Những điểm yếu của Phong trào dân chủ Việt Nam (Việt Hoàng) (Phần 2d)
Phản ứng cá nhân là tránh xung đột,
cố gắng luồn lách để giải quyết các vấn đề cá nhân bằng những giải pháp cá
nhân, từ bỏ tập thể có căn cước bất lợi để cố gắng hội nhập vào tập thể thượng
lưu. Như trong thời Pháp thuộc đã có nhiều người từ bỏ căn cước Việt Nam, sống
như người Pháp và cố gắng để có quốc tịch Pháp hoặc được người Pháp tin dùng.
Thiếu tổ chức - Những nguyên nhân dẫn đến xung đột giữa các tập thể.
Phần tiếp theo trong tài liệu “Văn hóa tổ chức” của THDCĐN đó là những
phân tích về “những nguyên nhân gây ra xung đột giữa các tập thể”. Đây là những
khái niệm cơ bản mà các tổ chức chính trị và những người hoạt động chính trị
nên quan tâm.
Nói đến đấu tranh là nói đến
xung đột, bởi vì đấu tranh là nhằm xây dựng hay đề xướng một cái gì đó mà có thể
nhiều người chống lại hoặc để phản bác một điều mà một số người khác, vì chính
kiến hay vì quyền lợi, muốn duy trì. Xung đột giữa các thành phần xã hội với lập
trường trái ngược là không tránh khỏi. Tất
cả vấn đề chỉ là xung đột được giải quyết như thế nào, một cách ôn hòa qua thỏa
hiệp trong khuôn khổ một luật pháp được mọi người chấp nhận hay bằng sự đàn áp
của kẻ có bạo lực. Dân chủ là một phương thức tổ chức xã hội trong đó các xung
đột được giải quyết một cách văn minh, ngược lại độc tài là một cách giải quyết
hung bạo.
Một tổ chức, dù là tổ chức
chính trị hay phi chính trị, đều nhắm thay đổi một hiện trạng. Một hội từ thiện
nhắm thay đổi số phận của những người xấu số; các nhóm áp lực vận động để thay
đổi một số chính sách hoặc biện pháp; một tổ chức chính trị nhắm thay đổi cách
quản trị xã hội, hoặc bằng cách gây áp lực buộc nhà nước phải thực hiện những
thay đổi mong muốn nếu không đủ mạnh, hoặc bằng cách giành lấy chính quyền để
thực hiện mô hình xã hội và chính sách của của mình.
Như vậy một tổ chức chính trị đúng nghĩa phải được quan niệm như một dụng
cụ để thực hiện một dự án chính trị. Tổ chức phấn đấu giành chính quyền để thực
hiện dự án chính trị của mình. Đấu tranh chính trị cam go và tiêu biểu nhất là đấu tranh để thay đổi
chế độ chính trị, nghĩa là một cuộc cách mạng. Trong cuộc đấu tranh này đối thủ
của tổ chức là đảng cầm quyền nhưng cũng có thể là những chính đảng khác, vì
khác biệt chính kiến hay chỉ vì tranh giành ảnh hưởng. Điều đầu
tiên cần được ghi nhận là đấu tranh chính trị bao giờ cũng là đấu tranh có tổ
chức.
Phương thức giành chính quyền
đi qua nhiều giai đoạn nhưng cuối cùng hậu thuẫn quần chúng vẫn là yếu tố quyết
định.
Quần chúng được hiểu là khối đông đảo
những người không dành cho hoạt động chính trị một quan tâm bền bỉ nào và cũng
không tham gia một tổ chức chính trị nào. Một tiến sĩ chính trị học cũng thuộc
thành phần quần chúng nếu không đứng trong một tổ chức chính trị nào và không
có ý định hoạt động chính trị. Đặc điểm của quần chúng là không gắn bó, mỗi
người sống riêng lẻ, bình thường bất lực, khi được động viên thì ứng xử giống
như một đám đông, nghĩa là một khối nhiều người không biết nhau đi theo sự
hướng dẫn của những người cầm đầu.
Đâu là những nguyên nhân xung đột giữa các
tập thể? Có ba nguyên nhân chính đưa đến mâu thuẫn và xung đột giữa các tâp
thể:
1. Nguyên nhân thứ nhất là văn hóa.
Các thành viên của mỗi tâp thể thường ít
nhiều chia sẻ với nhau cùng một cách hình dung các tập thể khác. Cách hình dung này chủ yếu dựa trên hai
phương pháp: xếp loại và định hình.
