Chiến Tranh Việt Nam 1955 – 1975 (Joseph Cummins)
Bắc Việt đã gây ra thảm bại hủy diệt và lịch sử cho một hoa kỳ muốn ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở đông nam á, nhưng không thể đưa ra một chiến lược hợp lý cho cuộc chiến dài nhất trong lịch sử hoa kỳ đến thời điểm đó.
Bài viết này được trích từ cuốn Các Cuộc Chiến Tranh Vĩ Đại Nhất trong Lịch Sử của tác giả Joseph Cummins. Bài gốc được đăng trên trang Nghiên Cứu Lịch Sử.
Tổng Quan: Cuộc Chiến Gây Chia Rẽ Làm Thay Đổi Tiến Trình Lịch Sử Của Hoa Kỳ Và Việt Nam
Đất nước Việt Nam đã bị chia cắt tại vĩ tuyến 17 vào năm 1954 sau khi lực lượng của Hồ Chí Minh đánh bại quân Pháp vào năm 1954 tại trận Điện Biên Phủ. Phía bắc của đường phân định là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và phía nam là Việt Nam Cộng hòa.
Cuộc bầu cử theo Hiệp Định Geneva được ủy quyền tổ chức vào năm 1956, nhưng sau đó nội chiến nổ ra giữa chính quyền cộng sản chuyên chế miền Bắc và chính quyền tham nhũng nhưng dân chủ trên danh nghĩa ở miền Nam, được Hoa Kỳ hậu thuẫn, lo sợ rằng chiến thắng của cộng sản ở Việt Nam sẽ dẫn đến sự tiếp quản của cộng sản ở toàn bộ Đông Nam Á. Lúc đầu, viện trợ của Hoa Kỳ cho miền Nam và một loạt các tổng thống của nước này chỉ giới hạn ở các cố vấn quân sự và hỗ trợ tài chính. Nhưng chẳng bao lâu sau, Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson nhận ra rằng Quân đội Việt Nam Cộng hòa đang thua trong cuộc chiến chống lại du kích Việt Cộng hoạt động ở miền Nam và được Bắc Việt tiếp tế. Sau khi các tàu tuần tra của Bắc Việt đụng độ với một tàu khu trục thu thập thông tin tình báo của Hoa Kỳ tại Vịnh Bắc Bộ vào tháng 8 năm 1964, Johnson đã tranh thủ được sự chấp thuận của Quốc hội để gửi quân chiến đấu đến miền Nam và bắt đầu ném bom miền Bắc.
Cuộc chiến sau đó leo thang khi Bắc Việt gửi quân đội chính quy xâm nhập vào miền Nam. Các cuộc đụng độ lớn đầu tiên giữa hai lực lượng này diễn ra tại Thung lũng La Drang ở miền Nam vào tháng 11 năm 1965 và cho thấy sự khác biệt trong cách tiếp cận cuộc chiến của họ. Người Mỹ theo đuổi chiến thuật mới về khả năng cơ động trên không – di chuyển nhanh các nhóm binh sĩ từ chiến trường này sang chiến trường khác bằng trực thăng cũng như sử dụng sự hỗ trợ chặt chẽ của pháo binh và các cuộc không kích của máy bay chiến đấu. Không có công nghệ này, Bắc Việt theo đuổi chiến lược áp sát kẻ thù càng gần càng tốt, khiến bom và pháo trở nên vô dụng.
Cuộc chiến diễn ra trong suốt năm 1968, quân đội Mỹ dưới quyền Tướng William Westmoreland tìm cách ngăn cản sự hỗ trợ của dân chúng cho du kích Việt Cộng bằng cách di chuyển hàng ngàn dân chúng vào các khu vực gọi là “ấp chiến lược” do quân đội VNCH xây dựng, trong khi tấn công quân BV từ các căn cứ hỏa lực trong nước. Các trận ném bom ồ ạt xuống miền Bắc vẫn tiếp tục không ngừng cho đến năm 1968. Nhưng chương trình ấp chiến lược đã thất bại vì dân chúng xa lánh bằng cách thoát ly ra khỏi nhà. Thêm vào đó, người Mỹ không bao giờ có thể bẫy quân bộ đội BV vào một trận chiến chính quy để gây ra thiệt hại không thể khắc phục cho họ.
