Nhìn lại những chính sách hội nhập cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung - 1 (Nguyễn Văn Huy)


Bản đồ các sắc tộc ở Đông Dương phân chia theo nhóm ngôn ngữ (Nhà xuất bản Monrocq – Paris, in năm 1917). Màu xanh lá là địa bàn của người Bahnar, Mạ, Stieng, Lạt, Koho. Màu xám là vùng của người Jarai, cùng nhóm ngôn ngữ với người Chăm, Rhadé, Raglai và Churu. Màu đỏ nhạt là vùng của người Việt.

Lời nói đầu

Tìm hiểu sự hội nhập những cộng đồng sắc tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam là một bổ túc cần thiết cho mọi dự án xây dựng Việt Nam tương lai.

Việt Nam tuy có một lịch sử dài nhưng lại là một đất nước mới. Miền Trung chỉ mới hội nhập xong từ thế kỷ 17, miền Nam từ thế kỷ 18, cao nguyên miền Trung cuối thế kỷ 19. Chúng ta đã tiếp nhận rất nhiều đóng góp mới về đất đai và chủng tộc. Tuy vậy tổ chức của xã hội Việt Nam lại không thích nghi với những thay đổi đó và vẫn được quan niệm một cách sai lầm như là đất nước của một cộng đồng duy nhất : cộng đồng người Kinh. Lịch sử của Việt Nam là lịch sử của người Kinh. Văn hóa của Việt Nam là văn hóa của người Kinh. Các quan niệm về đạo lý, xã hội, luật pháp đều dựa trên người Kinh và nhắm phục vụ cho người Kinh.

Có lẽ quá trình mở nước và giữ nước khó khăn của Việt Nam đã không cho cha ông chúng ta thời giờ và phương tiện để suy nghĩ về một chính sách dân tộc một cách nghiêm túc, đây là một thiếu sót lớn cần phải khắc phục. Trong suốt dòng lịch sử, trừ một vài ngoại lệ ít ỏi, người Kinh hầu như chưa hề nhìn nhận một trách nhiệm nào đối với các sắc tộc ít người mà chỉ áp đặt khuôn mẫu của mình, nếu cần bằng bạo lực. Tình trạng này nếu không được nhận định rõ rệt để kịp thời có một chính sách hội nhập thỏa đáng có thể dẫn tới những hậu quả rất tại hại, nhất là trong bối cảnh thế giới hiện nay và sắp tới. Nếu chúng ta không cảnh giác để cho tình trạng này xảy ra thì hai vùng đất rộng lớn của đất nước là vùng Thượng du miền Bắc và Cao nguyên miền Trung có thể trở thành bất ổn và không phát triển.

Các cộng đồng dân tộc (văn hóa, tôn giáo, sắc tộc) phải được tôn trọng như nhau trong một đất nước Việt Nam được định nghĩa như là đất nước của các cộng đồng. Cộng đồng người Việt gốc Chăm đã có công xây dựng và phát triển những dãy đất dọc vùng duyên hải miền Trung, những cộng đồng người thiểu số trên vùng Thượng du phía bắc và cộng đồng người Thượng sinh sống từ lâu đời trên Tây Nguyên phải được nhìn nhận là người bản địa cần được bảo vệ văn hóa và tập tục, cộng đồng người Việt gốc Khmer và cộng đồng người Việt gốc Hoa đã có mặt từ lâu đời tại miền Nam và đã từng góp công khai phá ra miền Nam, tất cả phải được coi là những người Việt Nam trọn vẹn trước luật pháp cũng như trong tình cảm dân tộc.

Quốc gia Việt Nam phải gạt bỏ mọi ý đồ đồng nhất để mưu tìm đồng tiến trong dị biệt. Chúng ta phải khẳng định rằng đất nước Việt Nam không được định nghĩa bằng một chủng tộc mà bằng sự chấp nhận chia sẻ một tương lai chung.

Nội dung bài viết này được trình bày dưới dạng biên khảo để đăng báo, do đó không có phụ chú, vì quá nhiều và quá dài. Tuy nhiên tôi xin chịu trách nhiệm về sự chính xác của những dữ kiện lịch sử (ngày, tháng, năm) cũng như những dẫn chứng về nhân chủng hay sắc tộc học. Tên các nhóm sắc tộc được viết dựa theo tiếng Anh để dễ tham khảo trong các tài liêu quốc tế. Ngược lại tên các địa danh trên cao nguyên miền Thượng được viết bằng tiếng Việt thời Việt Nam Cộng Hòa cho dễ đọc (thí dụ Đắc Lắc thay vì Đắk Lắk, v.v.). Nếu có yêu cầu viết thành sách thì tôi sẽ bổ túc thêm hình ảnh để minh họa và những chú giải một cách chi tiết để độc giả có thể tham khảo.

Kính chúc quý độc giả dành thì giờ để đọc bài viết khá dài này trong một tâm trạng bình an và một tình tự dân tộc đằm thắm.

Nguyễn Văn Huy


Người Thượng bản địa ở Lâm Đồng vào đầu những năm 1900

A. Khái quát về người Thượng

1. Người Thượng là ai ?

"Thượng" là tên gọi chung những sắc tộc bản địa sinh sống trên cao nguyên miền Trung Việt Nam (Montagnards theo tiếng Pháp và tiếng Anh). Dân số người Thượng năm 2024 trên 2,1 triệu người (tương đương với 2% dân số toàn quốc), được chia thành 19 nhóm khác nhau, đông nhất là nhóm ngữ hệ Mon Khmer (Nam Á) gồm các sắc tộc Bahnar, Sedang, H're, Mnong, Stieng… kế là nhóm ngữ hệ Malayo Polynesian (Nam Đảo) bao gồm Jarai, Rhade, Raglai, Churu...

