Hòa thượng Tuệ Sỹ trong dòng sống của dân tộc
Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong dòng sống của dân tộc và hướng đi của thời đại
Thị Nghĩa Trần Trung Đạo, VOA, 24/11/2023
Hòa thượng Tuệ Sỹ biết mình thân đang mang trọng bệnh. Khó khăn duy nhất mà ngài không thể vượt qua là thời gian. Vì không có đủ thời gian để làm hết những điều mình mong muốn nên Hòa thượng ưu tiên hóa những đề án, những công việc phải làm.
Dù đứng từ góc cạnh nào, không ai có thể phủ nhận vai trò và sự đóng góp của Phật giáo vào dòng sống của dân tộc Việt. Đạo Phật là một tôn giáo rất đặc biệt trong nền văn minh nhân loại vì đáp ứng được các khao khát của con người theo từng thời đại không phân biệt màu da hay sắc tộc.
Kinh điển giống nhau nhưng đạo Phật mang sắc thái riêng khi đến mỗi quốc độ để từ đó có Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Thái Lan, Phật giáo Việt Nam v.v... Nhưng đạo Phật tại Việt Nam rất khác. Đạo Phật Việt Nam hòa tan trong tâm hồn mỗi con người. Tinh thần Phật giáo bàng bạc trong lời ru của mẹ, lời dạy bảo của cha. Một câu thơ, câu văn được các tác giả viết ra đã có tư tưởng Phật giáo dù tác giả không phải là một tín đồ Phật giáo.
Khi dừng chân tại Việt Nam, đạo Phật không chỉ đem lại cho con người những phương tiện cần thiết để đạt đến giải thoát, an lạc như tại nhiều nơi khác mà còn dung hóa và dung hợp một cách hài hòa vào dòng sống dân tộc, góp phần quan trọng trong việc xây dựng nền tảng văn hóa, đạo đức của dân tộc và là thành lũy tinh thần để bảo vệ Việt Nam.
Sau nhiều trăm năm bị đóng khung trong tứ thư ngũ kinh Nho giáo rồi Trịnh Nguyễn phân tranh, dân tộc Việt lại phải đối diện với Thực dân xâm lược. Ông bà chúng ta bàng hoàng trước sức mạnh cơ khí của Thực dân. Việt Nam trở thành một thuộc địa của Pháp nhưng tinh thần Việt Nam được hun đúc suốt nhiều ngàn năm không vì thế mà mất đi. Dòng văn hóa vẫn tiếp tục chảy dù phải chảy qua những vách đá cheo leo và có khi phải nhỏ từng giọt xuống trái tim người yêu nước.
Người Việt quan tâm đứng trước hai chọn lựa (1), đi vay mượn các chủ thuyết ngoại lai, mượn súng đạn của ngoại bang về để "giải phóng dân tộc", thực chất là thay một hình thức nô lệ này bằng hình thức nô lệ khác (2), nâng cao nhận thức văn hóa, xã hội, chính trị phù hợp với hướng đi thời đại kết hợp với phát huy nội lực dân tộc để tự khai hóa chính mình thay vì "bị khai hóa" bởi thực dân.
Để tồn tại, vượt qua và vươn lên, chư tổ Phật giáo chọn con đường thứ hai. Con đường đó không phải tìm đâu khác, không vay mượn của ai khác mà trở về và phát huy những tố chất uyên nguyên của dân tộc. Nội dung của hành trình về nguồn đó chính là phong trào chấn hưng Phật giáo bắt đầu vào những năm cuối của thập niên 1920.
Giống như ngài Anagarika Dharmapala (1864-1933), nhà văn và nhà đấu tranh cho nền độc lập Tích Lan, các tổ Khánh Hòa, Giác Nguyên, Khánh Anh, Giác Tiên, Phước Huệ, Tố Liên, Trí Hải… của Việt Nam cũng đã rời những thiền phòng để chống gậy trúc đi vào lòng đất nước. Các ngài lắng nghe nỗi đau của dân tộc, đánh thức tinh thần yêu nước, độc lập tự chủ trong lòng mỗi người dân Việt để qua đó phục hưng dân tộc bằng phương tiện giáo dục bởi vì chỉ nâng cao nhận thức mới có thể chuyển hóa hai nguồn bạo lực đến từ Tây phương gồm chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa cộng sản.
Con đường chấn hưng Phật giáo như chư tổ vạch ra là một con đường dài, cần nhiều thời gian và đầy khó khăn nhưng là con đường đích thực.
Sau nhiều thăng trầm, gian khó và hy sinh, cuộc hành hương về nguồn cội đó đã dẫn đến sự ra đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất) vào tháng Giêng, 1964 tại Chùa Xá Lợi, Sài Gòn. "Thống nhất", trong ý nghĩa đó không chỉ là một tập hợp mang tính hình thức của 11 giáo phái ký tên trong Hiến chương 1964 mà là bước phát triển cao hơn của một truyền thống đã có từ nhiều ngàn năm.
Được thành lập trong một giai đoạn lịch sử đầy ngộ nhận, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất dễ được hiểu như là kết quả của một biến cố chính trị. Biến cố có thể là "điểm vỡ" để Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được hình thành nhưng các giá trị hàm chứa trong Hiến chương 1964 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không đơn giản chỉ là kết quả của việc đổi thay một chế độ.
Từ đó đến nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là nơi giữ gìn các giá trị tinh thần, các truyền thống văn hóa, lịch sử hai ngàn năm và sau này của Phật giáo Việt Nam. Dù bụi phủ, dù rêu phong căn nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vẫn là căn nhà chính danh và chính thống của mọi người con Phật Việt Nam.
Lịch sử của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ khi ra đời tháng Giêng, 1964 cho tới khi Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ chính thức đảm nhiệm chức vụ Chánh Thư ký kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống đã gần 60 năm với không biết bao nhiêu gian khó.