Vào tháng 1 năm 1968, Việt Cộng và Bắc Việt đã phát động cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân, một cuộc tấn công lớn, có sự phối hợp vào 36 thành phố ở miền Nam. Họ đã gây ra sự tàn phá rộng khắp, nhưng họ đã bị đánh bại trên chiến trường với tổn thất nặng nề. Mặc dù vậy, cuộc tấn công đã làm rung chuyển dư luận công chúng Hoa Kỳ. Những lời kêu gọi chấm dứt sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam, vốn đã gia tăng, giờ đây đã lên đến đỉnh điểm.
Tổng thống Johnson đã dừng ném bom Bắc Việt và bắt đầu đàm phán với Bắc Việt tại Paris, trong khi tuyên bố rằng ông sẽ không ra tranh cử nhiệm kỳ thứ hai. Vào tháng 3 năm 1969, Hoa Kỳ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, nghĩa là dần dần cho phép miền Nam tự mình chiến đấu. Năm sau, dưới thời Tổng thống Richard Nixon, Hoa Kỳ đã dần dần rút 500.000 quân, khi phong trào biểu tình tại Hoa Kỳ ngày càng lên tiếng, đặc biệt là sau khi tin tức về vụ thảm sát Mỹ Lai được tiết lộ.
Sau vụ giết hại sinh viên tại cuộc biểu tình Đại học Kent State do Vệ binh Quốc gia Ohio gây ra vào tháng 5 năm 1970, hầu hết đất nước đều muốn chiến tranh kết thúc. Cuối cùng, nhà đàm phán của Nixon là Henry Kissinger và nhà ngoại giao Bắc Việt là Lê Đức Thọ đã đạt được một thỏa thuận hòa bình tại Paris vào tháng 10 năm 1972. Những binh lính chiến đấu cuối cùng của Hoa Kỳ đã rút khỏi đất nước vào tháng 3 năm 1973, mặc dù miền Nam vẫn tiếp tục chiến đấu, được Hoa Kỳ cung cấp vũ khí, cho đến khi họ bị quân đội Bắc Việt áp đảo vào tháng 4 năm 1975.
Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là cuộc chiến dài thứ hai trong lịch sử Hoa Kỳ, sau cuộc chiến sau này ở Afghanistan – cũng là cuộc chiến đầu tiên mà Hoa Kỳ thua và có lẽ là sự kiện đau thương nhất trong lịch sử thế kỷ XX của nước này. Người dân Hoa Kỳ đã chia rẽ kình chống nhau trong suốt cuộc chiến và nuôi dưỡng lòng ngờ vực mạnh mẽ đối với chính phủ, trong khi Hoa Kỳ cũng mất mặt trên toàn thế giới. Tuy nhiên, một Bắc Việt chiến thắng cuối cùng đã thống nhất đất nước, mặc dù gánh chịu những tổn thất nghiêm trọng, và dần dần sau chiến tranh, sau một thời gian điều chỉnh chính sách rõ ràng là họ không hành động cùng nhịp với Liên Xô hay Trung Cộng.
Bắc Việt Thua Trận Nhưng Giành Thắng Lợi Trong Cuộc Chiến
Cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân: 1968
Đối với nhiều người, trong số đó có nhân viên thuộc cộng đồng tình báo Hoa Kỳ, hình như có điều gì đó đang âm ỉ vào tháng 1 năm 1968. Vào mùa thu, quân đội chính quy Bắc Việt đã phát động các cuộc tấn công mạnh mẽ vào các căn cứ của Hoa Kỳ tại Khe Sanh và Cồn Tiên dọc theo vĩ tuyến 17, các cuộc tấn công mà khi nhìn lại sẽ được coi là những nỗ lực thành công nhằm thu hút quân lực Hoa Kỳ về phía bắc, rời xa Sài Gòn.