Địa bàn cư trú của người Thượng có hình giọt nước, rộng khoảng 54.500 cây số vuông, từ vùng rừng núi phía tây các tỉnh đồng bằng duyên hải miền Trung (bắt đầu từ Quảng Bình xuống Đồng Nai) đến tận biên giới Lào và Cambodia, gồm các tỉnh Kontum, Jarai, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm Đồng (gọi chung là Tây Nguyên) và chấm dứt trên những sườn đồi phía nam dãy Trường Sơn trong các tỉnh Đồng Nai và Sông Bé. Mỗi nhóm Thượng sinh trú trong một khu vực riêng biệt với những ngôn ngữ, phong tục, tập quán riêng. Mật độ dân số trung bình khoảng 30 người trên một cây số vuông ; tỷ lệ tăng trưởng dân số trung bình là 2% một năm. Ngày nay người Thượng trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ : 35%, nghĩa là 1/3 dân số trên Tây Nguyên.

Triều đình và người Việt xưa gọi chung những sắc dân sinh sống trong vùng rừng núi, chưa thấm nhuần văn hóa Thánh Hiền (Nho giáo hay Khổng Mạnh), là man di, thổ dân hay liêu thuộc ; khi chống lại triều đình thì bị gọi là rợ, loạn. Vào giữa thế kỷ 19, khi lần đầu tiên tiếp xúc với những sắc dân sinh sống trên cao nguyên Trường Sơn, người Pháp gọi chung là "Mọi".

Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia Văn Phái, danh xưng "Mọi" xuất hiện từ thế kỷ 18 khi Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc "phò Lê diệt Trịnh". Triều thần nhà Lê (Trương Tuân và Dương Trọng Tế) thời đó gọi quân Tây Sơn là "quân Mọi". Sở dĩ có tên gọi này vì quân Tây Sơn đa số là người Thượng (đảm trách phần nhiệm tải người và vật dụng), "kẻ nào cũng lưng đóng khố, tay cầm đòn ống, mình trần trùng trục". Chưởng Tiến, một lục lâm hảo hán thời đó, mắng quân Tây Sơn là "lũ Hồng Mao", tức "mọi lông đỏ", vì trên đầu mỗi binh sĩ đều vấn vải đỏ và giắt lông chim (một phong tục của người Bahnar khi lâm trận).


Chưởng Tiến, một lục lâm hảo hán thời đó, mắng quân Tây Sơn là "lũ Hồng Mao", tức "mọi lông đỏ", vì trên đầu mỗi binh sĩ đều vấn vải đỏ và giắt lông chim (một phong tục của người Bahnar khi lâm trận).

Không biết danh xưng "Mọi" có từ bao giờ, người Pháp nói rằng người Việt đã gọi chung những sắc dân cư ngụ trên vùng rừng núi phía tây đồng bằng duyên hải miền Trung là "Mọi" từ lâu đời, với nội dung khinh bỉ vì những người này có đời sống man dã và hung tợn. Ngày nay danh xưng "Mọi" tuy không còn phổ biến nhưng trong dân gian vẫn còn những biến nghĩa tiêu cực khi muốn hạ thấp nhân phẩm hay khinh miệt đối phương với những cụm từ : "làm mọi" (làm không công, làm tôi tớ), "man mọi" (kém văn minh), "mọi rợ" (dã man, hung tợn), "thằng mọi" (kẻ đê tiện), "đồ mọi" (người kém văn minh, thiếu văn hóa)…

Trong thực tế danh xưng "Mọi" xuất phát từ lối phát âm của người Mường : "Mơl", có nghĩa là "người". Khi các giáo sĩ phương Tây đầu tiên đến Thanh Hóa vào cuối thế kỷ 16 truyền đạo, họ đã dựa theo cách phát âm của người địa phương gọi những sắc dân sinh sống trên vùng rừng núi phía tây (Trường Sơn đông) là "Mwal", rồi phiên âm ra theo tiếng la-tinh Việt ngữ hóa là "Mơ-oal" hay "Mơ-oai".

Thật ra không có sắc dân nào tên "Mơl" cả, mỗi sắc dân đều có một tên riêng đi kèm, như "Mơl Mường", tức là người Mường. Cũng như ngày nay chúng ta gọi những người nước ngoài là "người Pháp", "người Mỹ", "người Trung Quốc", v.v… chứ không gọi trỏng là Pháp, Mỹ hay Trung Quốc. Ở đây, "Mơl" chỉ có nghĩa là "người".

Khi cộng đồng người Việt từ các tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh theo Nguyễn Hoàng vào Nam (tức miền Trung ngày nay) lập nghiệp đầu thế kỷ 16, họ gọi chung chung người miền núi là "Mơ-oai" vì không biết đặt tên gì. Với thời gian, do cách phát âm riêng biệt của người Thanh Nghệ Tĩnh, danh xưng "Mơ-oai" biến âm thành "Mơ-oại", để sau cùng đọc thành "Mọi". Theo cách gọi đó, quan quân thời Nguyễn sơ đặt tên cho những thổ dân sinh sống trên vùng rừng núi phía tây dãy Trường Sơn là Mọi Đá Vách (H're), Mọi Hời (H'roi, Kor, Bru, Ktu và Pacoh), Mọi Đá Hàm (Jarai), Mọi Bồ Nông (Mnong) và Mọi Bồ Van (Rhade Epan), Mọi Vị (Raglai) và Mọi Bà Rịa (Mạ) để chỉ những sắc dân Thượng sinh trú phía tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận và Biên Hòa.


