phải, yêu đương hăng hái và
nhảy nhót cuồng nhiệt, trong khi sinh viên Việt tuân lời răn của Đại Sứ
quán: Đi nhảy là thiếu văn minh/ Là phản Tổ quốc, là khinh ông bà.
Và tôi đã ngạc nhiên không ít trước tình yêu của giới trí thức cánh tả
phương Tây dành cho cuộc cách mạng Cuba. Hay nói đúng hơn, dành cho
Fidel Castro, như thể Fidel là Cuba và ngược lại.
Hơn một nửa thế kỷ, vị Máximo Líder
cao 1,91 m trong bộ quân phục màu ôliu của châu Mỹ Latin vừa qua đời đã
là nhân vật mê hoặc hàng loạt nhà văn hàng đầu thế giới, bất chấp tất
cả những tội ác đã ghi sổ của các nhà nước cộng sản gộp lại và Cuba nói
riêng. Như thể chủ nghĩa xã hội ở Cuba, khác với nguyên bản hiện thực ở
Đông Âu và châu Á, là phiên bản riêng của châu Mỹ Latin, một chủ nghĩa
xã hội huyền ảo mà Gabriel García Márquez, đại diện hoàn hảo của trường
phái văn chương hiện thực huyền ảo, trung thành đến trọn đời.
Hồ Chí Minh cũng từng và chưa thôi mê
hoặc rất nhiều văn nghệ sĩ Việt Nam và một số tác giả nước ngoài. Một
người như nhà thơ Lê Đạt, hoàn thành trường ca Bác dịp giỗ đầu
ông Hồ khi chính mình đang chịu nạn của chế độ mà vị lãnh tụ này đóng
vai trò quyết định, với những câu rất Lê Đạt: Mây trắng đền Hùng/ Râu Bác ung dung…
chắc chắn đã viết theo mệnh lệnh của trái tim riêng chứ không phải của
Ban Tuyên giáo. Bức “Hồ Chủ tịch làm việc ở Bắc Bộ phủ” của Tô Ngọc Vân
tuy xuất phát từ đề nghị của Hội Văn hóa Cứu quốc, song cảm xúc sâu đậm
của họa sĩ trước người mẫu mãi mãi còn lại trên mặt vải. Ngay cả người
có vẻ giữ một khoảng cách tỉnh táo, nhạc sĩ Phạm Duy, cũng không thể phủ
nhận ấn tượng đặc biệt khi gặp ông Hồ thuật lại trong hồi ký.
Quyền lực tha hóa và cám dỗ. Quyền lực
tuyệt đối tha hóa tuyệt đối và cám dỗ tuyệt đối. Thế kỷ hai mươi sinh ra
một loạt những nhân vật thâu tóm toàn bộ quyền lực của một phong trào,
một quốc gia hay thậm chí của cả một hệ thống vào riêng một cá nhân
mình. Các nhà độc tài đó đều dán lên trán một ý chí mãnh liệt và đội
trên đầu một cái Tôi khổng lồ. Trước ba thứ ấy cộng lại, một quyền lực
vô hạn, một ý chí vô song và một cái Tôi vô cùng, bị khuất phục trước
tiên là những kẻ thuộc giống nòi homo poeticus, nhất là khi nhà độc tài lại sính thơ phú văn chương. Pablo Neruda, Nobel 1971, không phải là nhà thơ duy nhất ca tụng Stalin ngoài Tố Hữu.
Nhà độc tài Cuba lại có nhiều hơn những
thứ ấy. Ông có một vẻ ngoài quyến rũ không chỉ phụ nữ, rất nhiều phụ nữ.
