Lịch sử phải trung thực và khách quan, không phải để tuyên truyền (Tuấn Khanh , Nguyên Không)
Người dân hai miền có cần tranh luận về lịch sử Trung đại hay không ?
Trong suốt tháng 10, kéo qua tháng 11/2025, chủ đề tranh cãi về lịch sử Việt Nam ồn ào không kém gì các cơn bão ập vào đất nước.

Nhìn qua vấn đề của các cuộc tranh luận có thể thấy, phía ngôn luận có từ thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đối lập với giáo dục lịch sử thời Việt Nam Cộng Hòa ở một điểm duy nhất : Miền Bắc gắn nhận định chính trị và định kiến vào quá khứ, và lặp lại quan điểm của các lãnh tụ chính trị như khẩu ngữ để xác định thái độ, và thiếu hẳn tư duy học thuật lịch sử, đối thoại, nghiên cứu đủ sâu và trung dung.
Các cuộc tranh luận như vậy là một biểu hiện cho thấy, sau giai đoạn thống nhất được đồng tiền và đường đi ; tinh thần văn hóa và giáo dục là một vấn đề vô cùng trắc trở, nên chuyện "thống nhất", có lẽ còn cam go hơn cả súng đạn.
Rất nhiều nhà tri thức, nhà nghiên cứu phía Nam (từ vĩ tuyến 17 trở vào) đã cố gắng dẫn chứng những tài liệu và những nghiên cứu không chỉ của người Việt, mà của cả nước ngoài đã chứng minh rằng những quan điểm áp đặt trong lịch sử là sai lầm.
Chỉ cần tập hợp những tài liệu được giảng giải và bình luận trên mạng xã hội, chống lại chuyện đả phá điên cuồng trong suốt một tháng vừa rồi, cũng đủ góp thành một tập tiểu luận đáng giá và nghiêm túc về lịch sử, cực kỳ quan trọng cho thế hệ trẻ về sau tham khảo.
Qua các cuộc tranh luận, có thể thấy những ngôn ngữ gượng nhẹ và cố gắng nói một cách tế nhị, mô tả cách nhận định lịch sử của các nhà sử học của phía Bắc là "chưa đủ", còn có "cái nhìn sơ lược"… thật ra, cách "góp ý trong tình dân tộc" ấy, vẫn không nói hết được vấn đề.
Nếu không có một lần nói thật, nó sẽ là sự chia cắt mù mờ mãi mãi trong lòng một dân tộc có hàng ngàn năm lịch sử.
Khi nhận định về vấn đề sự khác biệt, quan điểm lịch sử giữa các nhà sử học – được coi là ngôn luận chính – của hai quốc gia hình thành sau 1954 tại Việt Nam, đều cần phải nhấn mạnh rằng có hai loại nhà sử học ở đây.
Thứ nhất là các nhà sử học, nghiên cứu với tinh thần trung dung dựa trên những thuyết phân tích, hiện đại và những chứng cứ tham khảo công phu, thiên về phía văn hóa của miền Nam từ sau 1954 kết thúc năm 1975, được nối dài ở các cộng đồng Việt bên ngoài Việt Nam.
Loại thứ hai là các nhà sử học, phát triển theo tinh thần được chỉ đạo và bổ sung, làm đầy đặn thêm những quan điểm chính trị, ý thức hệ của các bậc lãnh tụ chỉ đạo đưa xuống. Đây là các nhà sử học phía miền Bắc. Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng có những nhà sử học chân chính vẫn vượt rào, cất tiếng nói độc lập, nói lại như nhà sử học Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê… Hôm nay, khi đất nước kết nối với thế giới văn minh, cũng không ít có những học giả, trí thức của miền Bắc có nhận định đúng đắn và cũng lên tiếng phản bác lại những quan điểm chà đạp lịch sử một cách vô cương như đã có.
Miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hay còn gọi là miền Bắc cộng sản, có khuynh hướng dùng lịch sử như một công cụ để giáo dục và tuyên truyền về ý thức hệ hơn là nhìn nhận chân thật về những gì diễn ra trong quá khứ.
Sự khác biệt về nhận thức lịch sử bùng lên hôm nay, hầu hết dựa thế mạnh ngôn luận của nhà nước cầm quyền hiện thời, mà vốn từ lâu đã chủ trương đánh giá lịch sử theo tinh thần thượng tôn nhiệm vụ cách mạng, đả phá phong kiến, và quan trọng nhất là phải chứng minh có hệ tư tưởng khác biệt với miền nam Việt Nam Cộng Hòa.
