Những điểm yếu của Phong trào dân chủ Việt Nam (Việt Hoàng) (Phần 2e).

Đối lập cố gắng trấn an những người trong bộ máy chính quyền rằng sự thay đổi sẽ không đe dọa họ trong khi chính quyền cố gắng tạo tâm lý lo sợ những trả thù báo oán để đoàn kết nội bộ trong phản xạ tự vệ. Hòa giải và hòa hợp dân tộc là ngôn ngữ bắt buộc của một đối lập thông minh.




Thiếu một kịch bản thành công.


Mục tiêu cuối cùng của một tổ chức chính trị đó là chiến thắng trong một cuộc bầu cử dân chủ và minh bạch để nắm quyền hoặc nằm trong liên minh cầm quyền để rồi thực thi những dự án và đề nghị trước đó. Muốn thế tổ chức đó phải có một kịch bản để thắng lợi. Rất tiếc là hiện nay không phải tổ chức chính trị đối lập nào cũng có được “kịch bản thắng lợi”. Phần cuối của tài liệu “Văn hóa tổ chức” sẽ phác họa ra một kịch bản thắng lợi mà những người đấu tranh dân chủ VN có thể tham khảo và nghiên cứu.

Trong thế giới ngày nay khi tự do, tài sản và quyền lực đã trở thành những yếu tố không thể nhân nhượng và những tiêu chuẩn so sánh không thể tránh né, đấu tranh là giải pháp duy nhất cho bất công và áp bức.

Như đã trình bày ở phần trước, có ba nguyên nhân chính dẫn tới xung đột giữa các tập thể, trong đó đấu tranh chính trị là hình thức đầy đủ và mãnh liệt nhất. Trên thực tế các cuộc đấu tranh chính trị đều có sự hiện diện và phối hợp của cả ba nguyên nhân cùng một lúc. Cả ba động cơ xung đột này và các lý thuyết xây dựng chung quanh chúng đều cho thấy:

- Đấu tranh chính trị bao giờ cũng là đấu tranh giữa các tập thể và không bao giờ là đấu tranh cá nhân. Các cá nhân chỉ có thể luồn lách.

- Dù có thể có nhiều thành phần trong xã hội có lý do để đòi thay đổi, đấu tranh chính trị cuối cùng vẫn là cuộc đấu giữa hai tập thể. Tập trung lực lượng là điều bắt buộc trước giai đoạn quyết định.

Những điều khái quát vừa nhắc lại trên đây của các nghiên cứu về đấu tranh giữa các tập thể, đặc biệt là đấu tranh chính trị, thể hiện một cách rõ rệt và đầy đủ nhất trong những cuộc cách mạng, nghĩa là những cuộc đấu tranh chính trị mà mục đích là thay đối hẳn chế độ chính trị, các định hướng lớn và các định chế quan trọng nhất.

Điều cần được ý thức rõ là các nguyên nhân xung đột nói trên, dù hội đủ cả ba, không tự động đưa cuộc đấu tranh đến thắng lợi. Phải có những điều kiện thuận lợi và đấu tranh đúng phương pháp. Lịch sử thế giới không thiếu những cuộc đấu tranh rất chính đáng và rất hợp thời nhưng vẫn thất bại.

Chúng tôi xin nhắc lại bốn điều kiện cần và  đủ của một cuộc cách mạng và năm giai đoạn của cuộc vận động dân chủ mà THDCĐN đã nghiên cứu và đúc kết.

Bốn điều kiện:

Điều kiện thứ nhất là mọi người trong nước đồng ý rằng chế độ hiện hữu là tệ hại và phải thay đổi.

- Điều kiện thứ hai là đảng hay tập đoàn cầm quyền, vì mất đồng thuận trên lý tưởng chung hay vì bị ung thối, đã chia rẽ, phân hóa và đã mất bản năng tự tồn của một đoàn thể.

- Điều kiện thứ ba là đại đa số quần chúng đạt tới đồng tình về một chế độ mới và những mục tiêu quốc gia mới.

Điều kiện thứ tư là có một tập hợp chính trị xuất hiện phù hợp với nguyện ước của toàn dân làm điểm hội tụ cho những khát vọng đổi mới.