Đạo Phật tại Việt Nam không chỉ gồm một nhóm nhỏ những tu sĩ bị tha hóa mà chúng ta thường nghe hay thấy tại Việt Nam. Ẩn mình trong đám mây đen là ánh sáng của vầng dương trí tuệ và che giấu dưới lớp rêu xanh là những viên ngọc từ bi nhẫn nhục. Hàng ngàn, hàng vạn tăng sĩ Phật giáo đang âm thầm chuyên tâm tu tập chờ cơ hội đóng góp thiết thực cho đạo pháp và dân tộc. Các bậc Như Lai Trưởng Tử đó đang dâng hiến cuộc đời cho Phật giáo Việt Nam và Dân tộc Việt Nam trong nhiều cách khác nhau trên khắp ba miền đất nước. Họ có thể chưa nghe nhiều về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hay chưa đứng hẳn về phía Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Nhưng không sao. Tất cả vẫn còn đó. Một mai khi có điều kiện thuận lợi chư tôn đức tăng ni sẽ gặp nhau trong tinh thần hòa hợp và thanh tịnh tăng đoàn dưới một mái nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Đệ ngũ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất viên tịch ngày 22/2/2020. Trong di chúc, ngài ủy thác quyền điều hành Viện Tăng thống cho Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ : "đứng đầu vào vị trí của Viện Tăng thống bảo đảm tiếp tục sứ mệnh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong tương lai. Tôi hoàn toàn tin tưởng và ủy thác trọng trách này cũng như trao toàn quyền cho Hòa thượng Tuệ Sỹ điều hành mọi hoạt động của Giáo hội" (Quyết Định Số T4/QĐ/TT/VTT của Đệ ngũ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất).
Tinh hoa và trí tuệ bộc phát trong những ngày tháng cuối đời giúp Đệ ngũ Tăng thống nhìn lại con đường giáo hội đã đi qua và thấy rõ hơn con đường trước mắt mà đạo Phật Việt Nam phải hướng tới. Ngài trao trọng trách cho Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ bởi vì, ngoài cơ sở pháp lý là Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và bên cạnh sự thông minh, uyên bác nhiều lãnh vực, Hòa thượng Tuệ Sỹ trước hết vẫn là con người văn hóa và có một tầm nhìn rất xa về tương lai Dân tộc và Phật giáo.
Là một bậc cao tăng dâng hiến cả cuộc đời cho Đạo pháp và Dân tộc, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ biết cuộc vận động chấn hưng Phật giáo từ thập niên 1920 chưa dừng lại mà là một tiến trình liên tục và phải bắt đầu ngay từ nền móng. Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng Tuệ Sỹ một cánh cửa mới sẽ mở ra để Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bước đi cùng thời đại.
Hòa thượng Tuệ Sỹ biết mình thân đang mang trọng bệnh. Khó khăn duy nhất mà ngài không thể vượt qua là thời gian. Vì không có đủ thời gian để làm hết những điều mình mong muốn nên Hòa thượng ưu tiên hóa những đề án, những công việc phải làm. Tất cả chỉ vì một mục đích như ngài viết trong Thông Bạch Thỉnh Cử Hội đồng Hoằng pháp : "mang ngọn đèn chánh pháp đến những nơi tăm tối, cho những ai có mắt để thấy, dựng dậy những gì đã sụp đổ, dựng đứng những gì đang nghiêng ngả".
Nội dung Phật chất chứa đựng trong Hiến Chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (tu chính ngày 12/12/1973) hoàn toàn không thay đổi nhưng đưa đến cho mọi người ở mọi nơi bằng những phương tiện nhanh chóng chưa từng có nhờ kết quả của cuộc cách mạng tin học cuối thế kỷ 20.
Trong "thế giới phẳng" ngày nay, khoảng cách không gian và thời gian không còn là những trở ngại mà là những tiện nghi cần được tận dụng. Kết quả thấy rõ, chỉ trong vòng chưa tới hai năm Tạng Thanh Văn 29 cuốn trong Tam Tạng Kinh Điển đã được ấn hành và công bố. Kỳ diệu thay ! Sau gần nửa thế kỷ ngưng trệ vì nhiều lý do nhưng những lời dạy của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni vẫn tiếp tục chảy vào dòng văn hóa Việt Nam và dòng văn minh nhân loại.
Hòa thượng Chánh Thư ký Viện Tăng thống cũng biết việc mở cánh cửa, dựng lối vào cũng chỉ là phương tiện, đào tạo tăng tài để bước vào cánh cửa đó mới chính là mục tiêu quan trọng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hôm nay và mai sau. Một căn nhà đẹp bao nhiêu nhưng không được gìn giữ, sửa sang, một ngày cũng dột nát và sụp đổ. Truyền thống nếu không biết phát huy sẽ sớm trở thành một thói quen lạc hậu.
Sau thời gian bị bệnh Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Chánh Thư ký kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Chủ tịch Hội đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời, Cố Vấn Hội đồng Hoằng pháp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đã viên tịch đúng 4 giờ chiều ngày 24/11/2023 nhằm ngày 12 tháng 10 năm Quý Mão, Phật lịch 2567 tại Phương Trượng Đường Chùa Phật Ân, Long Thành, Đồng Nai, Việt Nam, trụ thế 79 năm, 41 hạ lạp.
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Đại Lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là ba bậc tôn đức khai sáng một thời đại mới của Phật giáo Việt Nam.
Dù dốc đá cheo leo, dòng Suối Từ vị diệu vẫn chảy dài theo lịch sử dân tộc. Mỗi thời kỳ đều có những bậc cao tăng thạc đức đứng ra chèo lái con thuyền đạo pháp. Công đức của các ngài sẽ không rơi vào quên lãng mà đã nở thành những bông Hoa Đàm làm đẹp con đường hoằng dương Chánh Pháp của đức Thế Tôn.