Bản đồ cư trú của những sắc dân Thượng trên Cao nguyên miền Trung Việt Nam (An Nam) với những danh xưng riêng biệt.

Thời Việt Nam Cộng Hòa có người dùng chữ người Sơn Cước cho có vẻ văn chương và văn hóa hơn, nhưng danh xưng này bao hàm tất cả những cư dân bản địa sinh sống trên vùng núi non và cao nguyên miền Bắc lẫn miền Trung, do đó không thể dùng để chỉ riêng người Thượng.

Giới bình dân gọi tất cả những thổ dân không phải là người Việt có nước đã ngâm đen sinh sống bên cạnh họ là người miền ngược, người miền núi, thượng bang, người thiểu số, người sắc tộc, ngày nay được gọi chung là người dân tộc (sic).

Các chế độ chính trị thời Việt Nam Cộng Hòa gọi chung những cộng đồng thiểu số là đồng bào sắc tộc. Chế độ cộng sản còn đi xa hơn, đồng hóa danh xưng sắc tộc (ethnie) với dân tộc (nationalité) theo cách gọi của Liên Xô cũ và Trung Quốc ; sắc tộc thiểu số đổi thành dân tộc thiểu số, mỗi sắc tộc là một dân tộc (dân tộc Rhade, dân tộc Mạ...), chính vì thế ngày nay người Việt trong nước gọi chung người Thượng là "người dân tộc". Buồn cười nhất là dân số những sắc tộc ít người tính đến năm 2019 chỉ vài trăm như người Rmam (hơn 600 người), Brao (hơn 500 người) vẫn được gọi là dân tộc Rmam, dân tộc Brao.

Cũng nên biết Liên Xô cũ và Trung Quốc ngày xưa là những đế quốc thâu tóm hay kết nạp nhiều quốc gia đông dân hay lãnh thổ rộng lớn khác vào lãnh thổ chung của họ nên không thể định nghĩa những sắc dân sinh sống trong không gian sinh tồn của họ theo tiêu chuẩn dân tộc học, vì trong mỗi quốc gia hay lãnh thổ đều có một dân tộc đa số và nhiều sắc tộc thiểu số khác nhau (mỗi nhóm có đến hàng chục triệu người). Chính Nga (Liên Xô cũ) và Trung Quốc ngày nay cũng đang lấn cấn trong cách gọi "dân tộc" đối với những sắc tộc thiểu số trong mỗi lãnh thổ.

Trong bài này, người viết sử dụng danh xưng "Thượng", một cách gọi đặc trưng để chỉ những nhóm dân cư bản địa sinh sống trên vùng cao nguyên miền Trung trước khi sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam, nay là Tây Nguyên. Thượng có nghĩa là người ở miền cao hay trên miền núi.


Một nhóm người Thượng đầu thế kỷ 20

2. Cộng đồng người Thượng được hình thành như thế nào ?

Sinh sống trên một địa bàn hiểm trở, giữa núi rừng ẩm ướt, vật dụng sinh hoạt chính của người Thượng là tre và gỗ rừng. Văn minh của người Thượng có thể gọi là văn minh thảo mộc, dễ bị hư mục theo thời gian, do đó không có những di tích khả dĩ tồn tại lâu dài với thời gian để có thể nối lại những mắc xích của quá khứ. Gần đây nhiều di chỉ khảo cổ trên Tây Nguyên được khám phá, nhưng những phát hiện này dừng lại ở thời đại đồ đá cách đây từ 10.000 đến 30.000 năm, giai đoạn cận kim hoàn toàn thiếu vắng. Thêm vào đó người Thượng không có chữ viết, không có những diễn đạt tượng hình (hieroglyph), nên việc truy tìm nguồn gốc quá khứ hay lịch sử rất là khó khăn.

Sự hiện diện của họ chỉ được biết đến qua những huyền thoại dân gian, những truyền thuyết được truyền khẩu từ đời này sang đời khác, sự trung thực do đó rất khó kiểm chứng lại càng không thể chứng minh. Những truyền thuyết và truyền khẩu phần lớn được các tay phiêu lưu, nhà mạo hiểm và giáo sĩ Pháp ghi lại ; nội dung ban đầu có tính miệt thị sau đó mang tính huyền bí của kinh thánh, để rồi được thêu dệt và trình bày theo những thiên kiến và chủ đích của các thế lực cầm quyền khác nhau trên bán đảo Đông Dương. Lịch sử của người Thương trên cao nguyên miền Trung Việt Nam chính vì vậy chưa bao giờ được diễn giải một cách trung thực và khách quan.

Mặc dầu vậy, với quyết tâm, chúng ta vẫn có thể nối kết những mắc xích thời gian về sự hiện diện của cộng đồng người Thượng dựa vào những di tích khảo cổ hay bút tích biên niên của các thế lực xưa trong vùng : Phù Nam, Angkor, Chân Lạp, Chiêm Thành, Xiêm La và Đại Việt, để từ đó vẻ lại bức họa đồ quá trình hình thành các cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử cộng đồng người Thượng chính vì vậy cũng là tìm hiểu nguồn gốc của dân tộc Việt Nam, bởi vì ngày nay cộng đồng người Thượng là những công dân Việt Nam trọn vẹn, tổ tiên của họ cũng là tổ tiên chung của dân tộc Việt Nam. Nhiệm vụ của những người Việt còn ưu tư đến tương lai đất nước là phải suy tìm và đề nghị một chính sách hội nhập các cộng đồng dân tộc phù hợp với tinh thần đa nguyên trong tình anh em tìm lại. Đây là một việc làm cấp bách và cần thiết.

