Nhìn lại những chính sách hội nhập cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung - 2 (Nguyễn Văn Huy)

1. Quan niệm của người Việt xưa về không gian sinh tồn, lãnh thổ và quốc tịch
Nhiều người tự hỏi tại sao trong suốt cuộc Nam tiến người Việt không hề nghĩ đến việc tiến lên cao nguyên lập nghiệp hay chinh phục các hải đảo ngoài khơi ? Có thể trả lời rằng vì đó không phải là không gian sinh tồn đúng như quan niệm của người Việt xưa đã có. Cho tới một ngày gần đây dân tộc Việt Nam vẫn chỉ là một dân tộc lục địa, sinh sống bằng nghề trồng lúa nước ở vùng đất thấp, tập trung vào những thành phố hay khu dân cư đông đúc, cạnh những dòng sông và vùng duyên hải. Núi rừng và biển cả, cho đến nửa cuối thế kỷ 20, chưa bao giờ hấp dẫn cộng đồng người Kinh.
1.1. Quan niệm về không gian sinh tồn
Theo quan niệm của người Việt xưa, không gian sinh tồn là một không gian thuần chủng, nơi không có sự pha trộn giữa các giống nòi, đó là một không gian thuần túy của người Kinh. Trong suốt thời kỳ lập quốc, những cuộc hôn nhân dị chủng trong chốn vương triều, nhất là với những dân tộc khác văn hóa, rất khó được cung đình đương thời chấp nhận, và nếu vì bắt buộc thì phải được đền bù bằng những món quà đáng kể, chẳng hạn như liên minh quyền lực hay đất đai. Quan niệm này, một cách vô thức, vẫn còn tồn tại trong sinh hoạt chung của từng gia đình người Việt, nhất là tại những nơi có sự cộng cư với các chủng tộc khác.
Không gian sinh tồn đầu tiên của tộc Việt bắt đầu từ làng xã, nhà cửa đều được bao bọc bởi những bức tường định vị khu vực sinh tồn của từng dòng họ hay từng gia đình.
Quan niệm về không gian sinh tồn, được thành hình từ năm 2224 trước công nguyên dưới thời vua Thuấn, đã được người Hán (Hoa), sau đó là người Kinh (Việt), chấp nhận như một nguyên lý tổ chức xã hội. Theo đó, không gian sinh tồn được chia thành năm ô vuông, mỗi ô tập trung một thành phần chủng tộc riêng biệt với một chỗ ở cố định ; khoảng cách lý thuyết giữa các ô là 500 dặm (khoảng 247 cây số).

Khu cấm thành thời phong kiến Trung Hoa - Ảnh minh họa
- Ô vuông đầu tiên là "khu cấm thành", nơi cư trú của vị quân vương và các sinh hoạt triều chính ; ô này tuy không rộng lớn nhưng là khu vực trung tâm, nơi tập trung quyền lực tối cao của thiên triều.
- Ô vuông thứ hai là "khu hoàng thành", nơi các hoàng thân và công thần được ban phong đất đai để sinh sống và cai trị ; khoảng cách xa gần với khu vực trung tâm tùy thuộc sự tin cẩn của vị quân vương trong mục đích có thể trở về bảo vệ khu vực cấm thành nhanh nhất khi có loạn.
- Ô vuông thứ ba là "khu an bình", nơi sinh cư lập nghiệp của đại đa số quần chúng cùng chủng tộc, hay có cùng nguồn gốc xuất thân (Kinh, Hán, Tạng), trên những vùng đất thấp trong nội địa, xa kinh đô và được cai quản bởi các quan chức hay lãnh chúa địa phương do triều đình bổ nhiệm.
- Ô vuông thứ tư là "khu vực cưỡng chấp", nơi sinh trú của những dân tộc không cùng giống nòi ở vùng ngoại biên : 300 trăm dặm đầu là khu vực trái độn, nơi sinh trú của những dân man tiến bộ (các sắc tộc thiểu số hay các lân quốc thần phục triều đình, còn gọi là "thuộc man" hay "thuộc quốc") ; 200 dặm sau dành cho những tội phạm bị lưu đày biệt xứ, phải cộng cư và đồng hóa với những sắc dân bán khai.
- Ô vuông sau cùng là khu vực "vô cương" hay "vô chủ", nơi không có cương thường đạo lý : 300 dặm đầu là nơi cư trú của những sắc dân man chưa thấm nhuần đạo lý của thánh hiền (Khổng Mạnh) còn rất hung hăng ; 200 dặm sau là khoảng trống, nơi sinh trú của các sắc dân không có chỗ ở nhất định (du mục) và những vùng đất chưa được biết tới.
Theo sự sắp xếp trên, người Hán và người Việt chỉ có thể sinh trú trong một không gian thuần chủng, tập trung trong ba ô đầu, tức khu vực nội biên, chốn thị thành và những vùng đất thấp mà sinh hoạt kinh tế chính là trồng lúa nước, chăn nuôi và trao đổi nông phẩm. Núi rừng và biển cả thuộc hai không gian còn lại.