Nhiều người lo lắng, một mai khi các bậc cao tăng thạc đức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất viên tịch, các thế hệ tăng sĩ và Phật tử sau này sẽ không biết gì về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Xin đừng bi quan. Lịch sử nhân loại đã chứng minh, bạo lực có thể thay đổi một thể chế nhưng không thể xóa đi một nền văn hóa và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một phần không thể thiếu của nền văn hóa Việt Nam.
Không một bậc cao tăng thạc đức nào thật sự ra đi. Hành trạng của quý ngài vẫn in dấu sâu đậm trong lòng Dân Tộc và Đạo Pháp. Tác phẩm của các ngài viết, những lời dặn dò của các ngài sẽ còn mãi mãi. Tiếng dương cầm vẫn réo rắt vọng theo dòng Suối Từ Bi. Đời người "như sương mai, như ánh chớp, mây chiều" như Hòa thượng viết trong thơ nhưng ngọn lửa tin yêu và hy vọng không bao giờ tắt cho đến khi nào dân tộc Việt Nam còn tồn tại trên mặt đất này.
Thị nghĩa Trần Trung Đạo
Nguồn : VOA, 24/11/2023
Thầy Tuệ Sỹ trong vận mệnh Phật giáo Việt Nam
Tuấn Khanh, BBC, 24/11/2023
Chiều ngày 24/11/2023, tin lan nhanh trong giới Phật giáo Việt Nam, cũng như những người quan tâm, thầy Thích Tuệ Sỹ đã ra đi lúc 16 giờ, ở chùa Phật Ân, Đồng Nai, với những người thân thiết và các thầy của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chung quanh.
Thầy đã rời bệnh viện ngày 23 và về đến chùa Phật Ân, chấp nhận giờ lâm chung theo lẽ tự nhiên, hóa thân về với hư không, như thầy viết trong di chúc "hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng". Thầy Tuệ Sỹ ra đi để lại những bài học khôn cùng về trí tuệ, về chọn lựa và cả tận hiến cho Phật giáo, cho quê hương, dân tộc.
Phật giáo Việt Nam trong nửa thế kỷ này có thể nói đã trải qua hai lần chuyển biến, chân đứng như chạm mép vực sâu của thời thế, và của cả những điều khó nói. Trong hai lần chuyển biến đó, tôi học được sự điềm nhiên và những bước đi có chọn lựa đầy trí tuệ của Thầy Tuệ Sỹ, qua nhiều cảnh ngộ khác nhau.
Những năm tháng sau khi Việt Nam thống nhất địa lý, nhưng đó cũng là lúc Phật giáo bị tan tác, chia rẽ và hình thành giáo hội mới với sự bảo trợ của nhà nước. Đó được coi là lần chuyển biến thứ nhất. Những bậc thầy của Phật giáo Việt độc lập truyền thống rơi vào những hoàn cảnh xót xa. Những minh sư hiền giả lại bị đẩy vào cái chết bất thường, tù đày, cô lập… trong giai đoạn rối ren, hỗn loạn. Thế hệ tiếp nối của tinh thần Phật giáo lúc đó như Thầy Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu, Thích Phước An… mỗi người một nơi.
Nhưng riêng với Thầy Tuệ Sỹ, sự có mặt, đối thoại và hành xử theo luật pháp Việt Nam vào giai đoạn sau năm 1975 đã đặt các nhà làm chính sách ở Việt Nam vào thế muốn xem Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một tổ chức bất hợp pháp là một điều không dễ. Sự biến Lương Sơn là một biến cố mà sự có mặt của Thầy đã mở ra một chứng minh quan trọng : cộng đồng tôn giáo, dù lớn hay nhỏ, là một thực thể lịch sử và truyền thống vượt lên hạn chế của tên gọi, thời gian và địa lý, bất luận có được thế quyền nhìn nhận hay không.
Chính vì vậy, việc có thêm một giáo hội, chỉ có ý nghĩa làm đa dạng sinh hoạt tôn giáo chứ không thế vì vậy mà loại trừ một hoạt động tôn giáo khác. Cấm chỉ, thành lập hay loại bỏ bằng quyền lực chỉ là hoạt động vô nghĩa ngoài da.
Buộc lòng phải lên tiếng vì lẽ phải, và sự tồn tại của một tập hợp tôn giáo có tính lịch sử của người Việt Nam, Thầy Tuệ Sỹ đột nhiên trở thành một hình ảnh mang tính chính trị. Ngay cả án tử hình (1988) hay những lần bị tù, quản thúc, Thầy được chúng Phật tử kính trọng với câu trả lời trở thành kinh điển trước các quan chức hay tòa án, nhưng Thầy lại không coi đó là danh tiếng hay điều đáng lưu tâm trong cuộc đời theo chân Phật.
Thầy Hạnh Viên, người kề cận nhiều với thầy Tuệ Sỹ, có kể rằng Thầy Tuệ Sỹ thấy ngại khi người ta nói nhiều về những năm tháng khó khăn của Thầy, ngại khi nghe nói về những phát biểu có tính như một nhà đấu tranh chính trị.
"Ôn (ngài) nói là một người đi tu, điều đáng nói là sự giác ngộ và giá trị tu tập của mình, còn những chuyện khác đó là sự đối phó với đời thường, không có gì đáng nói. Nếu cứ nói miết về tính chính trị, hóa ra đời mình đã xao lãng kinh kệ rồi sao ?"
Quả thật, vận mệnh của Phật giáo Việt Nam nổi chìm theo vận nước. Thầy Tuệ Sỹ nói, và xác định sự tự tại, minh định giá trị đời mình trong vận mệnh của Phật giáo, là điều buộc phải làm chứ không là điều Thầy chọn làm.