- Xếp loại (categorization, catégorisation): phân chia các đối tượng thành những
thành phần theo một số tiêu chuẩn.
- Định hình (stereotype): toàn bộ những điều được coi là những
đặc tính chung về lối sống, thái độ, cách ứng xử v.v. của các thành viên của
một tập thể nào đó.
- Thành kiến (prejudice, préjugé): một lập trường hay một thái độ
có sẵn đối với một tập thể nào đó, thường thường không thuận lợi cho tập thể
này.
- Tập thể (group, groupe) : một khối người nhân định rằng mình có những điểm
chung và ít hay nhiều cảm thấy gắn bó với nhau về những điểm chung đó.
Xếp loại là điều bắt buộc cho tiến bộ, kể
cả tiến bộ khoa học, cho phép tiến tới từ những kết quả đã đạt được thay vì
phải lập lại mỗi lần những cố gắng trí tuệ. Thí dụ như khi khám phá ra một loại
động vật ăn cỏ mới thì người ta có nhiều lý do để tin rằng nó cũng có những đặc
tính của các loài vật ăn cỏ đã được biết. Điều cần cảnh giác là xếp loại thường
hay đi đôi với định hình và thành kiến và dễ dẫn tới kỳ thị và xung đột.
Định hình cũng là một điều cần thiết cho
hoạt động trí tuệ và cho đời sống. Không có bộ óc nào đủ mạnh để lý luận lại từ
đầu trong mọi trường hợp, chúng ta luôn luôn cần một có kết luận có sẵn để giản
dị hóa cách suy nghĩ và hành động. Thí dụ như thấy đèn đỏ thì phải dừng xe mà
không cần lý luận, ở nơi vắng vẻ thì nên tránh xa những người có bộ điệu hung
dữ v.v. Ngay trong khoa học cũng cần dựa trên các định lý, định luật mà nhiều
khi người ta đã quên cách chứng minh.
Tuy vậy đặc tính của những định hình trong
quan hệ xã hội là chúng thường chủ quan và thiên lệch. Một mặt chúng có khuynh
hướng đồng nhất hóa các thành viên của một tập thể khác bằng cách chú trọng tới
những điểm giống nhau và coi nhẹ những điểm khác nhau; đây là khuynh hướng đánh
đồng, cào bằng. Mặt khác chúng thường có khuynh hướng đánh giá thuận lợi cho tập
thể mình và bất lợi cho các tập thể khác (không thiếu những người cho rằng dân
tộc mình là tinh hoa nhất, như người Do Thái tự coi là dân tộc được Thượng Đế
chọn, người Việt Nam cho rằng văn hóa Việt Nam tinh hoa bậc nhất thế giới v.v.)
Mỗi tập thể có thể có những thành kiến và
định hình khác nhau về những tập thể khác. Thí dụ một số đông đảo người Châu Âu
nhìn người Do Thái như là người thông minh, kinh doanh giỏi nhưng keo kiệt; một
số người Việt Nam nhìn các ca sĩ như là lớp người phóng túng trong quan hệ nam
nữ v.v. Nếu những định hình này gợi ý một cách tiêu cực chúng có thể tạo ra một
tâm lý chống đối, thể hiện qua thái độ và cách ứng xử, dần dần tạo ra một thế
xung đột thực sự.
Như vậy, ngay do sự kiện hiển nhiên là có
những tập thể khác nhau trong xã hội mầm mống xung đột đã bắt đầu.
2. Nguyên nhân thứ hai là mâu thuẫn quyền
lợi.
Sự tranh giành quyền lợi và chỗ đứng gần
như là tự nhiên giữa các tập thể. Quyền lợi có thể là một tài nguyên thiên
nhiên, một thị trường, một ưu thế kinh tế, hay quyền lực chính trị. Chỗ đứng có
thể là sự kính nể và những ưu tiên mà một tập thể được hưởng trong xã hội, thí
dụ như những người có bằng cấp cao thường được dành một chỗ đứng cao trong xã
hội Việt Nam. Sau cùng, xã hội càng văn minh thì các quyền tự do căn bản càng
trở thành những quyền lợi phải được bảo vệ.
Trong các đối tượng tranh giành thì quyền
lực là điều tạo ra sự tranh giành gay go nhất. Tranh giành quyền lực diễn ra
giữa các tập thể cũng như ngay trong nội bộ các tập thể. Trong suốt quá trình
tiến hóa của loài người, trừ ở những nước văn minh trong một thời gian gần đây,
quyền lực đồng nghĩa với ưu tiên sử dụng thực phẩm và khả năng quyết định trên
tính mạng của người khác cho nên quyền lực gắn liền với an ninh và phúc lợi.