Tại Việt Nam, cho đến giữa thế kỷ 16, chỉ khu vực quanh đế đô Thăng Long mới hội đủ điều kiện áp dụng nguyên lý tổ chức xã hội trên. Thăng Long (Khu Ba Đình, trung tâm Hà Nội ngày nay) là khu vực cấm thành, khu vực sinh trú của thần dân quanh Thăng Long gọi là Kẻ Chợ. Các sắc tộc thiểu số ở miền thượng du Bắc Việt là những nhóm "thuộc man" sinh trú trong 200 dặm đầu của ô vuông thứ tư ; nơi sinh trú của họ được gọi là Kẻ Đông, Kẻ Bắc, Kẻ Tây và Kẻ Nam ("kẻ" theo nghĩa chữ nôm cổ là một làng hay một thị trấn, ở đây có nghĩa là vùng đất xa lạ ở ngoài vòng đai ảnh hưởng của vương triều). Các sắc dân Bồn Man, Lão Qua hay Ai Lao được xếp vào không gian này. Phần đất phía sau nơi sinh trú của họ là nơi đày ải những tội phạm biệt xứ.
Cũng nên biết biệt xứ là một tội chết, một án tử hình treo dành cho những tội phạm chưa đáng bị chém đầu nhưng không được sinh sống chung với người đồng chủng. Những tội phạm biệt xứ bị xóa tên trong các sổ danh bạ cung đình và địa phương, và không có hy vọng về lại quê quán cũ. Những tội phạm biệt xứ thường không thể sống lâu nơi chốn rừng thiêng nước độc, phần lớn chết vì đói khát, bệnh tật hay lao lực. Những người may mắn sống sót được phải cộng cư và đồng hóa với những sắc dân man để tồn tại.
1.2. Cuộc Nam Tiến
Năm 1558, khi Nguyễn Hoàng xin vào Nam trấn thủ Thuận Hóa, Trịnh Kiểm liền đề nghị vua Lê Anh Tôn chấp thuận. Thuận Hóa đối với Thăng Long là khoảng sau của ô vuông thứ tư, tức vùng đất dành cho những người bị đày biệt xứ và là nơi sinh trú của những sắc dân không cùng giống nòi. Xin vào Thuận Hóa, đối với Trịnh Kiểm, là một hình thức bị đày biệt xứ ; đây cũng là một cách gián tiếp loại trừ một đối thủ hợp pháp. Trịnh Kiểm tin rằng Nguyễn Hoàng và đoàn tùy tùng không thể tồn tại lâu tại Thuận Hóa vì đất đai nơi đây nghèo nàn, khí hậu khắc nghiệt, bão tố triền miên và nhất là phải sống chung vói những sắc dân man hiếu chiến.
Nhưng Nguyễn Hoàng đã không nghĩ như vậy. Vào Thuận Hóa, đối với ông là để tránh xa kinh đô, tránh bị theo dõi, qua đó có thời gian chuẩn bị và xây dựng một lực lượng riêng trong mục đích trở về kinh đô loại trừ đối thủ là chúa Trịnh. Đây là một khổ nhục kế để thực hiện tham vọng riêng.
Nguyễn Hoàng cũng như những hoàng tôn thời đó không thoát khỏi khuôn mẫu Khổng giáo về không gian sinh tồn. Để hợp thức hóa không gian mới này, Nguyễn Hoàng tự nhận mình là dòng máu hoàng tôn chính thống và chọn làng Ái Tử, huyện Đăng Xương, làm khu vực trung tâm, những vùng đất khác là những không gian còn lại. Tuy chưa dám xưng vương, Nguyễn Hoàng tự cho mình là lãnh chúa vùng đất mới, được biết dưới tên chúa Nguyễn, một hình thức đối trọng với quyền lực chúa Trịnh ở đất Thăng Long.
Khi những giáo sĩ Công giáo phương Tây đến Thuận Hóa này truyền đạo, họ đặt tên vùng đất mới này là xứ Đàng Trong, theo cách gọi của đoàn tùy tùng theo Nguyễn Hoàng thời đó. Đây là một hình thức tự nhận chính mình mới là những người chính thống (bên nội) của triều Lê, trong khi cư dân dưới quyền cai trị của chúa Trịnh miền Bắc là những người xa lạ, xứ Đàng Ngoài (bên ngoại). Sự phân chia Nam-Bắc bắt nguồn từ đó.
Quyết định chọn Thuận Hóa làm nơi định cư mới của Nguyễn Hoàng không ngờ đã mở ra một cuộc Nam tiến lớn : không gian sinh tồn của người Kinh không ngừng mở rộng về phía nam với thời gian. Từ 1600 trở đi, Nguyễn Hoàng và những di dân mới đã vận dụng toàn lực xây dựng không gian sinh tồn Thuận Hóa thành một trung tâm kinh tế, quân sự và chính trị hùng cường nhất trong khu vực.