Đó là lý do những đoạn thăng trầm, bất hòa và mất kết nối trong nội bộ dẫn đến chuyện năm 2005, sau khi bị thay thế bởi một thành viên khác trong Ban chỉ đạo Viện Hóa đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Thầy vẫn tập trung làm công việc dịch kinh, chú giải và Phật sự như lẽ sống quan trọng nhất : Một người đến với Phật, điều quan trọng nhất vẫn là tìm về ngồi dưới chân Phật.
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ - Ảnh Thư viện Phật Việt
Tấm lòng và trí tuệ của Thầy vẫn tỏa sáng. Tháng 5/2019, Đệ ngũ Tăng thống Thích Quảng Độ ra Quyết định số 14 trao quyền điều hành Giáo hội cho Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ. Nên đến tháng 4 năm 2020, nhân lễ chung thất của Đệ ngũ Tăng thống Thích Quảng Độ, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ tuyên bố phụng thừa Quyết định Ủy thác Quyền điều hành Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Có thể nói, lúc này là lần chuyển biến thứ hai của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Việc xuất hiện và được giao phó, khiến nhiều vị chức sắc và những nhánh hoạt động thiên về Phật giáo Thống nhất đàm luận, chất vấn và thậm chí tỏ ra nghi ngờ. Bởi lẽ, Thầy ẩn dật và dành nhiều thời gian cho các công trình Phật học – được cho là có lẽ đã "quy thuận" chính quyền và không còn muốn tranh đấu.
Đó có thể là lý do, dù được Đức Đệ ngũ Tăng thống giao toàn quyền, Thầy chỉ xin được nắm vị trí là một "Bỉnh pháp Tỳ-kheo", chờ khi thuận tiện sẽ tổ chức đại hội để dựng lại Hội đồng Lưỡng viện và bầu ra người lãnh đạo mới : Đức Đệ lục Tăng thống. Cho đến ngày 21 và 22/8/2022, Thầy mới vận động được Chư tôn đức để dựng lại Hội đồng Giáo phẩm Trung ương và Hội đồng này đã thỉnh cử Thầy làm Chánh thư ký kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống.
Hơn ai hết, Thầy hiểu vấn nạn của nội bộ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất lúc này : Có người muốn đấu tranh quyết liệt đối đầu, có người muốn tập hợp lực lượng chính danh, có người muốn giữ yên tình thế để phát triển nhân lực và vật lực… nhưng quan trọng sự bất đồng là điểm chính, trong sự theo dõi chặt chẽ của nhà cầm quyền.
Chính vì sự nóng lòng muốn có người lãnh đạo, để đấu tranh, để phục hoạt, mà đã từng có một đại hội tự tổ chức ở miền Trung không lâu sau khi Đệ ngũ Tăng thống viên tịch, để bầu lên Đệ lục Tăng thống. Tuy nhiên, kết quả và chức vị từ đại hội đó dần im tiếng vì không chính danh.
Di chúc tang lễ - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
Những năm tháng này là sự đau yếu kéo dài của Thầy Tuệ Sỹ. Nhưng Thầy vẫn nhận vị trí cố vấn Hội đồng Hoằng pháp, và thành lập Hội đồng Phiên dịch Tam tạng Lâm thời. Công trình mới nhất là phiên dịch 29 cuốn kinh, luật và luận thuộc Thanh văn tạng của Đại tạng kinh Việt Nam, được coi là vô cùng quan trọng trong tàng thư Phật giáo cho người Việt Nam.
Có lúc, vang lên lời chất vấn về chuyện tự do tôn giáo đang khốn khó, tại sao Thầy Tuệ Sỹ lại không chọn tranh đấu, mà lại thực hiện việc dịch kinh sách ? Thật, trong bối cảnh lửa tàn tro lạnh của sinh hoạt tôn giáo độc lập nói chung, lời chất vấn này không phải là không có ý nghĩa. Câu hỏi đặt ra, nhằm trực diện đến vận mệnh Phật giáo Việt Nam tự do hôm nay, cũng đã có lúc gieo cho tôi sự hoài nghi, khiến tôi phải loay hoay đi tìm sự giải đáp giữa thế giới đầy biến động này.
Năm 1959, khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 phải đi tỵ nạn sang Ấn Độ để tránh âm mưu sát hại của cộng sản Trung Quốc, trên đường đi, những nghĩa quân kháng chiến Tây Tạng đón ngài và đề nghị ngài làm lãnh đạo tinh thần của cuộc kháng chiến đòi độc lập. Nhưng là một người đi tu, ngài chỉ có thể đấu tranh bằng lời kinh truyền thống và mở rộng tinh thần tôn giáo tự do bên ngoài quê hương bị cộng sản thao túng, đàn áp.
Khi đến Ấn Độ, nghe thấy có người kháng chiến thất vọng về ngài đã tự sát, lúc đó Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã khóc và nói rằng ngài không thể đứng ở vị trí chỉ huy những cuộc tấn công hủy diệt con người và cầu xin những người kháng chiến hãy bình tâm.
Cũng chính vì vậy, năm 2011, Đức Đạt Lai Lạt Ma xin rút vai trò chính trị trong Quốc hội lưu vong để dành trọn thời gian vận động tinh thần cho một nước Tây Tạng độc lập. Đấu tranh trực diện là giai đoạn, nhưng gìn giữ giá trị truyền thống cho mai sau mới là điều phải tận lực.
Tôi như chợt nhìn ra cuộc vận động lặng lẽ và là rường cột mà Thầy Tuệ Sỹ chủ xướng. Chủ ý của Thầy là dành sức cho vận mệnh Phật giáo Việt Nam độc lập và tinh khiết – một ngày mai phải đến. Sau năm 1975, việc tách nhập Phật giáo, tạo thành nhánh mới vào năm 1981, mọi thứ hoàn toàn là chỏng chơ, với toàn bộ trí tuệ kinh điển, đều là của những bậc đại sư của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tạo dựng, chuyển soạn, phiên dịch… Ngoài đền đài, những tượng Phật to lớn và ngôn từ thao túng trục lợi dân chúng của giáo hội mới, xương sống của Phật giáo Việt Nam độc lập là kinh điển hình thành mọi lý thuyết, vẫn sừng sững không thể xâm phạm và xóa bỏ. Nếu cam tâm hủy diệt, tức có nghĩa hủy diệt luôn cả bộ mặt sơn son thếp vàng vô hồn của Giáo hội Phật giáo mà nhà nước dựng lên.