Câu hỏi đặt ra rằng sự hình thành của các lý luận CHỦ TRƯƠNG khác biệt này, bắt nguồn từ đâu ?
Mọi thứ bắt đầu từ hệ thống xét lại, viết lại quá khứ của khối xã hội chủ nghĩa, khởi đầu từ sau 1917 ở Nga, như một kịch bản mới, mà mục đích là phần nhận định của mình, sẽ có lợi cho mình, tạo giá trị tôn vinh cho mình ở thời hiện đại.
Thời Liên Xô người ta đã nhìn thấy vô số những bài viết, hay sách lịch sử viết lại và nhận định sai về thời Sa hoàng. Sau 1990, việc tôn trọng những giá trị lịch sử đã có là một trong những yếu tố tiên quyết để nước Nga xây dựng lại mọi thứ. Những nghiên cứu mới và nhận định đúng về các chế độ và con người trước thời cộng sản, bắt đầu được viết lại một cách tử tế, có học thức hơn.
Thời Trung quốc Cách mạng khởi đầu cũng có hàng loạt những nghiên cứu và sách nhận định, cố ý phỉ báng về Tưởng Giới Thạch, Khổng Tử hay Tần Thủy Hoàng… Tóm lại những ngôn ngữ thời đó thì cũng miệt thị và chà đạp lịch sử không khác những ngôn ngữ nói về lịch sử Việt Nam hiện nay, đang nổi phồng phềnh lên trên mạng. Mục đích lúc đó cũng rất rõ : Tư duy của một nước Trung Cộng, bắt buộc phải khác một nước Trung Quốc không cộng sản.
Giáo dục lịch sử của Bắc Hàn cũng khác hẳn với Nam Hàn, được chính trị hóa và phục vụ cho tư tưởng Juche (tự cường). Bắc Hàn luôn nhấn mạnh "Dân tộc Triều Tiên vĩ đại, lâu đời, đấu tranh chống ngoại xâm", trong đó nhà lãnh đạo duy nhất là trung tâm tinh thần, "người kế tục truyền thống dân tộc" là chính quyền Kim, ngoài ra, mọi thứ là thế lực thù địch. Ở đây thế lực thù địch có thể là ngoại bang và bao gồm cả người cùng trong một đất nước cùng tiếng nói, màu da.
Việt Nam cũng không độc lập trong vòng xoáy đó. Trên nền tảng lịch sử phải được sử dụng để phục vụ tư tưởng chính trị "cách mạng", mọi thứ đều nằm trong nhiệm vụ xét lại lịch sử của chính dân tộc mình để phục vụ cho ý thức hệ, sản sinh ra một lớp người bị thao túng và hoàn toàn mơ hồ về lịch sử cha ông, dẫn đến những cuộc tranh luận phỉ báng và xé nát ngày hôm qua, vốn đã dựng nên một nước Việt Nam hôm nay.
Vấn đề cốt lõi, không phải là tranh luận để tìm ra ai đúng ai sai lúc này, mà phải thay đổi về ý thức hệ cộng sản – như sợi chỉ đỏ xuyên suốt – vẫn đang sử dụng lịch sử của đất nước mình như một công cụ để phục vụ cho con đường chính trị.
Đây là giai đoạn cần thiết, vì khi các quốc gia cộng sản hàng đầu như Nga Sô hay Trung Quốc đã bắt đầu nhìn lại, và viết lại lịch sử một cách đúng đắn để dân tộc có thể phát triển bình thường (dĩ nhiên ngoại trừ Bắc Hàn thì vẫn là một ốc đảo điên cuồng trên thế giới).
Việc để xảy ra những chuyện tranh luận, chửi bới, phủ nhận tiền nhân, đàn áp những ngôn luận học thuật, và gây ra một vết thương không lành trong lòng dân tộc. Đó là lỗi hoàn toàn thuộc về những người cầm quyền.
Nhưng những người cầm quyền hôm nay cũng đừng quên : Ngay cả những lý thuyết tạo dựng của họ cũng có thể dễ dàng sụp đổ bởi những phân tích hiện đại chính xác và rành mạch, nếu họ cho phép những cuộc tranh luận công khai và công bằng.
