Lịch sử phát triển thành phố Sài Gòn : dựa trên thế mạnh sông nước (Thanh Phương , Phúc Tiến)

Tạp chí Việt Nam

Nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến vừa cho ra mắt cuốn sách mới về lịch sử Sài Gòn, thành phố mà sự hình thành và phát triển vẫn gắn liền với con sông Sài Gòn và cả một hệ thống kênh rạch. Cuốn sách tựa đề Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước đưa độc giả trở về cội nguồn của Sài Gòn, từ lâu đã là nơi buôn bán phồn thịnh nhờ thế mạnh sông nước, từng là thủ đô Liên Bang Đông Dương, rồi Quốc Gia Việt Nam, từng được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông.


Ảnh chụp từ trên không Sài Gòn năm 1955. © Bưu ảnh Pháp, sưu tập Nguyễn Đại Hùng Lộc

Ngoài cuốn sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước, Trần Hữu Phúc Tiến còn là tác giả của những cuốn sách khác về Sài Gòn và Đông Dương xưa, như Sài Gòn không phải ngày hôm qua (2016), Sài Gòn hai đầu thế kỷ (2017), Kiến trúc Pháp - Đông Dương, những viên ngọc quý tại Hà Nội (2021), Du lịch Đông Dương xưa (2224), Kiến trúc Pháp Đông Dương, dấu tích Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông (2025).

Sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước, do Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, ấn hành, bao gồm 3 chương và phần phụ lục, với hơn 312 trang. Phần mở đầu trích dẫn các nhận xét của người xưa trong và ngoài nước từ về vẻ đẹp cảng thị và phố thị của Sài Gòn. Sách giới thiệu nhiều hình ảnh, bản đồ tư liệu sưu tầm công phu từ nhiều nguồn, trong đó có hình ảnh do tác giả chụp ở nhiều năm tháng khác nhau. Tác giả là người sinh trưởng tại Sài Gòn, thuở nhỏ đã thấy thành phố nguy nga lớn mạnh bên sông biển, kinh rạch. Lớn lên được học Sử và làm báo, tác giả có thêm cơ hội học hỏi các thời kỳ phát triển của thành phố, đồng thời khám phá các chốn phố phường, chợ búa, bến tàu, học đường và nhiều công trình di sản.

Theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, "dòng sông Sài Gòn không phải là dòng sông khuất nẻo mà là dòng sông vươn ra biển lớn, dòng sông sinh thành cảng thị và phố thị đông vui, thu hút tinh hoa xa gần". Công sức lớn lao của người Việt từ thế kỷ 17 đến nay đã làm nên Sài Gòn, một kinh đô lịch lãm và kiều diễm. Thông qua nhiều chi tiết cụ thể, cuốn sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước điểm lại quá trình hình thành các thế mạnh của Sài Gòn từ sông biển, địa linh, nhân kiệt, đến kinh tế, dịch vụ, công nghiệp, đào tạo. Đặc biệt với sự mở rộng của thành phố, tác giả chú trọng giới thiệu các tiềm năng về kinh tế biển và kinh tế di sản. Thế nhưng, giống như nhiều đô thị lớn đang trong cơn sốt bùng nổ dân cư và kinh tế, thành phố này cũng đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm, lũ lụt, đòi hỏi nhà nước phải có những giải pháp cấp bách cũng như dài hạn.

Trả lời RFI Việt ngữ nhân dịp sang Paris để giới thiệu sách của ông, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến trước hết cho biết, từ trước khi được người Pháp xây dựng thành một thành phố hiện đại, Sài Gòn đã là một chốn phồn hoa đô hội :

"Sài Gòn Kinh Đô có nghĩa là Sài Gòn trong lịch sử đã từng là thủ đô, là thủ phủ, là trung tâm không chỉ của Nam Bộ, mà là của cả nước. Kinh Đô Sông Nước có nghĩa là một đại cảng thị, một đại phố thị lớn mạnh bên dòng sông Sài Gòn và đặc biệt vị trí của Sài Gòn là rất gần biển và nối kết với khu vực miền Đông Nam Bộ, cũng như miền Tây Nam Bộ, nối kết với miền Nam Đông Dương, rồi ra biển để đi đến với thế giới.

