Trả lại sự thật cho miền Nam Việt Nam

"Vế kia là những khó khăn to lớn trong việc xây dựng một nhà nước có thể hoạt động trong khi đang bị tấn công. Thêm vào đó là những khoảng cách không thể vượt qua giữa các đồng minh về xã hội, ngôn ngữ và văn hóa miền Nam Việt Nam. Vì vậy, khi nền dân chủ non trẻ bị săm soi dưới kính hiển vi của báo chí nước ngoài, những cảnh bát nháo, những vụ bê bối, sự đàn áp rõ ràng của chính phủ và sự thờ ơ chính trị của người dân, đã đóng góp tạo nên hình ảnh miền Nam Việt Nam là một đống đổ nát không thể cứu vãn.

Bên cạnh đó, những người thuộc phe quốc gia Việt Nam Cộng Hòa đã không thể giải thích chính xác về cuộc chiến đấu của họ với người dân Mỹ ở một nơi xa lắc. Họ đã thất bại trong việc công bố với dân chúng Mỹ rằng họ có một giải pháp quản trị quốc gia thay thế khả dĩ chấp nhận được để giúp đỡ.

Kết quả, mặc dù chiến đấu kiên cường và bất khuất, Việt Nam Cộng Hòa đã thua trận trước khi quốc gia non trẻ này có thể hoàn thành việc phát triển."

 

Lời ngỏ

Mọi người thường hỏi tôi làm thế nào viết nhiều về Việt Nam khi tôi chưa từng phục vụ tại nơi ấy. Xin được trả lời ngắn gọn thế này.

sach5

George J. Veith

Thời thanh niên, tôi từng là một sĩ quan Thiết Giáp, phục vụ trong các đơn vị xe tăng ở Đức và Hoa Kỳ. Tôi thích tìm hiểu lịch sử quân sự, đặc biệt những bí ẩn lịch sử. Ban đầu, tôi chỉ quan tâm về vấn đề POW/MIA, nhưng càng đi sâu tôi mới thấy mình phải hiểu thêm về cuộc chiến nếu muốn thấy rõ toàn bộ vấn đề. Các sự kiện cứ cuốn lấy tôi, và tôi không dừng lại được nữa...

Hy vọng những cuốn sách của tôi sẽ khiến bạn thích thú. Và mong sẽ nhận được những ý kiến quý giá  của bạn.

George J. Veith

*********************

Sách mới của George Jay Veith trong nỗ lực "trả lại sự thật cho miền Nam Việt Nam".

sach01

Trả lại sự thật cho miền Nam Việt Nam

Đối với George J. Veith, sau tác phẩm "Black April : The Fall of South Vietnam, 1973-75" ("Tháng Tư đen : Những ngày tháng cuối cùng của miền Nam Việt Nam, 1973-1975") phát hành ngày 8/5/2012, con đường vẫn còn dài phía trước.

Ông thấy còn có rất nhiều điều về Việt Nam Cộng Hòa cần phải làm sáng tỏ. Chẳng hạn như những thành đạt về kinh tế, chính trị, xã hội... của Miền Nam chưa từng được nhắc tới. Nỗ lực "tay súng-tay cày" hay tinh thần quốc gia của người miền Nam cũng chưa từng được nhắc tới.

Tám năm đã trôi qua từ sau 2012, Jay tiếp tục miệt mài tìm hiểu. Có một thời gian, ông phải bỏ việc làm chính để dành toàn thời gian cho sưu tầm và nghiên cứu. Cuối cùng phần thưởng đã đến, năm 2020, ông hoàn thành một tác phẩm mới, một nỗ lực nhằm trả lại sự thật cho miền Nam Việt Nam, mang tên :

Drawn Swords in a Distant Land : South Vietnam's Shattered Dreams

(Đấu kiếm nơi vùng đất xa : Những ước mơ tan vỡ của miền Nam Việt Nam)

Có một định kiến trở thành thâm căn cố đế : "Tinh thần dân tộc được dành cho Hà Nội, còn Sài Gòn nhất định phải thua". Sự sụp đổ thảm hại của miền Nam tháng Tư 1975 dường như đã chứng minh định kiến đó là đúng và, do đó, chẳng có gì để bàn cãi thêm.

Thế nhưng sự thật không phải vậy, người miền Nam Việt Nam có những tình tự riêng của họ nhưng lại bị bỏ qua. Đó là những ước mơ bị tan vỡ , như tâm sự của một người miền Nam :  "Chúng tôi có rất nhiều ước mơ : ước mơ tự do, ước mơ độc lập, và ước mơ ấm no cho toàn dân. Còn cộng sản thì chỉ có ước mơ độc nhất, đó là phát động chiến tranh tiến chiếm miền Nam bằng mọi giá".