Chiêm nghiệm từ "Quê Hương Hiu Hắt Bến Cỏ Hồng" của hòa thượng Thích Phước An
Có một câu chuyện kể về vị thiền sư vô danh ở Nhật ở thế kỷ thứ 16, văn bản xưa trong đền cổ ghi lại rằng dân chúng thời đó trong vùng Tokai, miền Trung Nhật Bản, ít người nào có thể hiểu được ngài. Mặc dù được kính trọng nhưng ông cũng bị nhiều người coi là một kẻ tu hành khùng điên.

Trong một lần đi ra sông lấy nước, người dân nhìn thấy ông đột nhiên dừng lại, cúi xuống và hốt từ thinh không lên cái gì đó, nhìn ngắm một cách tần ngần, rồi phất tay bỏ đi.
Vì tò mò, nhiều người cũng đã chạy đến và quan sát xem thiền sư đã tìm thấy điều gì nơi đó. Nhưng rồi mọi thứ chỉ là sỏi đá trơ trọi. Có người có đuổi theo thiền sư và hỏi rằng "ngài vừa nhặt gì đấy ?". Con người bị coi là điên khùng đó im lặng một lát rồi trả lời "thời gian". Dân chúng ngơ ngác nhìn quanh, rồi lại hỏi "thời gian ở đâu, của ai ?". Vị thiền sư đáp nhanh rồi quay lưng bỏ đi "thời gian của ta và các ngươi, nhưng chỉ là những loại thời gian đáng vứt đi".
Khi gấp lại những trang cuối của Quê hương hiu hắt bến cỏ hồng của tác giả Thích Phước An, bất giác tôi nghĩ đến hình ảnh ông như một con người cô đơn và lặng lẽ giữa thế gian này, dành trọn cả một đời để luôn nhìn ngắm lại bức tranh thời gian, nhặt nhạnh lại những điều đẹp nhất, tô điểm và nhẹ nhàng khắc cẩn gửi vào bảo tàng của ký ức cho người Việt về sau.
Đã từng có người hỏi rằng vì sao một tu sĩ lại nói về thơ văn nhiều đến vậy. Nhưng với tác giả Thích Phước An, ông ôm cái đẹp vào lòng và cầu nguyện cho nó.
Lặng lẽ như vị thiền sư bị coi là điên khùng ở nước Nhật xa xôi, cũng có một vị tu sĩ ở Việt Nam rảo bước qua cõi nhân sinh, luôn cúi nhặt trên đường đi của mình những mảnh vụn của thời gian. Chắp nối nhẫn nại và đầy yêu thương để dựng thành một tấm gương xưa, đủ để mọi người soi lại chính mình, soi lại cõi sống của mình, soi để biết rõ những loanh quanh kiếm tìm hữu hạn của chúng ta và cái đẹp vô hạn của trần thế.
Quyển bút ký Quê hương hiu hắt bến cỏ hồng nhắc nhiều đến Quách Tấn, Tuệ Sỹ, Võ Hồng, Nguyễn Đức Sơn, Hoài Khanh… Những tri kỷ của núi sông đã vận dụng mọi từ ngữ cao quý nhất của mình, để mô tả vẻ đẹp của quê hương Việt Nam, đời Việt Nam. Từ trang đầu đến cuối, quyển sách mở ra những con đường làng thơ mộng, những khó khăn hữu duyên đến rồi đi qua và trở thành thi vị, những kí ức đẹp nhất về mẹ, về thời gian sống giản đơn… mà đôi khi ngoái nhìn lại, có thể rơi nước mắt vì thương nhớ khôn cùng.
Nhưng không chỉ vậy, trong tấm gương xưa mà tác giả Thích Phước An dựng lại, có đủ các chân dung của đời, thường bị quên lãng bởi thời gian, và cả thời thế. Các trích dẫn được ông đưa ra, chứa ngồn ngộn những biến động của lịch sử, thúc giục tầm nguyên. Chẳng hạn như đọc lại hai câu thơ của Tuệ Sỹ mà ngẩn ngơ :
Năm tháng bỗng vụt hiện về, can qua lại mịt mờ trong tâm trí, nhưng từ đó, hiển lộ đức năng uy vũ bất năng khuất của một người học Phật, một chí sĩ luôn ngạo nghễ trước mọi nguy nan.