Vào đầu tháng 1, một tài liệu tìm thấy trên thi thể của một sĩ quan Việt Cộng có đề cập đến một “cuộc tấn công phối hợp” sẽ sớm được triển khai. Và khi Tết Nguyên đán hàng năm của người Việt đến gần vào ngày 31 tháng 1, nhiều người Mỹ nhận xét càng có nhiều thanh niên Việt xuất hiện ở các thành phố lớn như Sài Gòn và Huế trông khỏe mạnh và gầy gò, nhưng lại xanh xao, như thể họ đã dành nhiều thời gian đi bộ xuyên qua những khu rừng rậm rạp.
Trên thực tế, họ đã làm như vậy. Vào tháng trước ngày 31 tháng 1 năm 1968, hàng ngàn lính Việt Cộng và bộ đội Bắc Việt đã cởi bỏ quân phục và hòa nhập vào dân thường, chuẩn bị cho cuộc tấn công mạnh mẽ nhất mà miền Bắc từng phát động chống lại miền Nam và người Mỹ. Cuộc tấn công sẽ bao gồm các cuộc đột kích vào 36 thủ phủ tỉnh, hơn một trăm thị trấn và thành phố, với gần 200 tiểu đoàn Việt Cộng và quân đội Bắc Việt – 70.000 người sẽ tham gia vào cuộc tấn công ban đầu.
Và tất cả những điều đó xuất hiện cùng với tiếng pháo Tết, tiếng kèn và tiếng trống.
“Một thất bại của tình báo đồng minh”
Vào đêm 30-31 tháng 1, hầu hết người Mỹ ở miền Nam đều lắng nghe và tham gia lễ mừng Tết. Trên thực tế, tại Sài Gòn, hơn 200 đại tá ứng trực tại đại sứ quán Hoa Kỳ đã đến dự tiệc rượu ồn ào tại nhà của một sĩ quan đồng nghiệp, chỉ để lại thêm một lính gác tại đại sứ quán, mặc dù mức độ cảnh giác đang cao.
Sau này, một sĩ quan Hoa Kỳ gọi sự kiện có rất nhiều cảnh báo đã bị bỏ qua là “một thất bại tình báo của đồng minh ngang hàng với Trân Châu Cảng.” Nhưng hầu hết quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam đều ở mức báo động cao ít nhất một nửa thời gian, và không ai truyền đạt bất kỳ nhận thức cấp bách nào cho những người xung quanh Sài Gòn. Suy cho cùng, chẳng phải đã có một lệnh ngừng bắn trong dịp Tết sao?
Rõ ràng, Bắc Việt cũng đã đồng ý, và để đáp lại, miền Nam đã cho một nửa quân lính của mình nghỉ phép về nhà ăn Tết. Và trong khi mọi người đang ăn mừng năm mới, bọn xâm nhập Bắc Việt và Việt Cộng đã nhặt súng và lựu đạn và rời khỏi nơi ẩn náu. Qua làn khói pháo và tiếng cười giòn tan, họ tiến về mục tiêu được giao phó như một phần của kế hoạch được thiết kế chủ yếu bởi Tướng Võ Nguyên Giáp. Ông tin chắc rằng miền Nam đã chín muồi cho một cuộc tổng nổi dậy, rằng người dân miền Nam sẽ đồng loạt đứng lên lật đổ người Mỹ và chính quyền miền Nam tham nhũng. Trên thực tế, điều này không đúng, mà hóa ra đó là tính toán sai lầm nhất mà Giáp từng mắc phải.