Đinh mệnh đau buồn cuối cùng đã đến, mặc dù kiên cường chống trả và không một đơn vị chiến đấu nào thua trận trên chiến trường, ban lãnh đạo quốc gia Việt Nam Cộng Hòa non trẻ đã đầu hàng không điều kiện, để lại trong lòng người dân miền Nam nhiều ước mơ chưa thành đạt, như phát triển đất nước và thực thi các quyền tự do-dân chủ mà họ mong muốn.

Cuốn sách này sẽ cho thấy miền Nam Việt Nam không hề là sản phẩm do Mỹ tạo ra, và nền Đệ nhị Cộng hòa cũng không là một chế độ chuyên chế như Đệ nhất Cộng hòa. Nội dung quyển sách cho thấy, Tổng thống Thiệu và chính phủ của ông đã có những nỗ lực đáng kể trong việc xây dựng một nhà nước dân chủ hiện đại nhằm giảm bớt tình trạng nghèo đói lâu đời. Nỗ lực ấy là cả một quá trình khó khăn và gian lao nhưng chưa bao giờ được công nhận.

Để thực hiện nhiệm vụ đầy tham vọng ấy, họ phải vượt lên di sản suy tàn của chế độ thực dân Pháp cùng với những khó khăn điển hình trong quá trình xây dựng một quốc gia non trẻ đang lâm vào nội chiến : thiếu đoàn kết dân tộc, xung đột giữa quân đội và lãnh đạo chính trị, thể chế chính trị chưa phát triển, và nhiều vấn đề khác nữa. Tệ hơn thế, họ còn phải đối mặt với những khó khăn do những người cùng máu mủ ở miền Bắc chỉ có một quyết tâm duy nhất là tiến chiếm cho bằng được miền Nam Việt Nam bằng vũ lực.

Trong một quốc gia vừa mới thành hình, giành được chính danh là điều bắt buộc nên những người miền Nam phải tìm lời giải cho một câu hỏi đầy khúc mắc : "Làm thế nào một nền dân chủ non trẻ và một xã hội cởi mở có thể đánh bại một kẻ thù độc tài, giỏi xâm nhập, giỏi thao túng tâm lý quần chúng và nhân sự chính trị, lại thạo kỹ năng tình báo ?". Cụ thể hơn : Bằng cách nào người dân miền Nam Việt Nam có thể tự mình tồn tại trước mối đe dọa của miền Bắc cộng sản được sự giúp đỡ của toàn khối cộng sản quốc tế hay không ?".

Để trả lời, cần phải một có sự hiểu biết sâu sắc về những cố gắng của người miền Nam theo chủ nghĩa quốc gia trong nỗ lực xây dựng một nhà nước đặt căn bản trên những giá trị về tự do và dân chủ vững vàng, như nhà sử học quân sự lỗi lạc Michael Howard đã lập luận, "Nếu tách rời việc tiến hành chiến tranh khỏi môi trường mà nó đã xảy ra — xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế — là bỏ qua những khía cạnh cần thiết để hiểu rõ về cuộc chiến".

Cuốn sách này xem xét lại bối cảnh tổ chức xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế ấy. Việc miền Nam Việt Nam bị đánh bại không có nghĩa là họ không đạt được tính chính danh. Tôi cho rằng họ đã đạt được điều ấy, nhưng miền Nam cũng phải chịu đựng những nỗi đau to lớn như các quốc gia mới thành lập khác, đặc biệt là những quốc gia phải chịu đựng những năm dài chiến tranh khốc liệt. Nói một cách ngắn gọn, miền Nam Việt Nam không thể cùng một lúc vừa xây dựng vừa chiến đấu.

Cần nhớ rằng nền dân chủ phải được xây dựng một cách liên tục, đặc biệt đối với một quốc gia non trẻ đang cố gắng tìm chỗ đứng trong một cuộc chiến khó khăn. Hoa Kỳ cũng từng có những khiếm khuyết về luật pháp giữa các giá trị đặt ra và thực tế thi hành trong những thời kỳ khủng hoảng.