Với nhà thơ trác tuyệt Nguyễn Đức Sơn, tác giả mô tả tài tình một nhà thơ say cuồng trí tuệ, thách thức mọi sự tăm tối của đồng loại, nhưng ẩn trong ngôn từ và hành xử là sự khắc khoải bất tận trước cái tôi yếu đuối giữa vũ trụ này. Khắc khoải đến hiu quạnh.
Đọc mà nghe như giữa cuộc chiến khốc liệt, bỗng vang vọng tiếng cười kiêu bạc. Mọi mưu mô thâm hiểm cho đến những khát vọng vĩ đại của thời đại, đều vô nghĩa.
Người Việt đã từng hay đến vậy. Trí tuệ Việt đã từng vời vợi như vậy. Chúng ta từng có tất cả đó thôi. Đọc sách, mà bật lên tiếng lòng xao xuyến. Từng lời kể giản đơn trong Quê hương hiu hắt bến cỏ hồng cứ thấm dần qua từng trang giấy. Sột soạt như đôi giày cỏ thầm lặng bước ở ven đường. Chậm rãi và an nhiên như một lữ khách đi qua địa cầu, tác giả ghi chép kỹ lưỡng những gì mình nhìn thấy, vì biết rõ chỉ còn lại một ít thời gian ở kiếp máu đỏ da vàng này như duyên nghiệp.
Những niên kỷ được trao lại, với sự da diết và tụng ca, là khoảng không giữa những nhịp tim mỗi người : còn không, chúng ta có còn những điều đẹp đẽ đó không, hay đã phai nhạt dần trong ký ức từng ngày ? Đọc những dòng soi vào thời gian và trao lại từ bậc trí giả im lặng, thấy sấm động đâu đó trong trái tim mình.
À, hóa ra quê hương hiu hắt là như vậy, khi kho báu của người đi trước để lại bị quên lãng. Bên bến cỏ hồng, rất nhiều người đã bước ra đi, nhưng dường như ít người ngoảnh lại.
À, hóa ra quê hương hiu hắt là như vậy, khi chỉ là bến tiễn những đứa con ra đi, tiễn những điều đẹp nhất đi vào sương khói.
Tuấn Khanh, 08/11/2025
Trong suốt tháng 10, kéo qua tháng 11/2025, chủ đề tranh cãi về lịch sử Việt Nam ồn ào không kém gì các cơn bão ập vào đất nước.

Nhìn qua vấn đề của các cuộc tranh luận có thể thấy, phía ngôn luận có từ thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đối lập với giáo dục lịch sử thời Việt Nam Cộng Hòa ở một điểm duy nhất : Miền Bắc gắn nhận định chính trị và định kiến vào quá khứ, và lặp lại quan điểm của các lãnh tụ chính trị như khẩu ngữ để xác định thái độ, và thiếu hẳn tư duy học thuật lịch sử, đối thoại, nghiên cứu đủ sâu và trung dung.
Các cuộc tranh luận như vậy là một biểu hiện cho thấy, sau giai đoạn thống nhất được đồng tiền và đường đi ; tinh thần văn hóa và giáo dục là một vấn đề vô cùng trắc trở, nên chuyện "thống nhất", có lẽ còn cam go hơn cả súng đạn.
Rất nhiều nhà tri thức, nhà nghiên cứu phía Nam (từ vĩ tuyến 17 trở vào) đã cố gắng dẫn chứng những tài liệu và những nghiên cứu không chỉ của người Việt, mà của cả nước ngoài đã chứng minh rằng những quan điểm áp đặt trong lịch sử là sai lầm.
Chỉ cần tập hợp những tài liệu được giảng giải và bình luận trên mạng xã hội, chống lại chuyện đả phá điên cuồng trong suốt một tháng vừa rồi, cũng đủ góp thành một tập tiểu luận đáng giá và nghiêm túc về lịch sử, cực kỳ quan trọng cho thế hệ trẻ về sau tham khảo.
Qua các cuộc tranh luận, có thể thấy những ngôn ngữ gượng nhẹ và cố gắng nói một cách tế nhị, mô tả cách nhận định lịch sử của các nhà sử học của phía Bắc là "chưa đủ", còn có "cái nhìn sơ lược"… thật ra, cách "góp ý trong tình dân tộc" ấy, vẫn không nói hết được vấn đề.
Nếu không có một lần nói thật, nó sẽ là sự chia cắt mù mờ mãi mãi trong lòng một dân tộc có hàng ngàn năm lịch sử.