Vào sáng sớm, trong bóng tối ở Sài Gòn – mục tiêu quan trọng nhất của bọn xâm nhập – gần 4.000 Việt Cộng tập hợp thành các nhóm nhỏ và tiến về các mục tiêu của mình. 19 biệt kích Việt Cộng được huấn luyện bài bản chen chúc trên một chiếc xe tải và một chiếc taxi, đến bên ngoài đại sứ quán Hoa Kỳ vào khoảng ba giờ sáng và dùng thuốc nổ dẻo để phá một lỗ trên tường. Sau đó, họ xông vào, nổ súng.
Trên khắp đất nước, những hành động khác diễn ra gần như đồng thời. Việt Cộng đã tấn công 25 căn cứ quân sự, khiến người Mỹ hoảng loạn trong vòng vây khi họ nhận ra rằng những gì họ nghĩ là pháo Tết thực chất là đạn và thuốc nổ. Bên ngoài Sài Gòn, Việt Cộng đã cho nổ tung kho đạn Long Bình, gây ra một vụ nổ ngoạn mục có thể nhìn thấy từ nhiều dặm. Khu ngoại ô Chợ Lớn của Sài Gòn đã biến thành nơi tập kết cho các cuộc tấn công của Việt Cộng và Quân đội Nhân dân Việt Nam, trong thời gian ngắn đã có thể chiếm được đài phát thanh quốc gia, tấn công dinh tổng thống và khiến Tướng William Westmoreland bị kẹt cứng trong trụ sở Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ, Việt Nam của mình.
Nhưng chính cuộc tấn công vào đại sứ quán Hoa Kỳ đã trở nên khét tiếng nhất trong đêm và ngày đầu tiên của cuộc tấn công. Mặc dù một sĩ quan Hoa Kỳ đã chế giễu gọi đó là “hành động vụn vặt cấp trung đội”, mặc dù Đại sứ Hoa Kỳ Ellsworth Bunker đã được đưa đến nơi an toàn, nhưng những lính đặc công và du kích Việt Cộng thực sự đã xâm nhập vào lãnh thổ Hoa Kỳ và giết chết lính Mỹ ở đó. Vì đây là Sài Gòn, các phóng viên và đoàn quay phim Hoa Kỳ đã lập tức có mặt và họ đã quay cảnh hỗn loạn. Thay vì những hình ảnh mà công chúng Hoa Kỳ quen thấy, những hình ảnh khói bốc lên từ rừng rậm khi máy bay phản lực không kích vào các vị trí của Việt Cộng và Quân đội BV, hoặc lính Mỹ bắn súng M16 từ nơi tương đối an toàn dưới tán cây và bụi rậm, lần đầu tiên công chúng Hoa Kỳ đột nhiên nhìn thấy đống đổ nát bên trong Sài Gòn và những xác chết. Họ nghe thấy tiếng súng từ những kẻ xâm nhập và giọng nói hoảng loạn của các phóng viên truyền hình.

Tổng thống Lyndon Johnson phát biểu trước người dân Mỹ và công bố quyết định ngừng ném bom Bắc Việt vào tháng 3 năm 1968.
Đúng là một trận hỗn loạn đối với công chúng Hoa Kỳ vốn đã được thông báo, không ai khác ngoài Tướng Westmoreland, rằng người Mỹ đang chiến thắng trong cuộc chiến. Người dẫn chương trình truyền hình đáng tin cậy Walter Cronkite đã nói hộ cho hầu hết người Mỹ khi ông hỏi, “Chuyện quái gì đang xảy ra vậy? Tôi nghĩ chúng ta đang chiến thắng trong cuộc chiến mà.”
Thành phố Huế
Trên thực tế, trong vòng vài tuần, Việt Cộng và Bắc Việt đã bị đẩy lùi với tổn thất nặng nề, nhưng điều này không quan trọng đối với công chúng khi những hình ảnh này đã in sâu trong tâm trí họ. Và còn điều tồi tệ hơn nữa sắp xảy ra. Trận chiến mang tính biểu tượng của Tổng tấn công Tết Mậu Thân sẽ diễn ra tại Thành phố Huế, miền trung Việt Nam. Một nơi tuyệt đẹp nằm trên Sông Hương, Huế là “kinh thành đế quốc” cổ xưa của Triều đại nhà Nguyễn, một nơi có rất nhiều bảo tàng, công viên xinh đẹp và khoảng 140.000 người, bao gồm nhiều người nước ngoài (chủ yếu là người Pháp) và một số lượng lớn người Công giáo. Khi Tổng tấn công Tết Mậu Thân bắt đầu, một sư đoàn của Quân đội BV đã chiếm giữ phần lớn thành phố và sau đó giương cờ của mình trên Kinh thành, thành phố bên trong kiên cố của các vị vua cổ đại.