Tại đây một vấn đề địa lý mới được đặt ra, Nguyễn Hoàng và tùy tùng không thể tổ chức không gian sinh tồn theo khuôn mẫu cũ như ở Thăng Long. Vì trải dài trên một dải đất hẹp, ba ô vuông đầu của không gian sinh tồn mới này buộc phải thích ứng với điều kiện địa lý tự nhiên của vùng đồng bằng eo hẹp duyên hải Bình Trị Thiên. Phần đất phía tây trên dải Trường Sơn trở thành không gian ngoại thuộc ; từ đó nảy sinh các danh xưng về những "thuộc man" và "thuộc quốc" mới.
"Thuộc man" là những sắc dân ở cạnh "khu vực an bình" thần phục triều Nguyễn để được ban phong tước hiệu triều đình và trao đổi lương thực. "Thuộc quốc" là những lãnh thổ có tổ chức, có tôn ti trật tự nhưng yếu kém hơn, do đó phải thần phục, phải triều cống để được che chở như của vương triều Chiêm Thành, Láng Cháng, Vạn Tượng và Chân Lạp.
Khoảng đầu của ô vuông thứ tư, hay khu vực trái độn, được giới hạn ở ngoại vi các vùng đất thấp đã bình định tới dưới chân dãy Trường Sơn về phía tây, nơi sinh trú của những "thuộc man" (các sắc tộc Thượng sinh sống trên Tây Nguyên và Lào) và những "thuộc quốc" (Chiêm Thành, Nam Bàn, Trà Lai và Chân Lạp).
Đằng sau khu vực trái độn là các vùng duyên hải chưa bình định ở phía nam dành cho những kẻ bị đày biệt xứ chứ không phải những vùng rừng núi như ở miền Bắc. Tại đây, những người biệt xứ thường lấn chiếm không gian sinh tồn của người Chiêm Thành ở phía nam để tìm lương thực. Người Chăm đã nhiều lần nổi lên chống lại triều Nguyễn, một phần vì muốn giành lại các vùng đất đã mất trước đó, một phần cũng vì bực tức những hành vi bất hảo của những tội phạm biệt xứ trong vùng trái độn.
Ô vuông thứ năm, "khu vực vô cương", là vùng rừng núi phía tây các tỉnh miền Trung (Bình Trị Thiên-Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên, còn gọi là Trường Sơn tây), nơi sinh trú của những sắc tộc man (người Thượng) chưa được soi sáng bởi văn minh và văn hóa Khổng giáo.
Trong "khu vực vô cương" này, cho đến cuối thế kỷ 19 ít có người Kinh nào tự ý phiêu lưu mạo hiểm vào đây sinh cư lập nghiệp, kể cả những tội phạm biệt xứ. Nếu người Hán xây Vạn Lý Trường Thành ngăn chặn rợ Hung Nô thì người Kinh xây Trường Lũy ngăn chặn người Thượng sinh sống dọc "khu vực vô cương" tràn xuống các vùng đồng bằng duyên hải miền Trung. Việc xây thành đắp lũy ngăn chặn sự tiếp xúc với những sắc dân không cùng văn hóa khác là phản ứng tự nhiên của những dân tộc đồng bằng, sống co cụm để bảo tồn sự thuần nhất của chủng tộc.
Nói tóm lại, trong suốt cuộc Nam tiến, từ thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 19, người Việt không hề có ý định tiến lên Tây Nguyên lập nghiệp hay ra xa ngoài khơi thám hiểm để mở rộng không gian sinh tồn, thành lập những vùng sinh sống mới. Không gian sinh tồn của người Kinh chỉ quanh quẩn trong lục địa, những vùng đất thấp trong châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long, hay các vùng đồng bằng eo hẹp duyên hải miền Trung. Các triều vương Đại Việt quay lưng lại với biển cả, như người Hán chỉ quanh quẩn trong lục địa Trung Hoa. Lãnh thổ Việt Nam chỉ thực sự mở rộng và ổn vững dưới sự cai trị của người Pháp sau 1884.

Hành trình đất Việt #60 : Tĩnh Man trường lũy - lũy cổ thời nhà Nguyễn - Tập 1
1.3. Quan hệ với người miền núi
Từ thế kỷ 14 trở về sau, chiến tranh giữa Chiêm Thành và Đại Việt xảy ra thường xuyên, cộng đồng người Thượng trên cao nguyên là nguồn nhân lực bổ sung cho quân đội Chiêm Thành. Năm 1471, vua Lê Thánh Tôn đánh bại Chiêm Thành, chiếm thành Đồ Bàn (Bình Định) và chia lãnh thổ Bắc Chiêm Thành ra nhiều xứ để cai trị (phủ và châu), trong đó có xứ Nam Phan bao gồm vùng đất phía tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và cao nguyên Kontum, Pleiku, Darlac ngày nay.
Năm 1490, lãnh thổ Đại Việt được chia thành 13 thừa tuyên (tỉnh ngày nay), (Chiêm Thành cũng là một tuyên), gồm 52 phủ, 178 huyện, 50 châu (huyện ngoại biên), 20 hương, 36 phường, 6.851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động và 30 trường. Sách (làng), động (ấp) và trường (chợ miền núi) là những nơi cư trú của người Thượng.