Năm giai đoạn:

Giai đoạn 1: Xây dựng một cơ sở tư tưởng

Giai đoạn 2:  Xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt

Giai đoạn 3:  Xây dựng và kiểm điểm phương tiện

Giai đoạn 4:  Xây dựng cơ sở quần chúng

Giai đoạn 5:  Tiến công giành thắng lợi

Trong bất cứ một cuộc tranh đấu nào thì nhiệm vụ “vận động quần chúng” cũng là việc bắt buộc phải làm. Tuy nhiên đây là giai đoạn cuối cùng chứ không phải giai đoạn đầu tiên. Có một số ngộ nhận về “vận động quần chúng”:

Ngộ nhận thứ nhất là cho rằng quần chúng là tất cả, quần chúng có thể động viên được một cách nhanh chóng và khi đã có quần chúng là sẽ thành công. Ngộ nhận này khiến người ta hăm hở vận động quần chúng dù chưa có chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức. (Có những tổ chức lỏng lẻo, hoàn toàn không có tư tưởng ra đời chỉ để sách động quần chúng).

- Ngộ nhận thứ hai là cho rằng nếu quần chúng phẫn nộ vì ý thức được rằng mình bị đàn áp và bóc lột thì họ sẽ đứng dậy đánh đổ chính quyền. Sự thực thì mọi kinh nghiệm đều cho thấy là một khối người dù đông đảo tới đâu và hoàn toàn đồng ý rằng mình bị áp bức cũng không đứng dậy tranh đấu. Họ chỉ đứng dậy tranh đấu nếu có một tổ chức lãnh đạo và tổ chức này phải đủ mạnh và gắn bó để khiến họ tin chắc vào thắng lợi.

Hai ngộ nhận này đưa tới tình trạng lạm phát tổ chức chống đối; người ta thành lập vội vã những tổ chức chỉ để gây tiếng vang và vận động quần chúng, với hậu quả là không làm được gì ngoài gây hỗn loạn và chia rẽ trong phe đối lập.

Tâm lý đám đông của quần chúng có hai hậu quả chính: một là quần chúng đòi hỏi lãnh đạo, do đó quần chúng chỉ có thể động viên được nếu có một tổ chức mạnh khởi xướng ; hai là, cũng như một đám đông, quần chúng được động viên do bị kích thích. Không có sự kích thích nào có thể kéo dài được, bởi vậy quần chúng chỉ có thể động viên được trong một thời gian ngắn. Tổ chức lãnh đạo vì vậy phải chuẩn bị trước kế hoạch để lợi dụng tối đa thời điểm thuận lợi này để đạt những kết quả dứt khoát không thể đảo ngược.

Những cố gắng xây dựng tổ chức và tranh thủ sự hưởng ứng cho dự án chính trị cũng đã là những cố gắng vận động quần chúng, tuy nhiên vận động quần chúng đứng dậy đấu tranh là giai đoạn cuối và quyết định của cuộc đấu tranh cách mạng, nó mãnh liệt đến nỗi ngôn ngữ chính trị dùng cụm từ "chiến tranh động viên".

Cuộc chiến tranh động viên diễn ra như sau:

- Một bên là phe đối lập cố gắng thuyết phục quần chúng rằng phải thay đổi tổ chức xã hội để tìm một lối thoát cho cả dân tộc ; một bên là đảng cầm quyền cố gắng trấn an quần chúng rằng có thể có giải pháp thăng tiến cho từng cá nhân trong khuôn khổ chế độ.  Đối lập hô hào thay đổi xã hội trong khi chính quyền đề cao sự linh động trong xã hội. Đối lập hô hào một giải pháp chung cho đất nước trong khi chính quyền hứa hẹn những thăng tiến cá nhân cho từng người. Tóm lại đối lập kêu gọi đoàn kết đấu tranh cho một giải pháp tập thể trong khi chính quyền khuyến khích tâm lý luồn lách để tìm giải pháp cá nhân.

- Đối lập tố giác những sai phạm của chính quyền và những thiệt hại gây ra cho quần chúng ; để chống trả, một chính quyền khôn ngoan không bao giờ nói là tất cả đều rất tốt và không có gì phải thay đổi, vì như thế là vô tình tiếp tay cho đối lập bởi vì khiến những người bị thua thiệt thấy là họ không có gì để hy vọng ở chế độ, trái lại nó luôn luôn nhìn nhận là có nhiều sai lầm và tỏ ra cố gắng sửa sai, dù những biện pháp sửa sai chỉ nhằm duy trì hiện trạng.