Khi nhận định về vấn đề sự khác biệt, quan điểm lịch sử giữa các nhà sử học – được coi là ngôn luận chính – của hai quốc gia hình thành sau 1954 tại Việt Nam, đều cần phải nhấn mạnh rằng có hai loại nhà sử học ở đây.
Thứ nhất là các nhà sử học, nghiên cứu với tinh thần trung dung dựa trên những thuyết phân tích, hiện đại và những chứng cứ tham khảo công phu, thiên về phía văn hóa của miền Nam từ sau 1954 kết thúc năm 1975, được nối dài ở các cộng đồng Việt bên ngoài Việt Nam.
Loại thứ hai là các nhà sử học, phát triển theo tinh thần được chỉ đạo và bổ sung, làm đầy đặn thêm những quan điểm chính trị, ý thức hệ của các bậc lãnh tụ chỉ đạo đưa xuống. Đây là các nhà sử học phía miền Bắc. Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng có những nhà sử học chân chính vẫn vượt rào, cất tiếng nói độc lập, nói lại như nhà sử học Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê… Hôm nay, khi đất nước kết nối với thế giới văn minh, cũng không ít có những học giả, trí thức của miền Bắc có nhận định đúng đắn và cũng lên tiếng phản bác lại những quan điểm chà đạp lịch sử một cách vô cương như đã có.
Miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hay còn gọi là miền Bắc cộng sản, có khuynh hướng dùng lịch sử như một công cụ để giáo dục và tuyên truyền về ý thức hệ hơn là nhìn nhận chân thật về những gì diễn ra trong quá khứ.
Sự khác biệt về nhận thức lịch sử bùng lên hôm nay, hầu hết dựa thế mạnh ngôn luận của nhà nước cầm quyền hiện thời, mà vốn từ lâu đã chủ trương đánh giá lịch sử theo tinh thần thượng tôn nhiệm vụ cách mạng, đả phá phong kiến, và quan trọng nhất là phải chứng minh có hệ tư tưởng khác biệt với miền nam Việt Nam Cộng Hòa.
Câu hỏi đặt ra rằng sự hình thành của các lý luận CHỦ TRƯƠNG khác biệt này, bắt nguồn từ đâu ?
Mọi thứ bắt đầu từ hệ thống xét lại, viết lại quá khứ của khối xã hội chủ nghĩa, khởi đầu từ sau 1917 ở Nga, như một kịch bản mới, mà mục đích là phần nhận định của mình, sẽ có lợi cho mình, tạo giá trị tôn vinh cho mình ở thời hiện đại.
Thời Liên Xô người ta đã nhìn thấy vô số những bài viết, hay sách lịch sử viết lại và nhận định sai về thời Sa hoàng. Sau 1990, việc tôn trọng những giá trị lịch sử đã có là một trong những yếu tố tiên quyết để nước Nga xây dựng lại mọi thứ. Những nghiên cứu mới và nhận định đúng về các chế độ và con người trước thời cộng sản, bắt đầu được viết lại một cách tử tế, có học thức hơn.
Thời Trung quốc Cách mạng khởi đầu cũng có hàng loạt những nghiên cứu và sách nhận định, cố ý phỉ báng về Tưởng Giới Thạch, Khổng Tử hay Tần Thủy Hoàng… Tóm lại những ngôn ngữ thời đó thì cũng miệt thị và chà đạp lịch sử không khác những ngôn ngữ nói về lịch sử Việt Nam hiện nay, đang nổi phồng phềnh lên trên mạng. Mục đích lúc đó cũng rất rõ : Tư duy của một nước Trung Cộng, bắt buộc phải khác một nước Trung Quốc không cộng sản.
Giáo dục lịch sử của Bắc Hàn cũng khác hẳn với Nam Hàn, được chính trị hóa và phục vụ cho tư tưởng Juche (tự cường). Bắc Hàn luôn nhấn mạnh "Dân tộc Triều Tiên vĩ đại, lâu đời, đấu tranh chống ngoại xâm", trong đó nhà lãnh đạo duy nhất là trung tâm tinh thần, "người kế tục truyền thống dân tộc" là chính quyền Kim, ngoài ra, mọi thứ là thế lực thù địch. Ở đây thế lực thù địch có thể là ngoại bang và bao gồm cả người cùng trong một đất nước cùng tiếng nói, màu da.