Khác với râu “Bác Hồ“ chỉ in dấu trong thơ ca Việt, râu Fidel và râu
Che Guevara đã vĩnh viễn gắn mác cho cách mạng Mỹ Latin, như tóc Beatles
ở phương Tây cho cách mạng văn hóa của giới trẻ. So với một phần nhỏ
các cuộc phiêu lưu của Fidel, những bộ phim Indiana Jones của Hollywood
thật nhạt nhẽo. Không lâu nữa câu chuyện người tình Đức của ông, nàng
Marita đem thuốc độc của CIA vứt vào bồn cầu dù bị chàng bạc đãi, sẽ lên màn ảnh,
để chúng ta thắt tim một lần nữa về tình yêu cứu rỗi trong khi chính
trị chỉ biết oán thù. Ông có thể tự giễu mình và pha trò đầy trí tuệ,
trong khi hài hước là hàng cấm tuyệt đối trên toàn cõi thị trường tư
tưởng Mác-Lê. Có thể tiếp cặp bom tấn tri thức Sartre và Simone de
Beauvoir hàng tiếng đồng hồ không hết chuyện, những người từng gặp từ
Mao, Khrushchev đến Tito và hầu hết các lãnh tụ cộng sản khác chỉ trừ Hồ
Chí Minh. Có thể đích thân đưa họ đi khắp Cuba bằng xe, bằng thuyền,
bằng trực thăng và bày những trò nghịch ngợm khác xa sự cứng đờ đầy nghi
ngờ cố hữu của giới lãnh đạo đỏ. Có thể tranh giải câu cá với Hemingway
và nghiêm túc thuật lại ba ngày vật lộn trong Ông già và Biển cả,
cho đến lúc ông lão Santiago phóng lao giết chết con cá kiếm khổng lồ.
Có thể hùng biện đúng 7 tiếng 15 phút đồng hồ không nghỉ trước Liên Hiệp
Quốc và thức thâu đêm tán chuyện với các nhà văn. Kịch tác gia Arthur Miller kể lại một chuyến thăm Cuba
năm 2000, ông già Fidel 74 tuổi tràn đầy sức sống, đầu vẫn sáng, lưỡi
vẫn dẻo, càng về khuya càng máu, trong khi người bạn chí cốt Gabo –
Gabriel García Márquez – nhỏ hơn một tuổi đã thẳng lưng ngủ ngồi trên
ghế bên cạnh từ lâu. Không ai hơn Gabo trong nghệ thuật ca ngợi Fidel.
Từ lời tựa của ông cho cuốn Habla Fidel
(1988) của nhà báo Ý Gianni Minà, tôi được biết: Ngoài vô vàn phẩm chất
phi thường như mỗi sáng điểm tâm bằng 200 trang tin tức, hay khả năng
miêu tả một trận đánh ở Angola như thể mình trực tiếp có mặt, Fidel còn
nấu ăn cực khoa học và mỗi ngày tập thể dục mấy tiếng đồng hồ. Quả là
một nhân vật như bước ra từ một cuốn tiểu thuyết của chính García
Márquez. Vị trưởng lão cuối cùng, sống sót qua cả mùa thu của cách mạng
Nam Mỹ, nay cũng theo người bạn quý ra đi.
Nhà văn Chile Roberto Bolaño trong cuộc
đời ngắn ngủi của mình đã dành nhiều công sức đào mồ chôn đặc sản văn
học của châu lục quê hương ông. Không ai còn có thể mất hồn vì những con
thỏ ăn thịt đồng loại rượt đuổi những con bò khổng lồ trên đồng cỏ Nam
Mỹ mênh mông nữa. Ông thấy những vụ quàng vai bá cổ của García Márquez
với các nhà độc tài khắp năm châu bốc mùi khủng khiếp và văn học hiện
thực huyền ảo còn bốc mùi nhiều hơn. Chủ nghĩa xã hội huyền ảo của Cuba,
cũng một đặc sản Nam Mỹ, hẳn cùng chung số phận. Cuối cùng, với tất cả
những lãng mạn xì-gà râu tóc, nó cũng chỉ là một phiên bản không mấy xa
nguyên bản chính thống đã thuộc về lịch sử.
Trong ký sự Cuba đã dẫn, mười sáu năm
trước, Arthur Miller nhận xét: Sau nửa thế kỷ nắm quyền, Fidel đã thành
một sinh thể lộn thời đại. Một chiếc đồng hồ cổ chỉ sai giờ, cứ đêm
khuya lại tùy tiện đánh chuông phá sự yên bình của cả xóm. Xóm nghèo
Cuba, anh hùng, lạc hậu như thuở nào, tiền đồn của một hệ thống đã biến
mất.