Sau đó, lực lượng bộ đội bắt đầu một cuộc thảm sát được lên kế hoạch trước: thanh trừng trong toàn thành phố tất cả những ai đã lên tiếng chống lại Bắc Việt. Các chỉ huy Quân BV đã có danh sách các mục tiêu – bao gồm các viên chức chính phủ, sinh viên và linh mục và tập hợp họ lại thành hàng ngàn người. Nhiều người đã bị bắn. Một số phận được ưa thích dành cho các giáo sĩ là chôn sống họ.

Dân chúng chết ở Huế trong cuộc tấn công Tết năm 1968. Hàng chục ngàn người dân không cầm súng đã chết trước khi người Mỹ đánh đuổi quân Bắc Việt khỏi thành phố.
Nhưng vào đầu tháng 2, ba tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã đến để giành lại thành phố, tấn công từ phía bắc bằng pháo thuyền băng qua Sông Hương dưới hỏa lực Quân BV. Trong thời tiết lạnh giá, sương mù thường hạn chế khả năng TQLC kêu gọi không kích, quân Mỹ đã đánh bật bộ đội BV ra khỏi hang ổ và tổ bắn tỉa, lùng sục qua những con phố đầy xác binh lính và dân thường. Ước tính có khoảng 5.000 bộ đội BV tử trận tại Huế, cũng như hàng chục nghìn thường dân, bao gồm 3.000 người bị Cộng sản xử tử.
Mùi hôi thối của tử thần tràn ngập trong không khí; một sĩ quan bình luận rằng “mùi kinh khủng đó ở khắp mọi nơi. Bạn nếm thấy nó khi ăn khẩu phần của mình, như thể bạn đang ăn tử thi vậy.” Thủy quân lục chiến đã nổ súng tiến vào Kinh Thành Cổ và cuối cùng đã gỡ xuống lá cờ của BV.
Nhưng hỏa lực Hoa Kỳ đã phá hủy thành phố Huế xinh đẹp một thời, khiến 116.000 công dân mất nhà cửa. Như một thiếu tá Hoa Kỳ đã bình luận, mô tả một cuộc chiến khác giành một thị trấn gần đó: “Chúng tôi phải phá hủy thị trấn để cứu nó.” Huế đã được cứu, nhưng bị tàn phá thảm thương.

Bản đồ này hiển thị các điểm xâm nhập của quân đội miền Bắc và Việt Cộng (đánh dấu bằng mũi tên đỏ) khi họ chuẩn bị tấn công trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân.
Cuối cùng, cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân dường như là một thất bại tốn kém đối với Giáp. Sau cuộc giao tranh kéo dài đến tháng 4, Quân đội Nhân dân Việt Nam và Việt Cộng đã mất tới 50.000 người và bị đẩy lui khỏi mọi vị trí mà họ chiếm được. Trên thực tế, từ đây, Việt Cộng sẽ không còn là một lực lượng chiến đấu hiệu quả nữa.