Dần dần tìm kiếm quyền lực trở thành một bản năng và quyền lực trở thành điều
tự nó đáng mơ ước.
Ngay trong các xã hội văn minh quyền lực
chính trị cũng là quyền lực cao nhất và là đầu mối của nhiều quyền lợi vật chất
cũng như tinh thần nhất, do đó cũng là nguyên nhân của những tranh giành mạnh
mẽ và khốc liệt nhất.
Một giải thích đầu tiên cho các xung đột
giữa các tập thể là lý thuyết thường được gọi là "lý thuyết các xung đột thực sự" cho rằng mọi xung đột giữ các tập thể đều có thể giải
thích bằng sự tranh giành một quyền lợi. Mọi tập thể đều hành động một các
thuần lý để giành phần hơn về mình. Xung đột xẩy ra khi quyền lợi của một tập
thể chỉ có thể được bảo đảm với sự xóa bỏ hoặc giảm thiểu quyền lợi của một tập
thể khác. Một thí dụ là nguồn nước Mékong. Lượng nước của Cam-bốt và Việt Nam
bị đe dọa nếu Trung Quốc và Thái Lan thẳng tay xây dựng các công trình giữ nước
trên thượng nguồn. Một thí dụ khác là các chính quyền tham nhũng. Quyền lợi của
người dân chỉ có thể cải thiện nếu sự bóc lột giảm bớt, nhưng bản chất của sự
bóc lột là tăng lên thay vì giảm xuống
cho nên chống đối chính quyền gần như là một bắt buộc của quần chúng nếu muốn
đẩy lùi tham nhũng.
Hậu quả không tránh khỏi của xung đột
quyền lợi là:
- Tập thể tự coi là bị thua thiệt nhìn tập
thể đối nghịch với con mắt thù ghét. Sự thù ghét này tăng lên với thời gian nếu
lý do xung đột kéo dài; trong trường hợp lý do không còn xung đột thì sự xung
đột cũng còn tiếp tục tồn tại trong một thời gian dài sau đó.
- Cảm giác bị thua thiệt làm gia tăng mức
độ liên đới giữa các thành viên trong tập thể nạn nhân.
- Với thời gian những định hình bất lợi về
tập thể đối nghịch xuất hiện và được tăng cường trong cả hai tập thể. Cả hai
bên đều ngày càng ghét nhau, người đáng quí nhất trong phe ta là người gần nhất
với mẫu người của phe ta trong khi kẻ đáng ghét nhất trong phe địch là kẻ tiêu
biểu nhất trong phe địch.
Một lý thuyết khác, được gọi là "lý thuyết các thiệt thòi tương
đối" phản bác và bổ túc lý thuyết trên. Theo lý thuyết này thì nguyên
nhân chính của xung đột không phải do mâu thuẫn quyền lợi, có thành phần được
ưu đãi và thành phần bị ngược đãi, có những người bóc lột và những người bị bóc
lột, mà ở chỗ thực tại không phù hợp với
mong đợi, những ước vọng chính đáng không được thỏa mãn.
Lý thuyết này đã được lịch sử kiểm chứng.
Có những dân tộc bị ức hiếp dã man trong hàng ngàn năm mà không bao giờ nổi dậy
đấu tranh để tự giải phóng. Ngược lại các cuộc cách mạng lớn đều do tầng lớp
khá giả cho rằng đáng lẽ mình phải có một chỗ đứng cao hơn và vùng dậy lật đổ
giai cấp thống trị. Trong sinh hoạt xã hội người ta cũng thấy là những thành
phần tương đối được ưu đãi thường dễ cảm thấy bất mãn và tranh đấu tích cực hơn
là những thành phần thực sự thiếu may mắn. Lý do là vì thành phần này tự so
sánh với thành phần có khả năng và có đóng góp tương đương với mình nhưng được
quyền lợi nhiều hơn và cảm thấy đó là một bất công không thể chấp nhận. Tóm lại
lý thuyết này cho rằng mâu thuẫn quyền lợi tuy là là điều kiện cần nhưng không
phải là động cơ thực sự của đấu tranh;
động cơ của đấu tranh là những mong đợi không được thỏa mãn. Những người không mong muốn một số phận khác
không bao giờ nổi dậy. Vẫn theo lý thuyết này, yếu tố quan trọng nhất, vượt
hẳn lên mọi yếu tố khác là nhận thức rằng có một chênh lệch quyền lợi và chỗ
đứng quá đáng và không thể chấp nhận giữa tập thể mình và một tập thể khác. Chỉ
có trong trường hợp này mới có thể xẩy ra đấu tranh quyết liệt.