Đạo luật Ngoại kiều và chống nổi loạn năm 1798, thời Tổng thống John Adams, cho phép trục xuất, phạt tiền hoặc bỏ tù bất kỳ ai bị coi là mối đe dọa hoặc những ai xuất bản "những bài viết sai sự thật, gây tai tiếng hoặc có ác ý" nhằm chống lại Hoa Kỳ. Trong cuộc Nội chiến 1861-1865, Tổng thống Abraham Lincoln đã đình chỉ phần lớn những điều trong Tuyên ngôn Nhân quyền, bao gồm quyền tự do ngôn luận và luật phải có trát tòa khi bắt giữ. Ngoài ra, sau vụ khủng bố 11 tháng 9, các nước đã có nền dân chủ hoàn chỉnh vẫn thông qua một số luật lệ khiến nhiều người theo chủ nghĩa tự do dân sự phải nhíu mày.

Vì ngay cả những quốc gia trưởng thành cũng phải hiệu chỉnh lại trong những thời kỳ khó khăn, nên miền Nam Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Khi người Pháp từ chối đưa các thể chế dân chủ vào những thuộc địa Đông Dương, các khái niệm như "tự do ngôn luận" và "đối lập trung thành" chỉ có một chỗ đứng nhỏ ở miền Nam, một nơi có những trải nghiệm lịch sử rất khác với chúng ta.

Giống như các quốc gia tân tiến khác nổi lên từ chế độ thực dân, trước tiên, Việt Nam Cộng Hòa phải soạn thảo hiến pháp để thể hiện ý định chính trị của mình. Hiến pháp xác định bộ máy nhà nước - cơ quan lập pháp, tòa án và hệ thống an ninh quốc gia - và bộ máy ấy được tạo ra giữa bối cảnh các lợi ích xã hội và tôn giáo đang cạnh tranh gay gắt.

Điều này đưa chúng ta đến với một người đàn ông đầy bí ẩn hiện diện trong những trang sách này, đó là cựu Tổng thống Miền Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu.

Vì sự nghiệp của ông trải dài cùng với tuổi thọ của đất nước nên qua đó ta có nhiều dữ kiện khá tốt để xem xét sự thăng trầm của miền Nam Việt Nam.

sach02

Như chúng ta sẽ thấy, ông Thiệu là người đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển miền Nam Việt Nam từ một chế độ quân phiệt thành một nước cộng hòa hiến định. Nhưng ông Thiệu phản ứng thế nào với các nhóm chống đối trong nội bộ, và ông đã xử lý những yêu sách của họ như thế nào ? Tổng thống Thiệu khác với Tổng thống Diệm như thế nào ? Phong cách điều hành của ông Thiệu là gì, ông đã quản lý các vấn đề chính sách đối ngoại như thế nào và chương trình hành động trong nước của ông là gì ? Liệu ông có thể tạo ra một chiến lược quân sự và kinh tế và sau đó quản lý để đánh bại một kẻ thù tàn độc ? Đa phần, những câu hỏi này đến nay vẫn chưa có lời giải đáp dúng đắn. 

Vậy tại sao các nhà sử học không xem xét kỹ lưỡng các chính sách của ông Thiệu hoặc đánh giá phản ứng của ông trước các sự kiện bên trong và bên ngoài cuộc chiến ?

Câu trả lời nằm trong những nhận định được đưa ra trong suốt cuộc chiến. Trong hơn một thập kỷ (1965-1975), Việt Nam thường là trung tâm của xung đột toàn cầu thời Chiến tranh lạnh. Các nhà bình luận phương Tây thường vẽ ông Thiệu theo cái nhìn phản ánh quan điểm chính trị của họ. Những lời hùng biện sôi nổi của họ về ông cũng đặc quánh một giọng phê phán. Các chuyên gia phản chiến mô tả ông là một nhà độc tài, tham nhũng và đàn áp. Phe cộng sản Việt Nam vu cáo ông là kẻ phản bội tổ quốc, tay sai Mỹ ngụy. Trên trường quốc tế, danh tiếng của ông cũng chẳng khá gì hơn. 

Tuy nhiên trong thực tế, công chúng Nam Việt Nam có cách nhìn về ông Thiệu rất khác nhau. Giống như các tổng thống khác, việc xếp hạng phê bình ông Thiệu cũng tăng và giảm theo các chủ đề thông thường : an ninh quốc gia, thịnh vượng kinh tế, hoặc vụ bê bối chính trị mới nhất. Những xét đoán như vậy xen kẽ cùng với những thói quen cố hữu : người ở thành thị nghĩ khác người ở nông thôn, người theo tôn giáo hay ở vùng miền này nghĩ khác với người theo tôn giáo hay ở vùng miền khác. Ông Thiệu có nhóm người ủng hộ ông, có nhóm người bảo vệ ông, nhưng cũng có nhóm coi thường ông. Tỷ lệ phần trăm của mỗi loại thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào may rủi của cuộc chiến hoặc vào giá gạo ngoài chợ.