Nhưng mặc dù họ đã thua trong trận chiến, hóa ra Giáp và Bắc Việt đã chiến thắng trong cuộc chiến tuyên truyền. Người Mỹ không thích những gì họ thấy trên tivi, trong một cuộc chiến mà họ được cho là đang chiến thắng. Khi Tướng Westmoreland, người dám thẳng thừng tuyên bố về chiến thắng của phe đồng minh, yêu cầu đưa thêm 200.000 quân, Lyndon Johnson đã từ chối, đưa ông lên làm tham mưu trưởng và quyết định tiến hành đàm phán hòa bình với Việt Nam. Sự khởi đầu của hồi kết đã gần kề đối với Bắc Việt, những người đã chiến đấu từ năm 1945. Một bài thơ do Hồ Chí Minh khi đó đang đau yếu sáng tác – ông sẽ mất vào tháng 9 năm sau và được phát trên Đài phát thanh Hà Nội tóm tắt cảm xúc của Bắc Việt vào giai đoạn đầu quan trọng của năm 1968:
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!
Tướng Võ Nguyên Giáp: Nhà Lãnh Đạo “Cứng Như Thép” Đã Vượt Qua Mọi Thứ Mà Hoa Kỳ Có Thể Ném Vào Ông
Tướng Võ Nguyên Giáp – vẫn còn sống cho đến thời điểm viết bài này – là một trong những người yêu nước nhiệt thành nhất mà Việt Nam từng biết đến, thậm chí có lẽ còn nhiệt thành hơn cả Hồ Chí Minh huyền thoại. Ông sinh ra trong một gia đình khá giả ở tỉnh Quảng Bình, Bắc Việt, cha mẹ ông cũng là những người yêu nước tự hào muốn đánh đuổi lực lượng thực dân Pháp ra khỏi Việt Nam.
Giáp đã học tại một trường danh giá ở cố đô Huế, và ông ngày càng trở nên cấp tiến hơn sau khi đọc các tác phẩm lấy cảm hứng từ chủ nghĩa Marx của Hồ Chí Minh. Vào đầu những năm 1940, Giáp rời Việt Nam sang Trung Quốc, nơi Hồ Chí Minh đang lưu vong. Chính quyền Pháp đã ném vợ ông, một người theo chủ nghĩa Marx, vào tù, nơi bà qua đời.
Năm 1942, Giáp trở về Việt Nam để tham gia một nhóm du kích tiến hành chiến tranh rừng rậm chống lại cả Nhật Bản và Pháp. Sau năm 1945, khi Nhật Bản bị đánh bại và Pháp không công nhận một Việt Nam độc lập, Giáp đã vươn lên trở thành chiến lược gia trưởng của Hồ Chí Minh trong cuộc chiến tranh Việt Minh chống lại Pháp, phác họa nên chiến thuật đánh bại Pháp trong trận Điện Biên Phủ quyết định năm 1954.
Khi cuộc chiến chống Mỹ lên đến đỉnh điểm vào những năm 1960, Giáp cũng đang vạch ra chiến lược ở đó. Với tư cách là chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông đã thành công trong việc vô hiệu hóa hỏa lực vượt trội của quân đội Mỹ bằng cách “bám lấy thắt lưng kẻ thù mà đánh” và tiến hành một cuộc chiến tranh gồm nhiều đơn vị nhỏ.
Giáp chịu trách nhiệm chính cho cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 – một cuộc tấn công thất bại về mặt quân sự, với tổn thất lớn về người. Nhưng trong nghịch cảnh, Giáp, như một nhà sử học Hoa Kỳ sau này đã nói, “cứng rắn như thép”. Ông thấy rằng về mặt chính trị người Mỹ không muốn tiếp tục chiến tranh và do đó vẫn tiếp tục chiến đấu, mặc dù đã bị suy yếu nghiêm trọng.
Đến cuối chiến tranh, Tướng Giáp chủ yếu bị thay thế khỏi vị trí chỉ huy tích cực bởi Tướng Văn Tiến Dũng, sau đó ông trở thành Bộ trưởng Quốc phòng. Mặc dù hiện tại có một số đánh giá lại về danh tiếng của ông trong giới sử gia – Giáp đã mất ít nhất 500.000 quân trong trận chiến, một con số đáng kinh ngạc nhưng không mấy ai nghi ngờ rằng đóng góp của ông vào chiến thắng của Bắc Việt là rất quan trọng.