- Đối lập cố gắng thống nhất đội ngũ lãnh đạo vì đó là điều kiện bắt buộc để động viên quần chúng, quần chúng không thể đúng dậy nếu nhận được những lời kêu gọi mâu thuẫn từ nhiều tổ chức đối nghịch. Chính quyền cố gắng phân tán tối đa đối lập bằng mọi phương tiện, kể cả mua chuộc một số thành phần chống đối hay thành lập những tổ chức đối lập giả hiệu.

Đối lập kêu gọi hòa giải dân tộc để có đoàn kết và sức mạnh dân tộc, trong khi chính quyền cố hết sức để khơi dậy những tị hiềm và chia rẽ quần chúng để giữ quần chúng trong thế bất lực. Quần chúng gồm nhiều thành phần khác nhau, sự khác nhau này tự nó đã là một nguyên nhân chia rẽ, chưa kể là còn có thể có những tị hiềm do lịch sử để lại, trong khi đó thì cuộc nổi dậy nào của quần chúng cũng bắt đầu từ một biến cố khởi động xẩy ra cho một tập thể quần chúng, nếu tập thể này không được sự hưởng ứng của các tập thể khác, thậm chí còn bị chống đối, thì biến cố này không thể trở thành khởi điểm cho một cuộc nổi dậy của toàn dân. Một thí dụ cụ thể, trong nhiều thí dụ khác, là khi người công giáo tranh đấu, như biến cố Tam Tòa tại Quảng Bình năm 2009, chính quyền cộng sản đã khơi động tinh thần bài công giáo để huy động những phần tử quá khích hành hung các linh mục và giáo dân.

- Đối lập cố gắng trấn an những người trong bộ máy chính quyền rằng sự thay đổi sẽ không đe dọa họ trong khi chính quyền cố gắng tạo tâm lý lo sợ những trả thù báo oán để đoàn kết nội bộ trong phản xạ tự vệ. Hòa giải và hòa hợp dân tộc là ngôn ngữ bắt buộc của một đối lập thông minh.

Công tác động viên quần chúng cũng chỉ thành công nếu hội đủ ba điều kiện :

- Điều kiện thứ nhất là quần chúng cảm thấy mình là một thành phần bị một thành phần khác chà đạp và bóc lột.

- Điều kiện thứ hai là phải có những hứa hẹn cụ thể. Quần chúng không đủ hiểu biết và suy luận để có thể được hoàn toàn thuyết phục và động viên vì những phúc lợi của đạo đức chính trị, lòng yêu nước, tự do, dân chủ.

- Điều kiện thứ ba là quần chúng phải chắc chắn là cuộc đấu tranh sẽ thành công. Quần chúng không lãng mạn. Cũng không thể đòi hỏi sự dũng cảm và kiên trì nơi quần chúng. Dũng cảm và kiên trì là đặc tính của những tổ chức. Sự dũng cảm cá nhân không thể hiện qua tranh đấu, cùng lắm trong những trường hợp hạn hữu nó được biểu lộ qua những hy sinh trong trạng thái tâm thần không bình thường. Những người vượt biển ra đi đã rất can đảm về mặt cá nhân khi bước lên những con tàu ọp ẹp ra khơi, nhưng họ không dám chống chính quyền cộng sản trước khi ra đi và trên đường vượt biên cũng không chống lại bọn hải tặc uy hiếp họ vì không chắc thắng.

Nhưng khi nào thì quần chúng tin chắc vào thắng lợi ?

Câu trả lời của những kinh nghiệm lịch sử và những công trình nghiên cứu chính trị là khi quần chúng thấy có một tổ chức vừa đáp đúng nguyện vọng của họ vừa có đủ sức mạnh để giành thắng lợi. Sức mạnh được hiểu là phương tiện, trí tuệ, đội ngũ nòng cốt, uy tín của lãnh đạo, và nhất là sự gắn bó vì quần chúng nhìn một tổ chức như một người. Một tổ chức yếu về lực lượng hoặc chưa có uy tín dĩ nhiên không động viên được quần chúng. Một tổ chức không có nhất trí dưới mắt quần chúng giống như một người chưa biết mình muốn gì và do đó cũng không thể động viên được quần chúng.