Nhưng tại sao có những bất công quá đáng,
thậm chí rất dã man như trường hợp các pharaon Ai Cập bắt dân xây kim tự tháp
mà không bị chống đối? Đó là vì tầng lớp bị ức hiếp có một lý do nào đó để nghĩ
rằng sự bất công đó là bình thường, hoặc là vì người ức hiếp mình quá cao, hoặc
là vì chính mình quá thấp. Thí dụ người Ai Cập coi các pharaon không phải là người
mà là thần thánh, người Trung Quốc coi vua là được mệnh trời v.v. Điểm chung
của các tập đoàn bạo ngược là chúng thường tạo ra một huyền thoại nào đó để
chứng minh rằng họ là một loại người đặc biệt hoặc có công lao đặc biệt. Kẻ độc
tài nào cũng bắt các nạn nhân phải ghi ơn mình, hoặc tạo ra cho người dân mặc
cảm của kẻ có tội chỉ sống yên nhờ được tha thứ. Chỉ có tranh đấu khi những nạn
nhân tin rằng mình cũng không kém gì những kẻ thống trị mình và phải được đối
xử bình đẳng.
3. Nguyên nhân thứ ba là để bảo vệ hoặc
thăng tiến căn cước xã hội.
Một lý thuyết quan trọng khác về đấu tranh
xã hội, và đấu tranh chính trị nói riêng, coi xung đột là phương tiện để thăng
tiến căn cước xã hội, bằng cách thay đổi chỗ đứng tương đối giữa hai tập thể
trên một tiêu chuẩn so sánh quan trọng.
Căn cước xã hội (social identity, identité sociale), hay căn cước tập thể, là một phần của
mỗi người và gồm hai thành tố, một là ý thức rằng mình là thành viên của một tập
thể nào đó, hai là giá trị, ý nghĩa và sự gắn bó mà ta dành cho tư cách thành
viên này.
Căn cước xã hội vì thế rất quan trọng trong cái nhìn của xã hội, với những
hậu quả tinh thần và vật chất đi cùng với cái nhìn này. Một cách tự nhiên mọi
người đều muốn nâng cao căn cước xã hội để được quý trọng. Để hiểu lý thuyết này cần nhấn mạnh hai điểm:
Một là xung đột gay go dẫn đến tranh đấu chỉ xẩy ra trong sự tranh đua
giữa hai tập thể. Nếu một tập thể nào đó muốn cải
thiện căn cước xã hội của mình so với nhiều tập thể khác, nghĩa là muốn tiến
nhanh hơn hoặc vượt qua nhiều thành phần xã hội, thì đó chỉ là cố gắng thăng tiến
bình thường không tạo ra xung đột gay gắt.
Hai là tiêu chuẩn so sánh phải quan trọng. Mọi sự so sánh đều phải dựa
trên một tiêu chuẩn nào đó và sự hơn kém giữa hai tập thể thay đổi tùy theo
tiêu chuẩn so sánh. Nếu tiêu chuẩn là kiến thức thì thành phần trí thức hơn
thành phần lao động, nhưng vị trí tương đối sẽ ngược lại nếu sức bắp thịt được
chọn làm tiêu chuẩn. Trong thí dụ này cả hai tiêu chuẩn đều không đủ quan trọng
để tạo ra xung đột. Xung đột chỉ có thể có khi tiêu chuẩn so sánh quan trọng đến
nỗi tập thể thua kém không thể chấp nhận sự thua kém trong khi tập thể được ưu
đãi cũng khó từ bỏ. Những tiêu chuẩn nhạy cảm và có sức động viên nhất là nhân
phẩm, quyền lợi kinh tế và nhất là quyền lực chính tri.