Từ thời nguyên sơ, trên Tây Nguyên không có chủng tộc nào có những tên gọi như ngày nay. Tổ tiên người Thượng phần lớn là người đồng bằng chạy lên cao nguyên lánh nạn sau những biến động và ở lại luôn ; với thời gian, những hòa trộn về chủng tộc giữa các nhóm di dân cũ và mới trên chốn rừng núi khai sinh ra những nhóm sắc tộc khác nhau và tồn tại cho tới ngày nay. Cũng nên biết vùng rừng núi Trường Sơn trước khi được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 là địa bàn lánh nạn lý tưởng cho những người thích sống tự do, từ chối sự thống trị của các thế lực đồng bằng.

Về mặt nhân chủng, lãnh thổ Đông Dương có thể là nơi sinh trú của những sắc dân có nguồn gốc đại chủng phương Nam (Australoid) cách đây 55.000 năm. Với thời gian, nhiều sắc dân khác từ lục địa Nam Á (Austroasiatic) đến hội cư. Với thời gian, những nhóm chủng tộc này trở thành cư dân bản địa trên vùng rừng núi Đông Dương.

Theo kết quả của nhiều nghiên cứu nhân chủng học, cư dân đầu tiên trên Tây Nguyên mang nặng yếu tố Veddoid (hay Negroid, nước da ngâm đen, dáng người nhỏ thấp, tóc đen soắn, xuất hiện cách đây từ 10.000 đến 5.000 năm), sinh sống bằng nghề săn bắn và hái lượm, biết chế tác dụng cụ và vũ khí bằng xương thú và đá đẽo.

Vào đầu công nguyên, những nhóm người đến từ sông Indus, người Hindu (Ấn Độ), dùng thuyền bơi dọc theo bờ biển Nam Á đến nơi sinh trú của những nhóm dân cư Mon bản địa phía nam trên bán đảo Đông Dương để buôn bán và thành lập những trạm thu mua trong thời gian tạm trú. Những nhóm Hindu này đã chọn vùng biển Vịnh Hà Tiên ngày nay để lập những trạm thu mua làm nơi cư trú. Dưới ảnh hưởng của họ, những nhóm Mon bản địa đã tiếp nhận nền văn minh Ấn Độ và hình thành một vương quốc sơ khai dưới tên gọi bằng chữ Hán là Phù Nam (tiếng Khmer : Phnum, có nghĩa là đồi núi hay vùng đất cao). Từ thế kỷ thứ 3 sau công nguyên, Phù Nam đã trở thành một vương quốc độc lập, thu hút sự hợp tác của những dân cư Mon bản địa chung quanh.

Trong khi đó những nhóm dân cư Mon sinh sống sâu trong nội địa, trên vùng đồi núi phía đông bắc (Trường Sơn tây) mà người Khmer gọi là Phnong, ít bị ảnh hưởng bởi nền văn minh Ấn Độ. Cho đến nay khoa khảo cổ không tìm thấy một di chỉ hay di tích nào liên quan đến vương quốc Phù Nam. Do được bảo vệ bởi địa thế hiểm trở, những nhóm Mon này tiếp tục duy trì lối sống cổ truyền và khép kín nên không theo kịp đà phát triển chung của những nhóm Mon đồng bằng, họ thường xuyên bị các thế lực Phù Nam và Chân Lạp (Chenla) truy lùng bắt làm gia nhân phục dịch hay nô lệ xây dựng đền đài.

Theo mô tả của Mã Đoan Lâm (Ma Tuan-lin), một nhà thám hiểm Trung Hoa thời Nam Tống, trong tài liệu Văn Hiển tùng khảo (Wenxian tongkao) phát hành năm 1317, thì "người Phù Nam rất xấu xí, có nước da ngăm đen, tóc xoăn, không mặc quần áo và xăm hình toàn thân, nơi ở của họ rất kiên cố. Họ ở trên nhà sàn lợp bằng lá tre, biết chạm đồ bằng bạc, làm nhẫn và vòng tay bằng vàng hoặc bạc. Không có nhà tù, nhưng cả người tố cáo lẫn bị cáo đều phải chịu những cực hình tàn khốc, chẳng hạn như bị ném xuống vùng nước sâu chỉ những ai sống sót mới được coi là vô tội". Khi thực dân Tây Ban Nha chiếm đóng những hải đảo vùng Đông Nam Á vào thế kỷ 18, họ gọi chung những nhóm dân cư bản địa này là Negritos, nghĩa là những sắc dân có nước da ngâm đen, dáng người thấp nhỏ nhưng không phải là người Châu Phi.

Sau khi thiết lập các trạm buôn bán và góp phần thành lập vương quốc Phù Nam, những người Hindu tiếp tục đi thuyền về phía đông, dọc vùng biển miền Trung và tiếp xúc với các nhóm dân cư bản địa, thuộc ngữ hệ Malayo Polynesian, để thành lập những trạm giao thương. Tổ tiên của những cư dân sinh sống dọc bờ biển miền Trung Việt Nam thời đó cũng đến từ các hải đảo ở biển Đông, họ biết tổ chức chính quyền và thành lập những tiểu vương quốc độc lập. Với thời gian, những nhóm Malayo Polynesian này kết hợp lại với nhau thành dân tộc Chăm và thành lập vương quốc Champa hùng tráng chịu ảnh hưởng của nền văn minh và văn hóa Ấn Độ. Sự đa dạng về chủng tộc và ngôn ngữ của những nhóm dân cư bản địa Đông Nam Á đã là đề tài tranh cãi giữa những nhà nhân chủng và ngôn ngữ học phương Tây trong suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.