Từ sau giai đoạn này, dân cư Đại Việt mới biết đến người Thượng, nhưng vì tổ chức xã hội theo khuôn mẫu Khổng giáo nên các sắc dân không thuần chủng Kinh đều bị cách ly. Người "Man" (Thượng) luôn bị nghi kị và nhiều phòng tuyến ngăn cản sự tiếp xúc giữa người Kinh và người Thượng được thành lập. Những năm mất mùa, người Đá Vách (H'roi, Kayong, Kor, H're, Ktu, Krem) thường tràn vào các thôn xã người Kinh cướp bóc lương thực.
Năm 1540, vua Lê Trang Tôn phong Bùi Tá Hán làm trấn thủ đạo Quảng Nam với mục đích trừ loạn Đá Vách ở phía nam Quảng Ngãi gồm các huyện Ba Tơ, Minh Long, Sơn Hà. Sau khi dẹp xong loạn Đá Vách, Bùi Tá Hán thi hành chính sách chư hầu đối với người Thượng (thuộc man) và mở rộng giao thương hai chiều : cũng cấp muối gạo, vải vóc và nhận lại ngà voi, sừng tê giác, quế, kỳ nam, mật ong. Chính sách này đã mang lại sự yên bình cho toàn khu vực trong gần 200 năm.
Trong cùng thời gian đó, người Thượng phía tây Trường Sơn sống trong loạn lạc. Năm 1587, người Ai Lao từ cao nguyên Sebang Hien tiến xuống chiếm thung lũng Sedon, Sekong, Sesan, Sesu (tả ngạn sông Mekong) và được người Sedang tiếp sức, đánh đuổi các bộ lạc Pacoh, Brilar, Halang lên các khu rừng rậm và núi cao phía đông của Đại Việt. Người Ai Lao còn tràn vào thung lũng sông Srepok của Chân Lạp, chiếm cứ khu vực sinh sống của người Bahnar và Jarai, dựng làng Bandon. Đến đầu thế kỷ 17, cuộc Nam tiến của người Ai Lao dừng lại trên cao nguyên Darlac. Năm 1601, người Jarai, được Chân Lạp hỗ trợ, đẩy quân Ai Lao lui về phía bắc. Quan hệ giữa người Khmer và Jarai được thiết lập và kéo dài cho đến năm 1860 khi các giáo sĩ Pháp đến cao nguyên.
2. Quan hệ với các vương triều họ Nguyễn
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, người Thượng là nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp của các thế lực tranh chấp. Mỗi khi thua trận, quân chúa Trịnh hay chúa Nguyễn thường rút lên vùng núi phía tây lánh nạn ; phe thắng trận truy kích theo, đánh tràn vào các bản làng Thượng và bắt dân Thượng khuân vác quân dụng và nộp lương thực. Nhiều nhóm Thượng đã phải qua xứ Nam Chưởng (trước kia là Láng Cháng, Bắc Lào) tị nạn.
Trong thế kỷ 17, người Thượng (Raglai và Churu) và người Chăm tiếp tục kết hợp cùng nhau chống lại cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn. Năm 1629, Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên tiến quân vượt sông Đà Rằng, thành lập Trấn Biên dinh đến tận chân núi Thạch Bi (đèo Cả). Vua Chăm là Po Romé bị thua phải cầu hòa và xin cưới con gái thứ ba của Sãi Vương là công chúa Ngọc Khoa.
Ngọc Khoa là vợ thứ ba và là vợ út của Po Romé, gọi là Po Bia Út, tức hoàng hậu Akaran (vợ thứ nhất là Po Bia Suthi, người Chăm con vua Po Ehklang, không có con trai ; vợ thứ hai là con một tù trưởng Rhade ở Attopeu tên Po Bia Tanchan).
Năm 1697, người Đá Vách (H're, Ktu, Pacoh, Bru) phía tây Bình Trị Thiên nổi lên phản đối sưu cao thuế nặng. Năm 1714, Trà Xuy (một người H're) lãnh đạo dân Thượng phía tây Cam Lộ kiểm soát một vùng đất rộng lớn phía tây Quảng Trị. Năm 1722, người H're tiến chiếm Minh Linh (còn gọi là Hồ Xá thuộc tỉnh Quảng Trị), chúa Nguyễn Phúc Chu cử Nguyễn Đăng Khoa đi đánh dẹp nhưng bị chết trong đám loạn quân. Quân Thượng hùng cứ khu vực cận sơn cho đến 1760 khi Nguyễn Cư Trinh làm tuần phủ Quảng Ngãi, ông phải mượn sự tích Sãi Vãi để khích động tinh thần binh sĩ mới dẹp yên được người Thượng. Nguyễn Cư Trinh thành lập Quảng Ngãi đồn dinh gồm sáu đạo canh phòng các vùng cận sơn và áp dụng chính sách dân vận để thu phục người Đá Vách.