***

Chương :  KẾT

(Trích đoạn)

Sài Gòn đã cố gắng thực hiện đồng thời hai mục tiêu : đánh bại cộng sản và xây dựng một nhà nước hiện đại. Hai mục tiêu ấy đều không hoàn thành bởi vì không ngăn được sự phá hoại của giặc quân thì không thể dựng xây đất nước trọn vẹn.

Những cuộc tấn công của quân cộng sản trong những năm 1965, 1968 và 1972 dù không giáng đòn chí mạng vào miền Nam Việt Nam nhưng cũng đã để lại nhiều tổn thất nặng. Sự khác biệt là sau hai cuộc tấn công đầu tiên, Hoa Kỳ đã cung cấp các phương tiện tài chính để xây dựng lại và một lá chắn an ninh để bảo vệ việc tái kiến thiết, thế nhưng lại không tiếp tục hai hỗ trợ ấy nữa.

Đến năm 1973, Hoa Kỳ rút quân, bạn bè quốc tế ít ỏi, miền Nam Việt Nam không thể phục hồi sau trận Mùa hè đỏ lửa (1972) mặc dù Quân Lực và Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng đối phó trong mọi nỗ lực.

Đối với Hoa Kỳ, họ đã đầu tư rất nhiều vào một chiến trường cực kỳ khó khăn. Người Mỹ cho rằng đây là một cuộc xung đột không thể giải quyết khi kẻ thù ẩn hiện trên những chiến trường vô định nơi rừng rú hóc hiểm khiến cho những vị tướng tài ba và công nghệ tốt nhất cũng phải chịu thua. Nhưng đó chỉ là một vế của phương trình.

Vế kia là những khó khăn to lớn trong việc xây dựng một nhà nước có thể hoạt động trong khi đang bị tấn công. Thêm vào đó là những khoảng cách không thể vượt qua giữa các đồng minh về xã hội, ngôn ngữ và văn hóa miền Nam Việt Nam. Vì vậy, khi nền dân chủ non trẻ bị săm soi dưới kính hiển vi của báo chí nước ngoài, những cảnh bát nháo, những vụ bê bối, sự đàn áp rõ ràng của chính phủ và sự thờ ơ chính trị của người dân, đã đóng góp tạo nên hình ảnh miền Nam Việt Nam là một đống đổ nát không thể cứu vãn.

Bên cạnh đó, những người thuộc phe quốc gia Việt Nam Cộng Hòa đã không thể giải thích chính xác về cuộc chiến đấu của họ với người dân Mỹ ở một nơi xa lắc. Họ đã thất bại trong việc công bố với dân chúng Mỹ rằng họ có một giải pháp quản trị quốc gia thay thế khả dĩ chấp nhận được để giúp đỡ.

Kết quả, mặc dù chiến đấu kiên cường và bất khuất, Việt Nam Cộng Hòa đã thua trận trước khi quốc gia non trẻ này có thể hoàn thành việc phát triển.

Nhiều năm sau, những người miền Nam lưu vong vẫn còn cảm thấy nặng trĩu sự phán xét của lịch sử như thể số phận cay đắng của họ gói gọn trong câu Kinh Thánh : "Ta sẽ quay mặt lại phạt các ngươi và các ngươi sẽ bị quân thù đánh bại… Ta sẽ phân tán các ngươi giữa các dân tộc, Ta sẽ tuốt gươm đuổi theo các ngươi".

Trong nhiều năm, "lịch sử" phán quyết rằng họ bị đuổi khỏi quê cha đất tổ bởi tội lỗi của một chế độ tham nhũng, chuyên quyền, và các quyết định quân sự kém cỏi.

Giờ đây, lịch sử phải xem xét lại những con người ấy với một cách nhìn công bằng và công chính hơn.

Nguồn : Tháng Tư Đen

***

sach03

Drawn Swords in a Distant Land : South Vietnam's Shattered Dreams

Sách tiếng Anh, bìa cứng, 660 trang.

Được bán trên trang Amazon.com  từ ngày 21/03/2021

Mời xem 4tác phẩm biên khảo của George J. Veith về Chiến tranh Việt Nam trên trang điện tử : thangtuden.info