Căn cước xã hội không trừu tượng như người ta có thể lầm tưởng. Nó là một
phần của chính con người cho nên người ta rất đau nhức khi nó bị chà đạp. Hơn nữa
cái nhìn của xã hội cũng luôn luôn đi kèm với những quyền lợi rất cụ thể như khả
năng tìm công ăn việc làm, khả năng thăng tiến v.v. Căn cước xã hội là động cơ đấu tranh mạnh nhất. Trong lịch sử Việt
Nam chưa có giai đoạn nào nước ta phát triển mạnh bằng thời kỳ Pháp thuộc. Văn
hoá, kinh tế, hạ tầng cơ sở, dân sinh, dân quyền đều được cải thiện một cách
ngoạn mục như chưa bao giờ thấy; người Pháp còn mở mang lãnh thổ và giành được
cho chúng ta những thỏa ước biên giới với Trung Quốc rất thuận lợi cả trên đất
liền lẫn trên biển. Dù vậy, đa số người Việt đã sẵn sàng hy sinh, kể cả hy sinh
tính mạng, để chấm dứt chế độ Pháp thuộc và giành lại độc lập. Đó là vì căn cước
dân tộc bị xúc phạm; người Việt Nam bị coi như là thấp kém so với người Pháp.
Trước một căn cước xã hội bất lợi con người có thể có hai cách phản ứng:
phản ứng cá nhân hay phản ứng tập thể.
Phản ứng cá nhân là tránh xung đột,
cố gắng luồn lách để giải quyết các vấn đề cá nhân bằng những giải pháp cá
nhân, từ bỏ tập thể có căn cước bất lợi để cố gắng hội nhập vào tập thể thượng
lưu. Như trong thời Pháp thuộc đã có nhiều người từ bỏ căn cước Việt Nam, sống
như người Pháp và cố gắng để có quốc tịch Pháp hoặc được người Pháp tin dùng.
Như hiện nay nhiều người cố gắng để được kết nạp vào đảng cộng sản hoặc được đảng
cộng sản chấp nhận.
Tuy nhiên, chiến lược luồn lách chỉ giải quyết được mâu thuẫn
và tránh được xung đột giữa hai tập thể nếu nó có khả năng thỏa mãn được tất cả
hoặc đa số thành viên của tập thể bị bạc đãi. Muốn như vậy thì phải có hai điều
kiện. Một là tập thể thượng lưu phải đủ cởi mở để sẵn sàng chấp nhận tất cả
thành viên của tập thể thua thiệt (người Pháp phải sẵn sàng để mọi người Đông
Dương trở thành công dân Pháp và đảng cộng sản phải sẵn sàng chấp nhận mọi người
Việt Nam vào đảng). Hai là tất cả hoặc đa số thành viên của tập thể thua thiệt
phải vừa chấp nhận từ bỏ căn cước của mình, nghĩa là một phần của chính mình, để
bị đồng hóa vừa có khả năng hội nhập vào tập thể thượng lưu. Cả hai điều kiện
này đều rất khó, hội đủ cả hai cùng một lúc là điều không thể có. Cho nên chủ
nghĩa luồn lách chỉ là giải pháp cho một số rất ít người.
Tuy vậy, phản ứng tập thể không nhất thiết đưa đến xung đột và đấu
tranh. Nó cũng có thể là cam chịu hoặc đặt vấn đề một cách khác để tránh xung đột.
Đạo Phật, đặc biệt là Phật Giáo Tiểu Thừa, là cách giải quyết vấn đề nghèo khổ
và ức hiếp bằng cách không quan tâm tới cuộc đời và tìm hạnh phúc trong sự triệt
thoái về nội tâm và ngay trong chính sự nghèo khổ. Giai cấp sĩ phu Trung Quốc
và Việt Nam trước đây lấy văn thơ và kinh sách thánh hiền làm thước đo giá trị
con người để hãnh diện an bần lạc đạo và được coi là giai cấp đứng đầu xã hội,
trong khi giai cấp thương nhân bị đánh giá thấp nhất trong xã hội lại lấy sự giầu
có làm tiêu chuẩn so sánh để thấy mình là giai cấp thoải mái nhất. Các chiến lược
tập thể nhắm tránh né xung đột này đã khiến con người chấp nhận thân phận mình
và tạo ra một giai đoạn ổn định kéo dài rất lâu trong lịch sử Trung Quốc và Việt
Nam.
Đấu tranh chỉ xẩy ra nếu một mặt giai cấp
bị thua thiệt không thể tìm ra một tiêu chuẩn so sánh nào khác để thay thế tiêu
chuẩn đã phơi bày sự thua thiệt của họ và, mặt khác, nếu các thành viên của tập
thể thua thiệt ý thức rằng phải có một giải pháp chung cho cả tập thể chứ không
thể luồn lách để tìm giải pháp cá nhân cho từng người một.
(Còn tiếp)
Việt Hoàng
(12/2016)