Một nhóm chiến binh Thượng - Ảnh minh họa
Năm 1765, Định vương Nguyễn Phúc Thuần thành lập trấn Điện Bàn tại Quảng Nam và cho xây dựng một trường lũy (tường thành bằng đất bện tre, có hố chông bằng cây tầm vông hay tre già vót nhọn) từ Trà My (Quảng Nam), Trà Bồng, Nghĩa Hạnh, Minh Long, Ba Tơ (Quảng Ngãi) đến An Lão, Hoài Ân, Phù Mỹ (tây bắc Bình Định) đề phòng người Thượng. Phải chờ đến năm 1770, khâm sai Trần Ngọc Chu mới dẹp yên được loạn Đá Vách, nhưng không kéo dài lâu. Năm 1773, quân Thượng lại nổi lên ở Quảng Nam và Quảng Ngãi chống lại chính sách phân biệt đối xử. Năm 1775 tại Hải Lăng, hai lãnh tụ Lâm và Mộc, người Tà Ôi (Pacoh), lãnh đạo cuộc kháng chiến ở các huyện Cam Lộ, Đăng Xương, Minh Linh chống lại chúa Trịnh.
Trong cuộc nội chiến Tây Sơn-chúa Nguyễn, cao nguyên Trường Sơn là địa bàn lánh nạn của phe thua trận và là hậu cứ dưỡng quân cho những cuộc tiến quân khác.
Năm 1771, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ nổi lên tại Tây Sơn, một làng trên cao nguyên An Khê thuộc tỉnh Bình Định, lãnh địa của người Bahnar. Phong trào Tây Sơn được người Bahnar, H're, Kor, Sedang, Rhade, Jarai và nhiều nhóm Thượng khác bên Lào giúp người và giúp của. Nhiều tù trưởng Thượng tại Bình Định còn gả con gái cho anh em Tây Sơn làm hầu thiếp.
Quân Tây Sơn có ba đạo : một đạo gồm toàn người gốc Hoa (đa số là quân cướp biển), một đạo gồm toàn người Thượng (do tù trưởng Bok Kiom, người Bahnar, chỉ huy) và người Chăm, hai đạo này họp thành tả quân và hữu quân ; đạo thứ ba gồm toàn người Kinh họp thành trung quân. Khi Nguyễn Huệ hai lần mang quân ra Bắc (1788-1789), binh sĩ Thượng và Chăm đã tỏ ra đắc lực trong việc vận chuyển người và lương thực.
Nguyễn Huệ mất năm 1792, người Thượng tiếp tục ủng hộ Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng chống lại chúa Nguyễn nhưng cuối cùng vẫn bị đánh bại. Sợ bị Gia Long trả thù, con cháu nhà Tây Sơn chạy lên cao nguyên lẫn tránh và được người Sedang hết lòng che chỡ. Từ đó cộng đồng người Thượng bị canh phòng nghiêm nhặt, mọi quan hệ với đồng bằng đều bị cắt đứt.
Năm 1804, hai năm sau khi lên ngôi, Gia Long cho dựng lại các tuyến phòng thủ phía tây Quảng Nam, Quảng Ngãi, gọi là Trấn Man (nơi ngăn giữ người Man), nay là Điện Bàn, gồm 4 nguyên (Đà Bồng, Cù Bà, Phù Bà và Ba Tơ) và 5 đạo. Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Khắc Tuân củng cố các tuyến phòng thủ này với sự thành lập nhiều đồn lũy tại những nơi trọng điểm. Đất đai được phân chia thành nhiều khu dinh điền (công điền và quân điền) rồi đưa dân và gia đình lính cơ từ đồng bằng lên khai thác, đồng thời giáo hóa một số bộ lạc Thượng ven ranh nghề canh tác lúa nước và chăn nuôi. Riêng quân đội được quyền thành lập những đồn điền do lính cơ canh tác dọc các đồn lũy để tư nuôi quân thời bình và bảo vệ vùng biên giới chống sự xâm nhập của quân Thượng.
Năm 1819, tả quân Lê Văn Duyệt, được Gia Long giao quyền cai quản vùng núi phía tây Quảng Nam, xây thêm Tịnh Man Trường Lũy (thành lũy dài để dẹp yên giặc Man) bằng đá và đất cao 2 thước, dầy 1 thước, dài trên 90 cây số, từ Trà Bồng qua Sơn Trà, Minh Long phía đông Ba Tơ (Quảng Ngãi) đến Nước Giao, Gò Bùi thuộc An Lão (Bình Định) để ngăn chặn người Thượng. Mặt ngoài trường lũy có hào chông và hàng rào cây với 115 đồn, mỗi đồn có 10 lính canh.