Đời người thì hữu hạn, và cả một chế độ cũng hữu hạn. Tiếp tục duy trì trí tuệ thật, của Phật giáo thật, là chuyện của trăm năm sau, của những thế hệ tìm thấy chỗ dựa để dựng lại xã hội Việt Nam, với Phật giáo đang suy đồi vì danh lợi và chính trị. Và hơn hết, dành sức cho tri thức Phật giáo, cũng đồng nghĩa làm thất bại những lời vu cáo về "lợi dụng tôn giáo, hoạt động chính trị".
Cũng như nhiều năm trước, đột nhiên Thầy Tuệ Sỹ phải bước ra, cất tiếng trong vận mệnh của Phật giáo Việt Nam trong bi thương. Hôm nay, ngài chấp nhận im lặng trước những câu hỏi không thể trả lời một lần, mà đang dồn sức lực cuối cùng hành động cho tương lai của Việt Nam, tương lai của vận mệnh Phật giáo Việt Nam ngàn đời.
"Nơi nào hiểm nạn, tôi nguyện sẽ là cầu đò. Nơi nào tối tăm, tôi nguyện sẽ ngọn đuốc sáng. Đây có thể là ước nguyện xa vời, thậm chí sáo rỗng đối với một số người. Nhưng đó chính là mặt đất kim cang để trên đó tuổi trẻ tự vạch hướng đi cho mình, tự quy định những giá trị sống thực cho chính đời mình", lời của Thầy nói với tuổi trẻ Việt Nam từ nhiều năm trước đến nay vẫn y nguyên vậy.
Sự kiên quyết và hành hoạt không lùi bước của Thầy có thể được xem như một thái độ chính trị cho đạo Phật trước buổi hỗn mang, nhưng chung quyết vẫn là ý chí và tâm nguyện của một người kiên tâm thừa tự chánh pháp, nguyện soi đường cho thế hệ Việt mai sau.
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm của tác giả Tuấn Khanh, một nhạc sĩ, người viết tự do đang sống tại Việt Nam.
Tuấn Khanh
Nguồn : BBC, 24/11/2023
*****************************
Thầy Thích Tuệ Sỹ viên tịch ở chùa Phật Ân Đồng Nai
Tuấn Khanh, RFA, 24/11/2023
Vậy là người thầy lớn của Phật giáo đã ra đi, lúc 14 giờ, ngày 24/11/2023.
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ - Chánh Thư ký - Xử lý thường vụ Viện Tăng thống - Hoằng pháp
Ngày hôm qua, thầy được đưa về chùa Phật Ân, Đồng Nai từ bệnh viện, sau những lúc tưởng đã thôi không còn có thể chống chọi đến giờ phút cuối những căn bệnh trầm kha, vốn theo đuổi biết bao lâu nay.
Thầy Lê Mạnh Thát quyết để thầy Tuệ Sỹ - người bạn đường thân thiết của mình - ra đi theo cách tự nhiên ở chùa. Các bác sĩ đến theo dõi bệnh tình của thầy ngay khi được đưa về chùa, đã hết sức ngạc nhiên khi thấy các chỉ số sức khỏe lại ổn định, sinh hiệu đầy lạc quan. "Có thể mọi sự kéo dài thêm hơn tuần nữa", thầy Hạnh Viên, thị giả của thầy Tuệ Sỹ nhắn tin trong đêm cho biết. Niềm hy vọng mong manh chợt bùng lên ở nhiều chúng đệ tử, lòng không muốn chia lìa với người thầy của mình trước hiện thực trần trụi.
Nhưng từ hôm qua 23 tháng 11, giới đệ tử và các thầy thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở các tỉnh xa đã bắt đầu tập họp ở chùa Phật Ân, chờ đón chuyện cuối của đời người theo lẽ tự nhiên, hầu như ai cũng bình lặng nhưng đầy xót xa vào lúc Phật giáo Việt Nam mất đi người thầy lớn cầm ngọn đèn soi đường, giữa đêm tối của niềm tin hôm nay.
Chiều 24, tin dữ lan nhanh, mọi người vẫn theo dõi sát sao tin tức của thầy Tuệ Sĩ, lại vẫn hụt hẫng dù không còn bất ngờ. Điều gì phải đến, đã đến.
Hơn ai hết, thầy Tuệ Sỹ như đã bước vào chuẩn bị những giây phút này của mình kể từ khi nhận trọng trách với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Giờ thì những người gần gũi với thầy mới hiểu vì sao thầy cố tận lực dành những ngày tháng cuối đời của mình, để làm việc không ngừng, ghi chép, để lại những kinh văn quan trọng cho đời sau. Bởi một điều đơn giản và sâu thẳm : con người thì hữu hạn nhưng chánh Pháp nguyên khôi thì vô hạn, và đó chính là ngọn đuốc trí tuệ mà thầy muốn trao lại cho thế hệ Việt Nam ngày sau, để tiếp tục đi trên con đường dài thăm thẳm phía trước, giữa mây mù, không còn người chỉ lối bên cạnh.
Là bậc đại sư im lặng và kiên tâm với con đường của mình đi, dù trải qua miên trường sóng gió của thời thế, của những khúc quanh số phận, và kể cả những sự chia rẽ trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Đáp lại những thách đố thù địch, thầy mỉm cười đối diện với an nhiên. Với tăng chúng, bằng hành động chứ không bằng lời nói, thầy đã chứng minh tâm nguyện đời cho những thế hệ hôm nay, mai sau, như thầy đã từng cam kết "Nơi nào hiểm nạn, tôi nguyện sẽ là cầu đò. Nơi nào tối tăm, tôi nguyện sẽ ngọn đuốc sáng".