Vụ Thảm Sát Mỹ Lai: Một Vụ Giết Người Vô Tội Đã Thay Đổi Tâm Trí Của Người Mỹ Về Cuộc Chiến
Một tấm áp phích phản chiến nổi tiếng của thập niên 1960 cho thấy những thi thể đẫm máu của nông dân Việt Nam, bà già và trẻ sơ sinh, nằm trong một con mương. Chữ trên áp phích đặt ra câu hỏi này: “Phụ nữ và trẻ em cũng vậy sao?” Và câu trả lời là hiển nhiên: “Phụ nữ và trẻ em cũng vậy.”
Nhiều hành động tàn bạo đã được thực hiện bởi cả hai bên trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam – vụ hành quyết thường dân của Bắc Việt tại Huế chỉ là một trong số đó. Nhưng vụ thảm sát hơn 300 thường dân không vũ trang của quân đội Hoa Kỳ và những hình ảnh mà công chúng Hoa Kỳ nhìn thấy trên truyền hình đã đưa cuộc chiến trở về nhà như chưa từng có.
Vào ngày 16 tháng 3 năm 1968, Đại đội Charlie thuộc Lữ đoàn 111, Sư đoàn Americal, đã tiến vào làng Mỹ Lai thuộc quận Sơn Mỹ của miền Nam. Số đông du kích Việt Cộng có mặt trong quận này, và Đại đội Charlie đã chiến đấu một cuộc chiến gây ức chế chống lại những bóng đen mặc đồ ngủ đen này, những kẻ sử dụng mìn và bẫy chông làm phương pháp chính để chống lại lực lượng Hoa Kỳ vượt trội hơn nhiều. Nhiều thành viên của Đại đội Charlie đã bị giết hoặc bị thương do những thiết bị như vậy trong những tuần dẫn đến ngày 16 tháng 3. Những người lính tiến vào làng trong một nhiệm vụ tìm và diệt thông thường (tìm kiếm kẻ thù, phá hủy bất kỳ loại đạn dược hoặc vật tư nào của kẻ thù) đều đang mang tâm trạng rất tức tối lẫn sợ hãi.
Họ được chỉ huy bởi Đại úy Ernest Medina, trước đó đã nói với binh lính rằng những người duy nhất còn lại trong làng là Việt Cộng. Một số binh lính của ông sau đó tuyên bố rằng ông đã ra lệnh cho họ bắn phụ nữ và trẻ em, nhưng ông đã phủ nhận điều này. Dù sự thật là thế nào, một Sĩ quan, Trung úy William Calley, ra lệnh cho lính của mình tiến vào làng và nổ súng, mặc dù không có báo cáo nào về hỏa lực của đối phương. Một phóng viên của BBC cũng như một phóng viên ảnh của Quân đội Hoa Kỳ có mặt và chứng kiến cảnh người Mỹ tập hợp nhữngi đàn ông, phụ nữ và trẻ em, tuổi từ một đến tám mươi mốt, và giết họ bằng súng máy, lưỡi lê và lựu đạn. Calley ra lệnh cho một nhóm dân làng bước xuống mương và xả súng vào họ bằng khẩu M-16 của mình.
Bất chấp những nỗ lực của một số cá nhân anh hùng đã cố gắng ngăn chặn vụ thảm sát, bao gồm một phi công trực thăng Hoa Kỳ đã cứu một tá dân làng khỏi cái chết chắc chắn, Đại đội Charlie đã giết hơn 300 thường dân vào ngày hôm đó. Vụ thảm sát đã bị che đậy trong hơn một năm. Khi tin tức bị rò rỉ, câu chuyện đã khiến phong trào phản chiến phẫn nộ, và khiến công chúng nói chung, những người trước đó không đặt câu hỏi về tính đúng đắn của cuộc chiến, phải tự hỏi về tính đạo đức của việc tham gia của Hoa Kỳ. Chỉ có một người có mặt tại vụ thảm sát, Trung úy Calley, từng bị kết tội giết người. Y đã bị kết án tù chung thân sau một phiên tòa xét xử quân sự, nhưng theo lệnh của Tổng thống Richard Nixon, y chỉ phải chịu án tù bốn tháng rưỡi.