Về ngữ hệ, vào giữa thế kỷ 19 những nhà ngôn ngữ học phương Tây xếp chung những nhóm dân cư Nam Đảo (Austronesian) sinh sống trên các hải đảo Đông Nam Á vào ngữ hệ Malayo Polynesian, để phân biệt với những sắc dân gốc Nam Á (Austroasiatic) đa số, sinh sống trong lục địa Đông Nam Á, thuộc ngữ hệ Mon khmer.

Trên bán đảo Đông Dương, vào thời kỳ đồ đá mới, sự cộng cư giữa hai nhóm Mon Khmer và Malayo Polynesian có lẽ đã diễn ra không yên bình. Những nhóm dân cư Nam Đảo đến từ các vùng biển, do văn minh và khỏe mạnh hơn, thường lấn át những nhóm dân cư Nam Á lục địa. Từ đó có sự phân chia địa bàn cư trú giữa hai nhóm chủng tộc này : người gốc Mon Khmer sinh sống sâu trong lục địa Đông Nam Á, người gốc Malayo Polynesian sinh sống dọc các bờ biển từ vịnh Thái Lan đến các vùng duyên hải miền Trung. Với thời gian, mỗi nhóm an cư lạc nghiệp và sống hợp quần trên những vùng đất cố định và giữ nguyên những đặc trưng riêng biệt của mình : ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, v.v. Cả hai nhóm sắc tộc mới này (Mon Khmer và Malayo Polynesian) đều nắm vững kỹ thuật chế tác vật dụng bằng gốm, dệt vải, rèn luyện kim loại thô sơ, chăn nuôi và làm rẫy. Từ sau công nguyên, hai cộng đồng chủng tộc này hình thành hai thế lực chính trị, kinh tế và quân sự hùng mạnh kình địch lẫn nhau trên bán đảo Đông Dương : đế quốc Khmer trong nội địa phía tây và vương quốc Champa dọc vùng duyên hải miền Trung Việt Nam ngày nay.

Cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung Việt Nam được hình thành sau những biến cố nội tại của mỗi thể chế hay chiến tranh với của thế lực trong vùng :

- Người Thượng gốc Mon Khmer là những nhóm dân cư Phnong dưới triều đại Angkor, một số trốn chạy những cuộc ruồng bắt nô lệ của người Khmer để xây đền đài hay những cuộc truy diệt của quân Xiêm La tại Chân Lạp từ thế kỷ thứ 9, một số khác được trả tự do sau khi đế đô Angkor bị quân Thái chiếm đóng từ năm 1336 đến thế kỷ 15. Tất cả đều chọn lên vùng rừng núi phía tây nam (Battambang) và phía đông (Trường Sơn tây) lánh nạn. Tại những vùng định cư mới này, mỗi nhóm giữ gìn những phong tục tập quán và ngữ hệ cũ đã hấp thụ tại đồng bằng và hình thành những nhóm sắc tộc khác nhau được người Pháp đặt cho những tên riêng như Bahnar, Stieng, H're, Mnong, Sedang…

- Người Thượng gốc Malayo Polynesian là những nhóm dân cư và binh lính dưới các vương triều Champa thua trận trốn chạy lên Tây Nguyên lánh nạn sau những cuộc truy lùng của những tiểu vương tranh chấp lẫn nhau, của quân Java từ biển tràn vào hay quân Đại Việt từ phía bắc tiến xuống. Họ chỉ có một lối thoát duy nhất là chạy lên vùng rừng núi phía tây (Trường Sơn đông) lánh nạn và ở lại luôn. Sự hiện diện của họ được những nhà phiêu lưu và giáo sĩ Pháp đặt cho những tên gọi riêng như Jarai, Rhade, Raglai, Churu...

Thừa hưởng những nguồn gốc chủng tộc và văn hóa hấp thụ từ đồng bằng, cộng đồng người Thượng trên cao nguyên tổ chức lại cuộc sống. Họ bắt đầu biết kết hợp thành bộ lạc, dựng nhà sàn, chăn nuôi trâu bò, thuần dưỡng voi rừng để chuyên chở hay xung trận, đốt rừng làm rẫy và săn bắn. Ý thức quyền lực ngày càng rõ nét, những bộ tộc lớn thường tấn công những bộ lạc nhỏ và yếu hơn để bắt phụ nữ và nô lệ phục vụ mình, danh xưng Vua Nước (Thủy Xá) và Vua Lửa (Hỏa Xá) phát sinh từ buổi ban sơ này.

Nhờ đất đai còn hoang trống, những nhóm nhỏ và yếu hơn, không muốn bị đồng hóa hay bị bắt làm nô lệ, trốn vào những chốn rừng sâu tránh nạn và ở lại luôn. Sống tách biệt với thế giới bên ngoài, những nhóm nhỏ yếu này càng trở nên lạc hậu và yếu kém hơn. Sự di chuyển theo đàn thú rừng và lối canh tác du mục cũng làm thay đổi yếu tố thuần chủng của từng nhóm và chỉ chấm dứt khi người Pháp đến cai trị toàn bộ lãnh thổ Tây Nguyên vào cuối thế kỷ 19.