Thật sự là từ thế kỷ 17, với công sức của người Việt Nam khai phá các miền đất mới, vai trò của Sài Gòn như là một trung tâm kinh tế, giao thương, phồn hoa đô thị rất là lớn. Trước khi người Pháp đến, Sài Gòn đã được hình thành như một trung tâm lớn và đặc biệt là từ 1788 - 1790, Sài Gòn đã được Chúa Nguyễn Ánh, sau này là Vua Gia Long, đặt tên là Gia Định Kinh, có nghĩa là Kinh Đô Gia Định. Ngay vào thời điểm đó thì một số chuyên gia Pháp đã giúp Nguyễn Ánh - Gia Long thiết kế Sài Gòn như là một thành phố kết hợp yếu tố phương Đông với yếu tố phương Tây, đặc biệt là coi trọng vị trí cảng thị của Sài Gòn.

Khi vào xâm chiếm Việt Nam, người Pháp đã hiện đại hóa Sài Gòn kế thừa những sự phát triển sẵn có của Gia Định Kinh và người Pháp tổ chức những quy hoạch xây dựng rất là bài bản, rất là chuyên nghiệp, để thành phố này không những là một trung tâm về giao thương, mà đặc biệt còn là một trung tâm về giao thông và dịch vụ".

Vậy thì từ bao giờ thành phố Sài Gòn bắt đầu được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông, nhà nghiên cứu Phúc Tiến giải thích :

"Theo chúng tôi tìm hiểu, lúc đó người Pháp coi như là chỉ mới quản trị chủ yếu là phần Nam Bộ, Nam Kỳ, sau này họ mới phát triển ra toàn miền Bắc, rồi cả Đông Dương. Nhưng lúc đó họ đã đặt kế hoạch phát triển kinh tế, trong đó vấn đề giao thông có một mũi nhọn trên thế giới lúc đó cũng bắt đầu phát triển lớn mạnh đó là đường sắt.

Vào năm 1881, thị trưởng Pháp của Sài Gòn Jules Blancsubé khi trả lời báo chí đã nói rằng người Pháp muốn phát triển hệ thống đường sắt xuyên Đông Dương từ Sài Gòn ra đến miền Bắc và đi đến đến Nam Trung Hoa, rồi có thể mở ra phía Lào, phía Cam Bốt, rồi các nước Đông Nam Á lục địa. Nếu hệ thống đường sắt này mà được hình thành thành công, thì Sài Gòn, với cảng Sài Gòn, sẽ có thêm vị trí quan trọng, có nghĩa là hàng hóa của nguyên khu vực Nam Trung Quốc và khu khu vực Đông Nam Á sẽ đổ về cảng Sài Gòn để mà xuất khẩu đi các nước. Ngược lại thì những hàng hóa từ các nước cũng từ Sài Gòn theo đường sắt, đường bộ, đường sông để mà ra với các nước trong khu vực. Và do vậy, ông nói, lúc đó Sài Gòn sẽ trở thành một Hòn Ngọc Viễn Đông.

Tôi cho rằng là lời tiên đoán đó vào năm 1881 thực sự đã thể hiện một chiến lược quy hoạch kinh tế lớn lao và người Pháp lúc đó đã nhìn thấy được thế mạnh sông nước của Sài Gòn. Sau này, sang đầu thế kỷ 20, chúng ta thấy không chỉ có đường sắt, mà đường hàng không cũng phát triển và bây giờ nhìn toàn cục thì chúng ta có thể thấy là chữ Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông đã được mở rộng từ vấn đề kinh tế sang vấn đề kiến trúc, văn hóa, giáo dục, con người.

Bây giờ thì từ Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông sang thế kỷ 20, sang thời kỳ trước 75, đã trở thành một tên gọi thân yêu để cho thấy một thành phố không những đẹp về mặt mỹ quan, đẹp về sự duyên dáng, yếu tố Đông Tây kết hợp, mà còn đẹp vì thế mạnh của nó, về kinh tế, đẹp về tinh thần cởi mở hội nhập quốc tế.

Từ thời còn là Kinh Đô Gia Định (1789 - 1802), Thủ đô Liên bang Đông Dương (1887 - 1902), cho đến Thủ đô Quốc gia Việt Nam (1949 - 1955) và thủ đô Việt Nam Cộng Hòa (1955 - 1975), Sài Gòn luôn luôn là "đầu máy hùng mạnh" về nhiều mặt của cả nước, không chỉ về kinh tế, mà còn tiên phong cả về văn hóa - xã hội trong nhiều thời kỳ, theo ghi nhận của tác giả Trần Hữu Phúc Tiến. Đó chính là nhờ thế mạnh về sông nước của thành phố này :

"Ngược dòng lịch sử thì chúng ta biết sông Đồng Nai là một hệ thống sông rất lớn, song song với hệ thống sông Tiền và sông Hậu, tức là hệ thống sông Mekong. Hai hệ thống sông này lại có một cầu nối là Sài Gòn. Hay nói cách khác là giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ thì Sài Gòn lúc nào cũng nằm ở trung điểm và Sài Gòn lại được xây dựng bên dòng sông Sài Gòn, một chi lưu của hệ thống sông Đồng Nai.