Sự Kiện Vịnh Bắc Bộ: Cuộc Xung Đột Gây Tranh Cãi Đã Tạo Ra Lý Do Để Leo Thang Chiến Tranh
Nếu có một casus belli (tình huống biện minh) cho sự can dự ngày càng tăng của Hoa Kỳ vào Việt Nam, thì đó là sự kiện mà hiện nay thường được gọi là sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Vào ngày 2 tháng 8 năm 1964, tàu khu trục USS Maddox đã có một trận chiến ngắn với ba xuồng tấn công của Bắc Việt ở Vịnh Bắc Bộ, ngoài khơi bờ biển phía Bắc Việt. Ngoài ra, còn nhiều điều đang tranh cãi. Mức độ đến gần bờ biển của tàu Maddox phụ thuộc vào người kể chuyện. Tàu Maddox báo cáo rằng họ cách bờ biển khoảng 30 dặm (48 km), nói cách khác, nó nằm sâu trong vùng biển quốc tế. Bắc Việt tuyên bố nó nằm trong phạm vi 5 dặm (8 km) tính từ bờ biển thuộc lãnh hải của mình.
Phải nói rằng Maddox không phải là một chuyến du ngoạn vui vẻ. Nó được nhồi nhét đầy đủ các thiết bị nghe lén điện tử được thiết kế để nghe lén các cuộc liên lạc của Bắc Việt. Điều này đặc biệt nhạy cảm đối với Bắc Việt vì vào ngày 1 tháng 11, đã có nhiều cuộc xâm nhập hành động bí mật qua biên giới của họ bởi các đội tình báo miền Nam do Hoa Kỳ tài trợ, những đội biệt kích này đang cố gắng xâm nhập vào miền Bắc. Lý do các tàu Bắc Việt xuất kích có thể vì nghĩ rằng Maddox là một phần của những nỗ lực này.
Trong mọi trường hợp, Maddox tuyên bố rằng các tàu tấn công BV đã bắn ngư lôi vào tàu khu trục nên bị bắn trả, làm hư hại một tàu tấn công và phá hủy một tàu khác. Bắc Việt tuyên bố rằng không có ngư lôi nào được bắn ra, nhưng họ thừa nhận một cuộc đấu pháo trên mặt nước do Maddox khởi xướng và không có tàu tấn công nào của Bắc Việt bị hư hại hoặc bị phá hủy.
Vào đêm ngày 4 tháng 8, Maddox, cùng với một tàu khu trục khác, C. Turner Joy, đã quay trở lại cùng khu vực mà họ đã bị tấn công trước đó và tuyên bố rằng mình đã bị tấn công một lần nữa. Các nhà sử học đều tin rằng cuộc tấn công này đã không xảy ra và có thể là do các thủy thủ Hoa Kỳ lo lắng đã đọc sai tín hiệu radar.
Những sự cố này có vẻ tầm thường, nhưng chúng đã dẫn đến việc Hoa Kỳ leo thang chiến tranh.
Được thúc đẩy bởi Lyndon Johnson, Quốc hội Hoa Kỳ, vào ngày 7 tháng 8, đã thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, cho phép tổng thống “thực hiện mọi biện pháp cần thiết để đẩy lùi mọi cuộc tấn công vũ trang chống lại lực lượng Hoa Kỳ và ngăn chặn các cuộc xâm lược tiếp theo”. Về cơ bản, đây là một tấm séc trắng, được ký và chuyển cho Lyndon Johnson, để tiến hành một cuộc chiến tranh toàn diện chống lại Bắc Việt mà không cần có lời tuyên chiến chính thức từ Quốc hội.
Trần Quang Nghĩa dịch
Nguồn: Nghiên Cứu Lịch Sử