Việt Nam cũng không độc lập trong vòng xoáy đó. Trên nền tảng lịch sử phải được sử dụng để phục vụ tư tưởng chính trị "cách mạng", mọi thứ đều nằm trong nhiệm vụ xét lại lịch sử của chính dân tộc mình để phục vụ cho ý thức hệ, sản sinh ra một lớp người bị thao túng và hoàn toàn mơ hồ về lịch sử cha ông, dẫn đến những cuộc tranh luận phỉ báng và xé nát ngày hôm qua, vốn đã dựng nên một nước Việt Nam hôm nay.
Vấn đề cốt lõi, không phải là tranh luận để tìm ra ai đúng ai sai lúc này, mà phải thay đổi về ý thức hệ cộng sản – như sợi chỉ đỏ xuyên suốt – vẫn đang sử dụng lịch sử của đất nước mình như một công cụ để phục vụ cho con đường chính trị.
Đây là giai đoạn cần thiết, vì khi các quốc gia cộng sản hàng đầu như Nga Sô hay Trung Quốc đã bắt đầu nhìn lại, và viết lại lịch sử một cách đúng đắn để dân tộc có thể phát triển bình thường (dĩ nhiên ngoại trừ Bắc Hàn thì vẫn là một ốc đảo điên cuồng trên thế giới).
Việc để xảy ra những chuyện tranh luận, chửi bới, phủ nhận tiền nhân, đàn áp những ngôn luận học thuật, và gây ra một vết thương không lành trong lòng dân tộc. Đó là lỗi hoàn toàn thuộc về những người cầm quyền.
Nhưng những người cầm quyền hôm nay cũng đừng quên : Ngay cả những lý thuyết tạo dựng của họ cũng có thể dễ dàng sụp đổ bởi những phân tích hiện đại chính xác và rành mạch, nếu họ cho phép những cuộc tranh luận công khai và công bằng.
Tuấn Khanh
Nguồn : nhacsituankhanh, 08/11/2025
********************************
Chiêm nghiệm từ "Quê Hương Hiu Hắt Bến Cỏ Hồng" của hòa thượng Thích Phước An
Nguyên Không, 27/10/2025
Có một câu chuyện kể về vị thiền sư vô danh ở Nhật ở thế kỷ thứ 16, văn bản xưa trong đền cổ ghi lại rằng dân chúng thời đó trong vùng Tokai, miền Trung Nhật Bản, ít người nào có thể hiểu được ngài. Mặc dù được kính trọng nhưng ông cũng bị nhiều người coi là một kẻ tu hành khùng điên.

Trong một lần đi ra sông lấy nước, người dân nhìn thấy ông đột nhiên dừng lại, cúi xuống và hốt từ thinh không lên cái gì đó, nhìn ngắm một cách tần ngần, rồi phất tay bỏ đi.
Vì tò mò, nhiều người cũng đã chạy đến và quan sát xem thiền sư đã tìm thấy điều gì nơi đó. Nhưng rồi mọi thứ chỉ là sỏi đá trơ trọi. Có người có đuổi theo thiền sư và hỏi rằng "ngài vừa nhặt gì đấy ?". Con người bị coi là điên khùng đó im lặng một lát rồi trả lời "thời gian". Dân chúng ngơ ngác nhìn quanh, rồi lại hỏi "thời gian ở đâu, của ai ?". Vị thiền sư đáp nhanh rồi quay lưng bỏ đi "thời gian của ta và các ngươi, nhưng chỉ là những loại thời gian đáng vứt đi".
Khi gấp lại những trang cuối của Quê hương hiu hắt bến cỏ hồng của tác giả Thích Phước An, bất giác tôi nghĩ đến hình ảnh ông như một con người cô đơn và lặng lẽ giữa thế gian này, dành trọn cả một đời để luôn nhìn ngắm lại bức tranh thời gian, nhặt nhạnh lại những điều đẹp nhất, tô điểm và nhẹ nhàng khắc cẩn gửi vào bảo tàng của ký ức cho người Việt về sau.
Đã từng có người hỏi rằng vì sao một tu sĩ lại nói về thơ văn nhiều đến vậy. Nhưng với tác giả Thích Phước An, ông ôm cái đẹp vào lòng và cầu nguyện cho nó.