Với thời gian, tranh chấp về không gian sinh tồn và lãnh đạo giữa những bộ tộc lớn ngày càng gắt gao, một số đã nhờ các thế lực đồng bằng (Phù Nam, Chân Lạp, Angkor và Chiêm Thành) lên can thiệp và chấp nhận triều cống. Từ đó sự hiện diện của cộng đồng người Thượng bắt đầu xuất hiện trong những ghi chép hay văn kiện biên niên của các triều vương đồng bằng.

Quan hệ giữa người Thượng và người Champa có thể đã có từ lâu đời nhưng chỉ cụ thể hóa mỗi khi quân Champa bị quân Việt đánh bại phải chạy lên Tây Nguyên lánh nạn trong những buôn làng người Kirata (Rhade và Jarai) phía bắc lãnh thổ Vijaya (Bình Định). Năm 1471 kinh đô Đồ Bàn (Vijaya) của vương quốc Champa bị quân Việt đánh chiếm, những vùng đất phía đông dãy Trường Sơn đặt dưới quyền cai trị của nhà Lê. Năm 1540 vua Lê Trang Tôn giao cho Trấn quận công Bùi Tá Hán cai quản xứ Nam Bàn (tức Kontum, Pleiku và Darlac ngày nay), người Chăm bỏ chạy xuống những vùng lãnh thổ phía nam (Panduranga) lánh nạn hay trốn tránh trong vùng rừng núi phía tây và được người Churu, Raglai, Koho và Mạ che chở.

Quan hệ đầu tiên giữa người Thượng với các thế lực Khmer được ghi nhận vào năm 1601 trong Khế ước Samboc, do vua Chân Lạp Barom Reacha IV (Soryopor) ban hành, quy định nghi lễ trao quà ba năm một lần cho hai tiểu vương (Sadet) Thủy Xá và Hỏa Xá trên vùng rừng núi phía đông bắc để cầu sự yên lành và được hỗ trợ khi có biến. Trong thời kỳ này, những sắc tộc Thượng Krol, Bhiet, Mnong và Stieng tại Srung Treng, Kratie (phía bắc Cambodia ngày nay) và sắc tộc Kra tại Bassac (Nam Lào ngày nay) tung hoành như chốn không người và chỉ yên bình khi quân Pháp làm chủ vùng cao nguyên khu vực Tam Biên (Cambodia, Laos và Việt Nam) năm 1894.

Tại Việt Nam, sự hiện diện của người miền núi đã được ghi lại trong biên niên sử do các sứ thần của triều đình nhà Lê và nhà Nguyễn báo cáo trong thế kỷ 18, nhưng những thông tin cụ thể về cộng đồng người miền núi chỉ được ghi chép một cách có hệ thống từ khi người Pháp can thiệp vào Đông Dương vào cuối thế kỷ 19. Qua các tài liệu và văn bản này, chúng ta có thể lần ra mối quan hệ giữa triều đình với người miền núi và những chính sách hội nhập cộng đồng người Thượng dưới thời các vương triều Việt, chính quyền thực dân Pháp trước kia và các chính quyền Việt Nam sau này. Trong thời Pháp thuộc (1884-1954), tất cả những nhóm sắc tộc Thượng sinh sống trên cao nguyên miền Trung đã lần lượt được khám phá và liệt kê trong các văn bản.

Tuy có một quá khứ lâu dài, cộng đồng người Thượng từ khi xuất hiện cho đến nay chưa bao giờ kết hợp lại thành một vương quốc hay một thực thể chính trị có tổ chức. Sự cô lập của người Thượng trên cao nguyên không phải tình cờ, mỗi nhóm hùng cứ một nơi, sinh hoạt quay quần quanh một vị thủ lãnh hay một dòng tộc.

3. Quan niệm Ấn Độ giáo và Phật giáo về người Thượng

Tham khảo sử liệu các thế lực lớn trong khu vực, Trung Quốc cổ đại và các vương quốc cổ xưa trên bán đảo Đông Dương (Phù Nam, Angkor, Chân Lạp, Champa, Xiêm La), ít có tài liệu nào nhắc tới người miền núi như một thực thể quyền lực.

Thời vua Yasovarman (889-900) triều đại Angkor có nhắc tới hai nhóm dân, người Thái phía tây và người Phnong phía đông, bị bắt làm nô dịch phục vụ giai cấp cầm quyền hay làm nô lệ xây dựng đền đài. Nhà du hành Trung Quốc, Chu Đạt Quán (Tcheu Ta-kuan), khi đến thăm triều đình vua Angkor Indravarman III năm 1296, đã kể lại rằng "người man tràn đầy thị trường nô lệ tại kinh đô ; những ai không muốn bị bắt phải chạy vào những chốn rừng sâu và xa hơn để lánh nạn".

Năm 1336, sau khi vua Jayavarman VIII qua đời, triều đình mới tại Angkor bãi bỏ biểu tượng coi vua là thần (deva), đoạn tuyệt với Ấn Độ giáo (Hinduism) và loại tầng lớp quý tộc cũ ra khỏi guồng máy cầm quyền. Giới lãnh đạo mới chọn triết lý Phật giáo làm phương thức điều hành đất nước, lấy Phật giáo Tiểu thừa (Hinayana) làm tôn giáo chính của triều đình và tồn tại cho tới ngày nay. Tiếng Pali thay tiếng Phạn (Sanscrit) và trở thành ngôn ngữ trao đổi trong chốn cung đình và ở khắp mọi nơi. Việc xây dựng các đền đài lớn bằng đá và gạch bị bãi bỏ, chỉ những chùa chiền và cung điện xây dựng bằng vật liệu nhẹ (gỗ, tre) mới được cho phép. Mất việc, một khối lượng lớn nhân công xây dựng, canh tác lúa nước và chăn nuôi tại kinh đô trở về quê quán cũ sinh sống, trong đó đông nhất là người Thái, kế là người Phnong.