Vào những ngày tháng hoang mang khi thầy Tuệ Sĩ phải liên tục ra vào bệnh viện, sức khỏe yếu dần. Những người bạn phật tử của tôi đã từng đăm chiêu và hỏi rằng liệu không còn thầy thì mai chúng ta sẽ ra sao ? Trong thế giới Phật giáo hôm nay rầm rộ tượng đài, đền chùa vô hồn, quả thật là hoang mang khi mất lối.
Ngày mai chúng ta sẽ ra sao ? Đó là câu hỏi lớn khi tin về sự ra đi của thầy Tuệ Sỹ ập đến. May thay, Phật giáo Việt Nam vẫn còn những điều để soi lại, noi theo. Người Việt đã có nửa thế kỷ lịch sử Phật giáo trắc trở và bi hùng, và những người thầy vĩ đại đã nguyện hy sinh đời mình để giữ lại những áng kinh, lời soi sáng con đường phía trước.
Không chỉ có thầy Tuệ sĩ, ở phía trước đã có nhiều những bậc thầy khai mở Phật giáo Việt Nam qua những thăng trầm như thầy Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ… Là người Phật tử nhận thức đủ và đúng, không có thầy, thì với chánh pháp, lời Phật cần ghi nhớ : "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm", và điều thầy Tuệ Sỹ mượn lời Phật dặn dò để "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai ; chớ đừng là kẻ thừa tự tài vật".
Không ngã nghiêng theo mê đồ, không để bị thao túng của kẻ giả tăng, không quỵ lụy với quyền thế. Sống như một Phật tử Việt Nam, biết đau với nỗi đau của con người và thế giới của mình. "Đi với Chánh pháp - đó chính là mặt đất kim cang để trên đó tuổi trẻ tự vạch hướng đi cho mình, tự quy định những giá trị sống thực cho chính đời mình", thầy viết trong lời dạy về "Giáo dục Phật giáo cho tuổi trẻ" (Tháng 5/2004)
Tuấn Khanh
Nguồn : RFA, 24/11/2023
******************************
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch
BBC, 24/11/2023
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, người từng bị chính quyền Việt Nam kết án tử hình, lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất - một tổ chức tôn giáo không được chính quyền Việt Nam công nhận, vừa qua đời.
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ
Báo Giác Ngộ xác nhận Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch lúc 16 giờ ngày 24/11/2023, thọ 81 tuổi.
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ vốn nổi tiếng là một nhà tu hành uyên bác, là dịch giả của nhiều bộ kinh, luật, luận, tác giả của các công trình nghiên cứu Phật học giá trị.
Ông thông thạo nhiều ngoại ngữ, là nhà thơ, dịch giả và từng có nhiều hoạt động được cho là bất đồng với chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhà thơ, thiền sư Tuệ Sỹ là một trong những tên tuổi trẻ có uy tín nhất trong những danh tính nổi bật của văn học miền Nam giai đoạn 1963-1975, theo các tài liệu sau này công bố ở hải ngoại.
Nhà văn Viên Linh từng viết về uy tín của thầy Tuệ Sỹ trên lĩnh vực Phật học và Triết học ở Viện Đại học Vạn Hạnh :
"Trong các nhà tu hành trẻ tuổi hồi thập niên ’70, khuôn mặt của Tuệ Sỹ, vóc dáng của một hiền giả, nhìn vào, nói tới, là nhìn vào, nói tới một tinh thần, một phong cách sáng lạn".
Giai đoạn sau 1975
Trong số các sự kiện gây chấn động Phật giáo Việt Nam thời gian trước là việc ông bị bắt năm 1984, sau đó bị chính quyền Việt Nam tuyên án tử hình năm 1988, với tội danh "âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân".
Sau các đợt vận động và sự can thiệp của các tổ chức quốc tế, tu sĩ Thích Tuệ Sỹ thoát án tử năm 1998.
Cũng trong năm này, ông cùng bảy người Việt khác được Tổ chức Human Rights Watch tặng giải thưởng nhân quyền Hellmann-Hamett Awards.
Thời điểm tháng 9/2022, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã nhận vai trò lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, thay Hòa thượng Thích Quảng Độ, người viên tịch vào ngày 22/02/2020. Đây là giáo hội không được nhà nước công nhận.
Trên mạng xã hội, nhiều người bày tỏ lòng tiếc thương trước sự ra đi của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ. Một số người trích đăng lại một đoạn trong ‘Thư gửi các tăng sinh Thừa Thiên-Huế’ của ông :
"Nhẫn nhịn đời nhưng không để cho quyền lực đen tối của đời sai sử. Tùy thuận thế gian, nhưng không tự đánh chìm trong dòng xoáy ô trược của thế gian. Các con hãy tự rèn luyện cho mình một tín tâm bất hoại ; một đức tính dũng mãnh vô úy ; nỗ lực tự huân tập trí tuệ bằng văn, tư, tu để nhìn rõ sự tướng chân ngụy, để thấy và biết rõ mình đang ở đâu, đang đi về đâu ; không nhắm mắt phóng càn theo cỗ xe lộng lẫy bên ngoài nhưng rệu rã bên trong, đang lao xuống dốc dài không định hướng...".
Các quan điểm nói trên không được báo chí chính thống Việt Nam thừa nhận và đăng tải.