2.2. Quan hệ với nhà Nguyễn
Do bị cắt đường liên lạc với đồng bằng miền Trung, tình hình trên cao nguyên rất là loạn lạc dưới triều nhà Nguyễn và đời sống của người Thượng trở nên cơ cực vì bị người Nam Chưởng (Lào) và Xiêm La (Thái) ức chế. Người Bahnar rút về phía đông dọc sông Bla sinh trú, người Halang trốn lên đỉnh núi Mang Rai, người Rhade Kpa chạy về phía nam hồ Taklak (Lạc Thiện) lập nghiệp, người Chom Puon và Brao sinh sống dọc đèo Lao Bảo ẩn vào rừng sâu, người Mnong Bhiet di tản sang Kratie (Cambodia). Nhiều nhóm đã bị diệt chủng hay bị đồng hóa, đến nay không còn dấu tích. Tại một số nơi, quân Xiêm La còn xúi người Thượng đánh phá các làng ven núi của người Việt để bắt người và cướp lương thực.
Trước sự đe dọa của Xiêm La, năm 1827 tù trưởng Chiêu Nội dẫn 3.000 dân đinh chạy qua Đại Việt xin bảo hộ và dâng luôn 28 sở ruộng ở Kham Muan (Trung Lào) làm nội thuộc. Minh Mạng đổi tên Kham Muan thành Trấn Ninh và phong Chiêu Nội làm Trấn Ninh phòng ngự sứ, cai quản 7 huyện và phong các thổ mục làm thổ tri huyện và thổ huyện thừa.
Tin Đại Việt chịu bảo hộ và giúp các thổ dân chống lại Xiêm La và Nam Chưởng lan đến các nhóm thiểu số khác tại Ai Lao. Tù trưởng Tam Động (Tourakom) và Lạc Phán (Pak Sane) trước kia trực thuộc Vạn Tượng cũng dâng đất xin nội thuộc, Minh Mạng liền chia làm hai phủ : Trấn Tĩnh và Lạc Biên và giao cho các đầu mục bản địa cai quản.
Về sau có thêm tù trưởng các xứ Xa Hổ (Sa Noi), Sầm Tộ (Sam Teu), Mang Soan (Muan Som), Mang Lan (Muan Ham), Trình Cố (Xieng Khoan), Sầm Nứa (Sam Neua), Mường Duy (Muan Yut), Ngọc Ma (Na Noi), Cám Cát (Kham Keut), Cam Mon (Kham Muan) và Cam Linh (Kham Len) về xin nội thuộc, tất cả đều được vua Minh Mạng nhận bảo hộ và phong quan. Minh Mạng lập thêm ba phủ : Trấn Biên (Xa Hổ, Sầm Tộ, Mang Soạn và Mang Lang), Trấn Định (Cam Cát, Cam Mon và Cam Linh) đặt dưới sự quản lý hành chánh của Nghệ An, còn phủ Trấn Nam (Trình Cố, Sầm Nứa và man Duy) trực thuộc Thanh Hóa.
Các nhóm Mường và Hmong (Mèo) sinh sống tại Mang Vang (Na Khang), Na Bí (Prasie), Thượng Kế (Keng Kok), Tả Bang (Ta Lam), Xương Thịnh (Song Khone), Tầm Bồn (Tchepone), Bà Lan (Pha Lane), Mang Bổng (Muan Phin) và Lang Thời (Phak Kha Nhia) cũng xin về nội thuộc, được chia làm 9 châu do các đầu mục cai quản, trực thuộc Cam Lộ.
Như vậy toàn bộ lãnh thổ miền Trung Lào (Vientiane, Xieng Khoang, Hua Phan, Bolikhamsay, Kham Muan và Savanakhet) đều nội thuộc Đại Việt.
Người Thượng sinh trú tại vùng Hạ Lào thường bị người Thái hiếp đáp cũng chạy qua Đại Việt cầu cứu. Từ 1829 trở về sau, vua Thủy Xá của người Jarai thường sai người mang lễ vật triều cống và được ban tặng lại áo mão, tước phẩm triều đình và mang họ do vua đặt. Nhưng đời sống cửa người Thượng ngày càng khó khăn, lễ vật triều cống thưa dần rồi ngưng hẳn, thỉnh thoảng họ còn tràn vào các làng xã của người Việt sát vùng giáp núi để cướp lương thực.
Năm 1863, vua Tự Đức phong Nguyễn Tấn làm Tiểu phủ sứ Trấn Man để ngăn chặn người Thượng. Nguyễn Tấn đổi tên Trấn Man thành Nghĩa Định Sơn Phòng Trấn. Sơn Phòng Trấn được tổ chức thành bốn châu (Trà My, Nghĩa Hành, Đức Phổ, Bồng Sơn) và sáu cơ man gồm 47 đồn do lính cơ canh gác. Nguyễn Tấn cho xây thêm một tường đất, gọi là Bờ Lũy, cao hơn đầu người, dài hàng chục cây số trải dài từ Trà My (Quảng Nam) đến Chỉ Ðốc (Bình Ðịnh) để bảo vệ những lân (làng cận biên). Trong hai năm 1866-1867, các bộ lạc lớn của người Thượng xin thần phục, đến năm 1869 thì tất cả các bộ lạc nhỏ ở vùng rừng sâu phía tây An Lão (Bình Định) đều ra hàng ; tất cả được gọi là thuộc man trong các báo cáo.