Việc đuổi người Thái về lại quê quán cũ là một sai lầm chiến lược lớn của Jayavarman III. Chính những Thái này sau khi về nước đã tổ chức lại lực lượng và thành lập vương triều Ayutthaya. Trong suốt 80 năm, từ 1352 đến 1431, triều Ayuttaya đã nhiều lần cất quân sang đánh Angkor và sau cùng đánh bại vương triều Khmer.

Vào thời cực thịnh nhất, quần thể kinh đô Angkor rộng khoảng 1000 km2 là nơi sinh sống của hơn 750.000 người. Cuộc chiến giữa Ayutthaya và Angkor có lẽ đã rất đẫm máu và mang tính diệt chủng, vì không còn một người Khmer nào sống sót để kể lại những gì đã xảy ra. Nền văn minh Angkor đã bị xóa hẳn trong ký ức tập thể của người Khmer trong suốt 430 năm. Phải chờ tới năm 1860, một nhà sưu tầm bươm bướm Pháp, Henri Mouhot, đi lạc vào khu di tích Angkor bị cây rừng che khuất và vô tình khám phá ra khu di tích quý báu này.

Những nhóm Mon bao gồm nhiều sắc tộc nhỏ khác nhau như người Soch thì trở về quê quán cũ phía tây nam (Battambang), người Samre (hay Pear) đi về phía tây bắc (Siemreap), người Kha (Kuy) tiến lên miền bắc (Nam Lào), người Phnong và người Brao chạy về phía tây, cư trú ở vùng cao nguyên phía đông bắc (Dakto) và trở thành người Mnong và Brâu tại Việt Nam ngày nay.

Cho dù có được cuộc sống tự do, số phận của những nhóm di dân thiểu số không khá gì hơn trước, họ vẫn tiếp tục bị khinh miệt bởi các vương triều đương quyền. Lý do là vì nguyên tắc lãnh đạo và điều hành xã hội của các vương quyền Đông Nam Á thời đó dựa trên quan điểm triết lý của đạo Bà La Môn và giáo lý của Phật giáo nguyên thủy, cộng đồng người Thượng bị gạt ra lề xã hội.

3.1. Đạo Bà La Môn

Đạo Bà La Môn (Brahmanism), ngày nay là Ấn Độ giáo (Hinduism), được truyền vào Đông Dương theo chân các thương gia và giáo sĩ Ấn Độ (Hindi) vào đầu công nguyên. Sau khi thiết lập xong những trạm thu mua, những thương gia và giáo sĩ Hindi ở lại những vùng đất mới chờ trời yên biển lặng mới đi thuyền về lại quê quán cũ. Trong thời gian tạm trú, những giáo sĩ Hindi này truyền bá triết lý cầm quyền cho giới quý tộc bản địa và được giao giữ những vai trò quan trọng trong việc huấn luyện giai cấp lãnh đạo và tổ chức cầm quyền. Đạo Bà La Môn có thể nói là tôn giáo đầu tiên của người Khmer, những ngôi đền Shaivism uy tín nhất đều nằm ở Angkor.

Ngoài Tam thần Brahma (Phạm Thiên) là đấng tạo hóa, Vishnu (Tỳ Thấp Nô) là đấng bảo hộ, Shiva (Thấp Bà) là đấng hủy diệt] biểu tượng sự sống (Yoni và Linga), hệ thống đẳng cấp (Caste) của đạo Bà La Môn được giai cấp cầm quyền bản xứ thời đó tích cực bảo vệ vì vai trò lãnh đạo xã hội của họ được thần linh hóa và không ai có quyền tước đoạt.

Đạo Bà La Môn quy định thứ tự đẳng cấp của hệ thống này như sau :

1. Brahman (Bà-la-môn) gồm những giáo sĩ, tu sĩ, triết gia, học giả và các vị lãnh đạo tôn giáo, tức là những người giữ quyền thống trị tinh thần, phụ trách về lễ nghi, cúng bái. Đây là đẳng cấp cao thượng nhất, được sinh ra từ miệng Brahma nên có quyền thay mặt Brahma cầm cương lãnh đạo tinh thần dân tộc. Người thuộc đẳng cấp này có quyền ưu tiên được tôn kính, và an hưởng cuộc đời sung sướng do các đẳng cấp khác cung phụng. Dân cư sinh sống trong vùng ảnh hưởng của Ấn Độ giáo rất tôn sùng đẳng cấp này.

2. Kshatriya (Sát-đế-lỵ hay Sát-đế-lợi) là hàng vua chúa quý tộc, quan lại, võ tướng. Những người này được sinh ra từ cánh tay Brahma, do đó có quyền thay mặt Brahma nắm giữ quyền hành thống trị dân chúng.

3. Vaisya (Phệ-xá) là những người bình dân, thương gia, nông dân. Những người này được sinh ra từ bắp vế Brahma nên có nhiệm vụ lo về kinh tế trong nước (mua bán, trồng trọt, mang về hoa lợi cho quốc gia).

4. Sudra (Thủ-đà-la) là hàng tiện dân. Những người này được sinh từ gót chân Brahma nên số phận của họ là phải phục vụ ba đẳng cấp trên.