Báo Giác Ngộ chỉ giới thiệu đóng góp của ông về mặt học thuật, triết học và Phật học và không đề cập đến phần hoạt động khác :
"Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ được biết nổi tiếng về sự uyên bác, thông thạo nhiều loại cổ ngữ lẫn sinh ngữ như : Hán văn, Phạn văn, Tạng văn, tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga… Trong gần trọn cuộc đời, Hòa thượng dành phần lớn thời gian và tâm huyết của mình cho việc phiên dịch và chú giải kinh điển, đặc biệt là tạng kinh A-hàm. Các dịch phẩm nổi bật của Hòa thượng đã được xuất bản chính thức, đến với độc giả trong và ngoài nước".
BBC sẽ đăng thêm các bài về Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ và Phật giáo Việt Nam trong những ngày tới.
BBC, 24/11/2023
******************************
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch
RFA, 24/11/2023
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, Chánh Thư ký Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất), viên tịch
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Chánh Thư ký Xử lý thường vụ Viện Tăng thống Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất - Thầy Hạnh Viên
Mạng báo Giác Ngộ loan tin Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch vào lúc 16 giờ chiều ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, tỉnh Đồng Nai.
Ông sinh năm 1943 tại Paksé (Lào), nguyên quán tại tỉnh Quảng Bình, pháp úy Nguyên Chứng.
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ từng bị chính quyền Hà Nội bắt đi học tập cải tạo ba năm từ năm 1978. Vào tháng 9/1988, ông bị tuyên án tử hình với cáo buộc "hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân". Tuy nhiên, do sự vận động của quốc tế, án tử hình đối với ông được giảm xuống chung thân. Ông được trả tự do vào ngày 1/9/1998. Vào năm 2003, ông bị chính quyền Việt Nam áp lệnh quản chế hai năm.
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ được suy cử làm Chánh Thư ký xử lý thường vụ Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vào tháng 8/2022 theo di chúc của Đệ ngũ Tăng thống Thích Quảng Độ, người viên tịch trước đó vào tháng 2/2020.
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo. Ông còn làm thơ và viết truyện ngăn.
Tổ chức Giám sát Nhân quyền Human Rights Watch vào năm 1998 trao cho ông giải Hellman-Hammet.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không được chính quyền Việt Nam hiện nay thừa nhận. Lãnh đạo cùa giáo hội bị nhà cầm quyền đàn áp, sách nhiễu kể từ sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc vào tháng 4 năm 1975.
RFA, 24/11/2023
*****************************
Thích Tuệ Sỹ, vị tu sĩ ‘xuất chúng’ về tri thức và giáo dục
VOA, 24/11/2023
Đại lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là một bậc tăng tài xuất chúng của Phật giáo Việt Nam với kiến thức uyên bác, Phật học uyên thâm và có nhiều đóng góp vào công việc giáo dục và nghiên cứu kinh điển Phật giáo, những người từng quen biết Hòa thượng nói với VOA.
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ (phải) đứng cạnh Hòa thượng Thích Huyền Quang (giữa), Đức Đệ Tứ Tăng thống, và Hòa Thượng Thích Quảng Độ (trái), Đức Đệ ngũ Tăng thống
Hòa thượng Tuệ Sỹ sinh năm 1943 tại Lào, trưởng thành trong cái nôi của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở miền Nam trước năm 1975. Ông từng là giáo sư của Đại học Vạn Hạnh từ khi còn rất trẻ.
Sau năm 1975, ông không tham gia vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam do chính quyền cộng sản vận động thành lập. Ông bị bắt vào năm 1984 về tội ‘Hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân’ và bị kết án tử hình, nhưng sau 4 năm thì được thả dưới áp lực của cộng đồng quốc tế.
Hồi tháng 9/2022, Hòa thượng Tuệ Sỹ cho biết ông đã làm theo di nguyện của cố Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Đức Đệ ngũ Tăng thống, là tái lập Hội đồng Giáo phẩm Trung ương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và Hội đồng này đã suy cử ông làm Chánh thư ký Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống.
Bên cạnh là một nhà giáo dục Phật giáo, ông còn được đến như là nhà văn, nhà thơ và dịch giả. Ông được cho là thông thạo nhiều ngoại ngữ như tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hoa và tiếng Nhật.
'Làm sáng tỏ Phật giáo bằng ngôn ngữ hiện đại'
Từ miền nam California, Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, người cùng giảng dạy với Hòa thượng Tuệ Sỹ tại Đại học Vạn Hạnh trước năm 1975, nói ông ‘rất kính trọng’ người đồng nghiệp trẻ hơn ông một tuổi này.
"Thầy còn trẻ mà đã rất già dặn, là giảng viên đại học có hiểu biết và kiến thức thông tuệ", Giáo sư Hoạt nói với VOA hồi tháng 10/2023, lúc Hòa thượng lâm trọng bệnh.
Giáo sư Hoạt nhận xét : "Cái hay của thầy Tuệ Sỹ là, dù là một tu sĩ nhưng ông giao tiếp với xã hội như là một người bình thường, tức là ông rất dễ gần".
Ông cũng chỉ ra Hòa thượng Tuệ Sỹ là ‘người rất trực tính, tôn trọng sự thật, nói sao nghĩ vậy chứ không giữ miệng nhiều’. "Vị tu sĩ như thầy Tuệ Sỹ thì không thể nào thích hợp dưới chế độ cộng sản", ông nói.
Về những điều Hòa thượng Tuệ Sỹ từng lên tiếng, Giáo sư Hoạt nói ‘không đề cập đến chính trị mà chỉ nói về tư tưởng, các vấn đề về con người, về xã hội’.
Sau năm 1975, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã đi ngược đường với người thầy mà ông rất mực tôn kính và xem như bổn sư là Hòa thượng Thích Trí Thủ, lúc đó là Viện trưởng Viện Hóa đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất nhưng sau đó tham gia vào công cuộc vận động thống nhất Phật giáo của chính quyền và trở thành lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Đánh giá về đóng góp của Hòa thượng Tuệ Sỹ, giáo sư Hoạt nói : "Công lao lớn nhất của ông là về mặt tư tưởng, hiểu theo nghĩa là làm sáng tỏ đạo Phật".
x
Giáo sư Hoạt chỉ ra những bài viết của Hòa thượng Tuệ Sỹ trong những ấn bản của Đại học Vạn Hạnh cũng như nhiều nơi khác là ‘đã làm sáng tỏ Phật giáo bằng ngôn ngữ hiện đại’.