Con cháu Nguyễn Tấn là Nguyễn Độ và Nguyễn Thân tiếp tục cai trị Sơn Phòng Trấn cho đến năm 1891. Vua Tự Đức ra chỉ dụ nới rộng lãnh thổ lên các vùng trung nguyên, chương trình này sau đó bị đình chỉ vì triều đình Huế phải tập trung sức lực đối phó với quân Pháp đang làm áp lực trên khắp lãnh thổ.

Vua Hỏa xá - Ảnh minh họa
3. Chính sách của triều đình trên cao nguyên : "Cảm hóa người phương xa" (Nhu viễn)
Chỉ sau khi thống nhất được đất nước năm 1802, vua Gia Long mới ban hành một chính sách cai trị vùng đất phía đông dãy Trường Sơn một cách rõ ràng.
Trước đó, dưới thời nhà Lê, những lãnh thổ và dân cư xin thần phục triều đình được gọi là thuộc quốc và thuộc man, dân cư bản địa vùng núi vẫn bị gọi là rợ hay dân man. Khi Bùi Tá Hán được vua Lê Trang Tôn phong chức Trấn quận công cai trị đất Nam Bàn (Kontum, Jarai) năm 1540, chính sách cai trị người Thượng chỉ là trấn áp theo kiểu cây gậy và củ cà rốt, ai tuân phục thì được nâng đỡ, ai chống lại thì bị tiêu diệt. Qua sự hung bạo này mà vùng đất mới trên cao nguyên được yên bình trong hơn 200 năm.
Quan hệ giữa người Thượng sinh sống tại Thuận Hóa và Quảng Nam với triều đình nhà Lê trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh được ghi chép trong Phủ biên tạp lục, do Lê Quý Đôn biên soạn năm 1776. Lê Quý Đôn, khi làm quan Hiệp trấn xứ Thuận Hóa-Quảng Nam (xứ Đàng Trong), đã ghi lại gần như tất cả những sự kiện quan trọng về kinh tế và xã hội tại vùng đất này trong gần 200 năm, từ cuối thế kỷ 16 đến 1776. Tất cả được ghi trong bộ Phủ biên tạp lục, gồm 6 tập. Tập 1 : Sử nguồn (sự tích khai mở, xây dựng và khôi phục ; tên các phủ, huyện, tổng, xã, thôn, trang, trại). Tập 2 : Địa lý (hình thế núi sông, thành lũy, trị sở, đường sá, trạm dịch). Tập 3 : Nguồn thuế (công tư điền trang, bãi đất và tổng số trưng thu lúa gạo theo lệ cũ ; lệ cũ về các ti, quan thuộc chức và thủ binh sĩ ; số ngạch nhân đinh, các hạng duyệt tuyển, các hạng giản tuyển và lệ cũ về tổng số phân bổ quân hiệu). Tập 4 : Cách thu thuế (lệ thuế đầu nguồn, tuần ti, ao đầm, sông bến, thuế chợ và thuế chuyên chở vàng, bạc, đồng, sắt). Tập 5 : Nhân tài và thơ văn. Tập 6 : Sản vật và phong tục.
Tập 3 có nói tới Thủy Xá và Hỏa Xá, theo đó cứ 5 năm một lần các chúa Nguyễn thường sai các cai đội ở phủ Phú Yên làm Chánh sứ và Phó sứ theo lưu vực sông Ba lên gặp các vị tiểu vương cho áo gấm, mão, nồi đồng, khóa sắt, đồ sứ, bát, đĩa và đồng thời đòi phải nộp lễ cống và thuế… Vua hai nước ấy nhận được vật cho, tức thì sắm sửa phẩm vật địa phương (kỳ nam, sáp ong, những hươu, mật gấu, voi đực) để hiến.
Qua Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đệ trình lên vua Lê ba chính sách cai trị miền núi : duy trì an ninh ; tôn trọng phong tục, tập quán địa phương ; phát huy lợi thế và xóa bỏ khuyết điểm của dân cư bản địa. Theo đó người Thượng trên cao nguyên không được nổi loạn, không được tiếp cận những vùng đất đai tốt thích hợp để trồng lúa, phải cống nộp bằng tiền (vàng bạc) hoặc bằng hiện vật theo định kỳ và dành cho Triều đình và các quan lại Việt độc quyền buôn bán với người Thượng.