Lặng lẽ như vị thiền sư bị coi là điên khùng ở nước Nhật xa xôi, cũng có một vị tu sĩ ở Việt Nam rảo bước qua cõi nhân sinh, luôn cúi nhặt trên đường đi của mình những mảnh vụn của thời gian. Chắp nối nhẫn nại và đầy yêu thương để dựng thành một tấm gương xưa, đủ để mọi người soi lại chính mình, soi lại cõi sống của mình, soi để biết rõ những loanh quanh kiếm tìm hữu hạn của chúng ta và cái đẹp vô hạn của trần thế.
Quyển bút ký Quê hương hiu hắt bến cỏ hồng nhắc nhiều đến Quách Tấn, Tuệ Sỹ, Võ Hồng, Nguyễn Đức Sơn, Hoài Khanh… Những tri kỷ của núi sông đã vận dụng mọi từ ngữ cao quý nhất của mình, để mô tả vẻ đẹp của quê hương Việt Nam, đời Việt Nam. Từ trang đầu đến cuối, quyển sách mở ra những con đường làng thơ mộng, những khó khăn hữu duyên đến rồi đi qua và trở thành thi vị, những kí ức đẹp nhất về mẹ, về thời gian sống giản đơn… mà đôi khi ngoái nhìn lại, có thể rơi nước mắt vì thương nhớ khôn cùng.
Nhưng không chỉ vậy, trong tấm gương xưa mà tác giả Thích Phước An dựng lại, có đủ các chân dung của đời, thường bị quên lãng bởi thời gian, và cả thời thế. Các trích dẫn được ông đưa ra, chứa ngồn ngộn những biến động của lịch sử, thúc giục tầm nguyên. Chẳng hạn như đọc lại hai câu thơ của Tuệ Sỹ mà ngẩn ngơ :
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Năm tháng bỗng vụt hiện về, can qua lại mịt mờ trong tâm trí, nhưng từ đó, hiển lộ đức năng uy vũ bất năng khuất của một người học Phật, một chí sĩ luôn ngạo nghễ trước mọi nguy nan.
Với nhà thơ trác tuyệt Nguyễn Đức Sơn, tác giả mô tả tài tình một nhà thơ say cuồng trí tuệ, thách thức mọi sự tăm tối của đồng loại, nhưng ẩn trong ngôn từ và hành xử là sự khắc khoải bất tận trước cái tôi yếu đuối giữa vũ trụ này. Khắc khoải đến hiu quạnh.
Chúng ta giờ ước mong gì
Văn minh gửi cát bụi về mai sau
Đọc mà nghe như giữa cuộc chiến khốc liệt, bỗng vang vọng tiếng cười kiêu bạc. Mọi mưu mô thâm hiểm cho đến những khát vọng vĩ đại của thời đại, đều vô nghĩa.
Người Việt đã từng hay đến vậy. Trí tuệ Việt đã từng vời vợi như vậy. Chúng ta từng có tất cả đó thôi. Đọc sách, mà bật lên tiếng lòng xao xuyến. Từng lời kể giản đơn trong Quê hương hiu hắt bến cỏ hồng cứ thấm dần qua từng trang giấy. Sột soạt như đôi giày cỏ thầm lặng bước ở ven đường. Chậm rãi và an nhiên như một lữ khách đi qua địa cầu, tác giả ghi chép kỹ lưỡng những gì mình nhìn thấy, vì biết rõ chỉ còn lại một ít thời gian ở kiếp máu đỏ da vàng này như duyên nghiệp.
Những niên kỷ được trao lại, với sự da diết và tụng ca, là khoảng không giữa những nhịp tim mỗi người : còn không, chúng ta có còn những điều đẹp đẽ đó không, hay đã phai nhạt dần trong ký ức từng ngày ? Đọc những dòng soi vào thời gian và trao lại từ bậc trí giả im lặng, thấy sấm động đâu đó trong trái tim mình.
À, hóa ra quê hương hiu hắt là như vậy, khi kho báu của người đi trước để lại bị quên lãng. Bên bến cỏ hồng, rất nhiều người đã bước ra đi, nhưng dường như ít người ngoảnh lại.
À, hóa ra quê hương hiu hắt là như vậy, khi chỉ là bến tiễn những đứa con ra đi, tiễn những điều đẹp nhất đi vào sương khói.
Nguyên Không
Nguồn : nhacsituankhanh, 2710/2025