Trong giảng dạy, Hòa thượng Tuệ Sỹ giảng dạy cho sinh viên ‘sự cao sâu của đạo Phật bên ngoài kinh sách’, cũng theo lời vị giáo sư đồng nghiệp này của hòa thượng.
‘Tấm gương cho tăng ni’
Sau khi chấp chưởng công việc của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã mời thêm các vị hòa thượng đủ năng lực để bổ sung vào Hội đồng Phiên dịch Đại Tạng Kinh vốn có 18 vị khi thành lập vào năm 1973 nhưng đến giờ đã viên tịch hết chỉ còn lại bản thân Hòa thượng Tuệ Sỹ và Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Từ, người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm hiện đã 100 tuổi.
Hiện Hội đồng đã dịch và in xong 29 tập của bộ Thanh Văn Kinh, tức là một phần của Tam Tạng Kinh, và đã cho công bố hồi đầu năm nay. Hội đồng sẽ tiếp tục dịch các phần còn lại của Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt.
Thượng tọa-Tiến sĩ Thích Nhật Từ, phó Viện trưởng thường trực của Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh thuộc giáo của Nhà nước, đánh giá cao công trình dịch kinh điển của Hòa thượng Tuệ Sỹ.
"Đóng góp của Hòa thượng Tuệ Sỹ xứng đáng là độc nhất trong cộng đồng tăng ni ở chiều sâu, thuật ngữ, chú thích rất đẳng cấp", ông nói và cho biết ông là tổng biên tập của dự án dịch Đại Tạng Kinh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam vốn diễn ra song song với công việc của nhóm Hòa thượng Tuệ Sỹ.
"Riêng phần đóng góp của Hòa thượng Tuệ Sỹ thì phong cách dịch của hòa thượng rất là chuyên môn, có độ sâu và tính học thuật cao. Rất khó tìm được nhà nghiên cứu Phật học có đẳng cấp tương đương ở thời điểm hiện nay".
Nói với VOA hồi tháng 10, Thượng tọa-Tiến sĩ Thích Nhật Từ đưa ra nhận định về ba phương diện của hòa thượng Tuệ Sỹ : thứ nhất là thần đồng Phật giáo vì đã có nền tảng về Phật học khi còn ở tuổi thơ ; thứ hai là trong nghiên cứu, Hòa thượng Tuệ Sỹ đã ‘đi rất là xa so với các hòa thượng cùng lứa tuổi’ ; thứ ba là ‘có đẳng cấp quốc tế’.
"Tấm gương của Hòa thượng Tuệ Sỹ đã trở thành niềm khích lệ rất lớn đối với các thế hệ tăng ni bất luận đi theo bất cứ ý thức hệ giao tiếp nào, sa môn pháp phái nào".
Khi được hỏi về việc Hòa thượng Tuệ Sỹ chống đối Giáo hội Phật giáo Việt Nam vốn là tổ chức do nhà nước quản lý, Thượng tọa Thích Nhật Từ nói ‘không có gì đáng tiếc’ vì ‘mỗi người một hạnh nguyện hành đạo riêng’.
‘Sức hút đặc biệt’
Từ Sài Gòn, nhà thơ Đỗ Trung Quân nói với VOA hồi tháng 10, rằng ông đã được đọc các tác phẩm của Hòa thượng Tuệ Sỹ và ‘có cơ duyên tiếp xúc với thầy tương đối gần’, trong đó có lần ông đến dự dịp Hòa thượng ra mắt một tập thơ và đến thăm Hòa thượng một lần trước khi đại dịch bùng phát.
"Đọc thơ của Thầy tôi phải đọc với cảm quan của một người biết ít nhiều về Phật học trong khi tôi không có nền tảng Phật học nhiều và sâu", nhà thơ Đỗ Trung Quân, vốn là người Công giáo, nói với VOA. "Thơ của thầy phải đọc dưới mặt chữ".
"Tôi không dám nghĩ rằng mình cảm nhận được sự uyên bác của thầy trong thơ, không dám nói mình có thể hiểu được hết", ông nói thêm.
Khi được hỏi có ấn tượng như thế nào về Hòa thượng Tuệ Sỹ, ông Đỗ Trung Quân nói : "Một người gầy gò nhưng có sức thu hút lớn đối với người đối diện, ít nhất là tôi. Tôi cảm thấy Thầy là người khiêm nhã nhưng uy lực thu hút mạnh mẽ.
Theo lời ông thì Hòa thượng Tuệ Sỹ là người ‘rất im lặng’ nhưng ‘có nụ cười của một hiền giả’.
Nhà thơ này chỉ ra ở Hòa thượng Tuệ Sỹ là bậc chân tu ‘có đầy đủ bi, trí, dũng’ tức là ‘từ bi, trí tuệ và dũng khí’. "Từ bi là thầy không dám làm đau một cành hoa", ông giải thích.
"Thầy đã bước qua tất cả những khổ nạn mà chính quyền đã dành cho thầy cũng trên dưới hơn 10 năm. Thầy ung dung, tự tại đi qua mọi khổ nạn một cách can đảm".
Ngoài thơ thì ông Đỗ Trung Quân còn đọc các trước tác của Hòa thượng Tuệ Sỹ về văn chương, chẳng hạn như cuốn ‘Những phương trời viễn mộng’ viết về thi sĩ Tô Đông Pha mà ông cho rằng ‘giúp ông mở mang ở một tầng nấc văn chương không được học ở nhà trường’.
VOA, 24/11/2023