Vào giữa thế kỷ 19, thiên tai và hạn hán kéo dài khiến đời sống cửa người Thượng ngày càng khó khăn, lễ vật triều cống thưa dần rồi ngưng hẳn. Khi quá túng quẩn, họ tràn vào các làng ven biên (lân) của người Việt để cướp lương thực và sưc vật. Năm 1863 vua Tự Đức phong Nguyễn Tấn, một người có nhiều kinh nghiệm cai trị miền núi lúc đó là án sát Thái Nguyên, chức Tiểu phủ sứ Trấn Man với sứ vụ trong 6 năm phải bình định xong vùng cao nguyên phía đông dãy Trường Sơn (Quảng Ngãi). Là một quan văn võ vẹn toàn, trong hai năm đầu (1864-1865) Nguyễn Tấn cho vẻ bản đồ chi tiết toàn vùng cao nguyên và lập sổ bộ đầy đủ các phong tục, ngôn ngữ và dân số Thượng sinh sống trong các sách (làng). Sau khi nghiên cứu kỹ địa bàn và nhân tâm, trong hai năm 1866-1867, Nguyễn Tấn phủ dụ những nhóm chịu thần phục và tấn công những nhóm phản loạn. Để nuôi quân, tiểu phú sứ Nguyễn Tấn ban hành chính sách ngụ binh ủ nông để binh lính tự túc canh tác lương thực trong những đồn điền hai bên bờ tường. Năm 1871 toàn bộ dân cư cao nguyên miền Thượng đựat dưới quyền cai quản của triều đình. Tài liệu Phủ man tạp lục, ký tên Ôn Khê Nguyễn Tấn, phát hành cùng năm 1871 gồm ba tập : Sơn xuyên hiểm dị (Núi non hiểm trở), Thổ nghi (Tập tục), Lịch triều chi kiến thiết duyên cách (Quá trình kiến thiết qua các triều vua) được phổ biến để binh lính học tập.
Có thể tóm lược chính sách cai trị miền Thượng của triều Lê và triều Nguyễn trong 3 điểm chính như sau :
1. Dùng người Man cai trị người Man (dĩ man trị man), nghĩa là bổ nhiệm những quan thổ tri châu (quan lại người bản xứ) như dưới thòi Lê Lợi.
2. Kềm cương phủ dụ (kimi fuzhu), nghĩa là nâng đỡ thuộc man và thuộc quốc (tức những người chấp nhận thần phục) ; cai trị dân như bậc cha mẹ dân (dân chi phụ mẫu) : ban cho họ vua, chức tước, tặng phẩm vật ; công minh trong cách đối xử (vương đạo) ; đề cao nhân trị (luật Hồng Đức thế kỷ 15 và luật Gia Long thế kỷ 19 bãi bỏ chế độ nô lệ trên vùng rừng núi) ; cứng rắn trong việc phòng chống loạn (trấn man).
3. Thu thuế và nhận cống nộp và quân đội phải tự túc về lương thực (ngụ binh ủ nông).
Về điểm 1, trên nguyên tắc, chính sách quản lý vùng Thượng của triều Nguyễn theo hai cách : một là cai trị gián tiếp bằng cách ủy quyền cho một quan lại người bản xứ đã thuần phục ; hai là cai trị trực tiếp khi có biến động cho đến khi yên bình thì trờ chính sách cai trị gián tiếp.
Về mặt hành chánh, các khu định cư trên vùng đất mới trên cao ngyên được nhà Lê và nhà Nguyễn gọi là châu, do các quan Việt từ đồng bằng lên cao nguyên cai trị gọi là tri châu (huyện trưởng). Tất cả đất đai trên vùng cao nguyên đặt dưới quyền quản trị trực tiếp của các tri châu, sau này được phân chia và đổi tên thành cai quan (dân sự) và cổn quan (quân sự). Dưới quyền các tri châu là những bang thá (xã trưởng), nhân viên làm việc trong những cơ quan công quyền này gọi lại mục, lệ mục, thông lại (ghi chép sổ sách), huấn đạo và lễ sinh phụ trách giảng dạy chữ viết cho con dân đồng bằng và lễ nghi Nho giáo cho cư dân Thượng.
Sổ bộ về dân số người Thượng thời Nguyễn không có vì người Thượng không có họ mà chỉ có tên. Dưới thời Tự Đức, để tiện việc ghi chép, các quan lại triều đình (chánh tổng và tổng nguồn là những chức quan cai trị vùng Thượng) đặt chung cho mỗi làng Thượng một họ Việt tùy theo suy luận của mỗi người, chẳng hạn như Đinh (tráng đinh), Hồ (loạn quân), Man (dã man) v.v... Từ đó người Thượng vùng Nam Ngãi đều mang họ Đinh, người Vân Kiều mang họ Hồ, người Thượng ở Bình Định và Phú Yên mang họ Man, v.v...
Sự hiểu biết về người Thượng chỉ rõ dần khi người Pháp mở rộng lãnh thổ lên cao nguyên. Công lao đầu tiên thuộc về các giáo sĩ, tiếp theo là của những nhà phiêu lưu, mạo hiểm. Những ghi chép của họ đã giúp chính quyền thuộc địa Pháp nắm vững địa lý, dân tình, phong tục, tập quán của người Thượng nên đã dễ dàng cai trị hơn các quan triều Nguyễn. Các chính quyền người Việt sau này, thừa hưởng di sản hiểu biết đó, đã không biết làm thăng hoa thêm.
Nguyễn Văn Huy