Tổ tiên thuộc đẳng cấp nào thì con cháu thuộc đẳng cấp đó, dù cố gắng phấn đấu đến đâu đi nữa cũng không thể được nâng lên đẳng cấp cao hơn. Người thuộc các đẳng cấp cao không được kết hôn với người thuộc đẳng cấp thấp. Một số công việc dành cho người thuộc đẳng cấp cao thì người thuộc đẳng cấp thấp hơn không được phép làm, như cúng tế tôn giáo, làm quan, tướng lãnh quân đội.

Trong xã hội Chiêm Thành (Champa) thời đó còn có một hạng Sudra khác, gọi là Sudra niravasita (những kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội), đó là những người bị coi là thấp kém không xứng đáng làm người, những kẻ thô lỗ (candala), cách sống của họ làm đảo lộn trật tự đạo lý Bà-la-môn giáo. Tại một vài nơi họ còn bị coi là người bán khai (adivasi). Trong thời chiến, những adivasi này được tuyển dụng làm lực lượng hỗ trợ cho quân đội : khuân vác thực phẩm và đạn dược, chăm sóc voi và ngựa. Nói chung, đó là một "kẻ bán khai", một nô lệ đang còn tự do [Adhémar Leclère, Recherches sur là législation cambodgienne (Droit privé), Challamel, Paris, 1890, in Paul Guilleminet, Coutumier để là tribu bahnar, des Sedang et des Jarai de la province de Kontum, tome 1er, Publications để l'EFEO, Hanoi, 1952, p 98].

Ngoài ra còn có một đẳng cấp khác, gọi là Dalit hay Pariah (Chiên-đà-la), là đẳng cấp thấp hèn nhất, họ là những người cùng khổ. Số phận của nhóm người này là phải làm các nghề ti tiện nhất (gánh phân, dọn nhà vệ sinh, giết mổ gia súc). Họ bị xếp vào hạng người đê tiện, phải sống bên lề xã hội loài người, bị các giai cấp trên đối xử như thú vật. Đời sống của họ vô cùng khổ nhục, tối tăm. Họ không được chạm tay vào người thuộc các đẳng cấp khác, thậm chí không được giẫm lên cái bóng của những người thuộc đẳng cấp cao như Brahma, Kshatriya.

Dưới thời các vương triều Chân Lạp, Angkor và Champa, cộng đồng người Thượng sinh sống trong những vùng xa và vùng sâu bị đồng hóa vào đẳng cấp Dalit hay Pariah này, vì không mang dòng máu Khmer hay Chăm. Cộng đồng người Thượng trên cao nguyên không được xếp vào bốn đẳng cấp của đạo Bà La Môn, do đó không người Thượng nào được theo đạo Bà La Môn.

3.2. Phật giáo

Đạo Phật được truyền bá bởi các nhà sư đi theo các đoàn tàu thuyền của thương nhân Ấn Độ giáo tới Đông Nam Á để buôn bán. Từ thế kỷ thứ 4 sau công nguyên, sư sãi Phật giáo bắt đầu xuất hiện trong nhiều vương quốc thuộc ảnh hưởng Ấn Độ ở Đông Dương như Phù Nam và Lâm Ấp, sau đó tiếp tục gia tăng dưới các vương triều Chân Lạp, Angkor và Champa.

Khác với những giáo sĩ Ấn Độ giáo, cũng đi theo những thương nhân bằng tàu thuyền đến Đông Nam Á để buôn bán, khi giao tiếp với dân cư bản địa họ rao giảng khái niệm chính trị và cầm quyền cho giai cấp lãnh đạo bản địa bằng tiếng Phạn (sanscrit) khó hiểu ; những sư sãi Phật giáo tiểu thừa (hinayana) này truyền bá cho người dân bản địa một tinh thần bao dung, một loại chữ viết giản dị bằng tiếng Pali dễ đọc và dễ nhớ để tụng kinh. Sự ôn hòa của giáo lý Phật giáo rất được dân chúng và giới tinh hoa Khmer ủng hộ. Vào thế kỷ 14, vương triều Angkor đoạn tuyệt với Ấn Độ giáo và lấy Phật giáo tiểu thừa làm quốc giáo, và còn tồn tại cho đến bây giờ.

Giáo lý nguyên thủy của Phật giáo (theravada) dựa trên một tiền đề kép theo thuyết luân hồi : người làm điều thiện sẽ được tái sinh trong cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc hơn, nếu tu tâm tích đức tốt hơn có thể được siêu thoát về cõi niết bàn ; người làm điều ác sẽ tái sinh trong cuộc sống cơ cực, bần hàn và đau khổ.

Theo một ghi nhận về giáo lý Phật giáo dân gian, "những kẻ bán khai" không được coi là người, họ là những kẻ bị "nguyền rủa" vì không làm chủ được thân thể của mình. Họ đau khổ và luôn chống chọi với cái đói hay những nhu cầu vật chất tối thiểu. Họ phải lang thang trong rừng như loài thú hoang để tìm kiếm thức ăn. Họ không có chữ viết, không có tôn giáo, không có kiến ​​thức về vũ trụ. Họ không phân biệt được thiện và ác. Họ vẫn gắn bó vào việc thờ cúng vật linh. Nếu không chống lại giai cấp cầm quyền và chế độ chính trị, họ được sống tự do trong môi trường hoang dã của họ (Jean & Pierre Filliozat, Bouddhisme indien, Corpus B, Encyclopædia Universalis, Paris, 1992). Trong sinh hoạt tôn giáo hay tín ngưỡng của người Thượng, không có người nào theo Phật giáo.

Nguyễn Văn Huy