Điều quan trọng cần được đặc biệt lưu ý là một khi đã được động viên thì lực lượng quần chúng phải được sử dụng ngay tức khắc để đạt thắng lợi. Quần chúng không kiên nhẫn, nếu thắng lợi không đến nhanh chóng khí thế đấu tranh sẽ nhường chỗ cho thất vọng.

Tóm lại, quần chúng chỉ động viên được vào lúc mà mọi cố gắng và hy sinh để thành công đã làm xong, thắng lợi đã chắc chắn và quần chúng không còn chọn lựa nào khác hơn là ủng hộ.

Động viên quần chúng là để buộc chính quyền phải nhượng bộ trước đe dọa của những hành động mãnh liệt như biểu tình lớn trên toàn quốc, chiếm đóng và làm tê liệt các cơ quan xí nghiệp, cuối cùng chiếm chính quyền dưới áp lực của đường phố, thâm chí nổi dậy võ trang nếu cần. Điều rất quan trọng cần được nhấn mạnh là trong đại đa số các trường hợp những hành động này không cần thiết. Một đối lập sáng suốt có thể không dùng tới những hành động này trong mọi trường hợp. Chỉ cần có khả năng lật đổ chính quyền bằng áp lực quần chúng là đủ. Chính quyền nào, dù ngoan cố và lì lợm đến đâu cũng sẽ tránh đối đầu nếu biết trước đối đầu sẽ thất bại.

Như thế tranh thủ và động viên quần chúng là điều phải làm, nhưng đưa quần chúng vào hành động là không cần thiết. Chỉ cần chứng tỏ có khả năng điều động quân chúng nổi dậy là đủ chứ không cần quần chúng thực sự nổi dậy.

Những ngộ nhận về vận động quần chúng chủ yếu do quan sát hời hợt không khí tưng bừng của những cuộc cách mạng đã thành công, người ta tưởng rằng các cuộc cách mạng đã thành công vì được quần chúng ủng hộ, trong khi thực ra quần chúng chỉ ủng hộ các cuộc cách mạng đó vì chúng đã thành công.

Trong lịch sử của các dân tộc, những cuộc đổi đời lớn đều là thành quả của những nhóm nhỏ đã có đủ trí tuệ để nhìn thấy hướng đi phải có cho xã hội và đã kiên trì đấu tranh, chấp nhận mọi cố gắng và hy sinh cho lý tưởng của họ. Sau cùng họ đã đánh bại được những tập đoàn cầm quyền nhiều lần mạnh hơn họ về cả phương tiện lẫn số lượng bởi vì họ là hiện thân của một tương lai bắt buộc phải đến trong khi tập đoàn cầm quyền là hiện thân của một thực trạng phải qua đi. Và họ đã có đủ quyết tâm và kiên trì, đã có đủ dũng cảm để vượt qua những thử thách để giành thắng lợi. Sự hưởng ứng của quần chúng sau cùng đã đến như là phần thưởng của những cố gắng.

Trên đây là những tóm lược chưa đầy đủ từ tài liệu ‘Văn hóa tổ chức’, một tài liệu lưu hành nội bộ trong THDCĐN. Thiết nghĩ vấn đề tổ chức là vấn đề quan trọng nhất của mọi tổ chức, dù là một tổ chức thuộc Xã Hội Dân Sự hay một tổ chức chính trị, vì thế chúng tôi sẽ sớm công bố tài liệu này trong thời gian gần nhất. Chúng tôi cũng nhận thức được rằng có nhiều vấn đề nêu ra trong tài liệu, dù biết rõ như vậy nhưng chúng tôi vẫn chưa làm được.

Lịch sử Việt Nam sẽ sớm sang trang, một liên minh giữa các tổ chức chính trị muốn hay không cũng phải hình thành. Vấn đề tổ chức với những đặc thù và khó khăn của nó sẽ ít nhiều gây ra những tranh cãi trong liên minh vì thế việc tìm hiểu và nhìn nhận những khó khăn, phức tạp sẽ góp phần giúp các tổ chức nhìn nhận đúng vấn đề.

Chúng tôi sẵn sàng lắng nghe các ý kiến đóng góp cũng như phản biện của tất cả các tổ chức chính trị khác để giảm dần sự khác biệt và cách nhìn nhận về văn hóa tổ chức để chúng ta sớm có thể đứng cùng nhau trong một liên minh dân chủ Việt Nam.

Việt Hoàng
(12/2016)