Có thể có gần 200 km bắt đầu từ Tây Ninh rồi đi qua Bình Dương, đi qua Đồng Nai rồi xuống Sài Gòn để thoát ra được cửa biển. Trước ngày 1 tháng 7 năm 2025, đoạn sông đó đi qua diện tích lãnh thổ của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh hơn 80 cây số. Và điều rất quan trọng là nó đi ra cửa biển Cần Giờ. Cửa biển Cần Giờ là khoảng hơn 20 cây số bờ biển. Nhưng sau ngày 1 tháng 7 năm 2025, với sự hợp nhất Sài Gòn với Bình Dương và Vũng Tàu - Bà Rịa, thế mạnh sông biển của Sài Gòn gia tăng rất lớn. Chỉ tính riêng về bờ biển thì bây giờ Sài Gòn có gần 400 km bờ biển và đặc biệt là có Côn Đảo bây giờ thuộc về siêu đô thị này.

Và thêm nữa là hơn 100.000 km2 thềm lục địa, mà chúng ta biết là về thềm lục địa Biển Đông, trong ngành dầu khí họ nói là có hai vùng trũng là vùng Nam Côn Sơn và vùng Mekong, thì Sài Gòn nằm rất gần khu vực gọi là Nam Côn Sơn. Thế thì riêng về mặt kinh tế biển, thành phố đã phát triển.

Đương nhiên người Pháp khi đến Việt Nam năm 1858, với tầm nhìn của một đế chế công nghiệp, họ nhận ra tài nguyên của Sài Gòn không phải là hàng hóa, mà là vị trí thuận lợi để giao thương kết nối được nhiều miền. Đặc biệt họ đưa ra tầm nhìn là Sài Gòn thuộc về khu vực Nam Đông Dương, nói cách khác chính là Đông Nam Á.

Tôi còn nhớ là trong nhật ký của một sĩ quan Pháp tham gia trận đánh vào Sài Gòn năm 1859, ông này có ghi rằng vị trí Sài Gòn không khác gì Batavia, nay là Jakarta của Indonesia, như là Singapore hay là Hồng Kông và nó có những điểm độc đáo riêng.

Nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến trình bày quá trình người Pháp hiện đại hóa Sài Gòn trong buổi giới thiệu sách tại Paris, Pháp, ngày 20/09/2025. © RFI

Chính vì vậy, theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, một trong những mũi nhọn kinh tế mà người Pháp xây dựng ở Sài Gòn không phải là công nghiệp nặng, công nghiệp sản xuất hàng hóa, mà điều rất quan trọng là dịch vụ. Trong quyển sách, tác giả kể ra đến 6 ngành, gọi là 6 "cổ máy không khói" của Sài Gòn từ thời Pháp :

Thứ nhất là hàng hải, bao gồm sửa chữa tàu biển và hải cảng.

Thế mạnh thứ hai là giao thương, tổ chức thương mại, chế biến nông sản để xuất ra nước ngoài.

Thứ ba là một trung tâm tài chính, vì đương nhiên là xuất khẩu thì phải cần có sự trợ giúp của ngân hàng, bảo lãnh tín dụng, vân vân…Ngay từ cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã là một trung tâm tài chính, với khá nhiều ngân hàng quốc tế cũng như các hãng bảo hiểm đóng tại Sài Gòn và hình thành một khu phố tài chính.

Thế mạnh thứ tư là về viễn thông. Ngay trung tâm thành phố, ngay bên cạnh nhà thờ Đức Bà, có nhà bưu điện rất lớn, rất đẹp và đã được coi là kiến trúc nhà bưu điện đẹp thứ hai trên thế giới. Thế mạnh viễn thông của Sài Gòn thì phải nói rất là sớm. Năm 1865, 1870, người Pháp đã bắt đầu thiết lập đường điện tín cáp quang để liên thông giữa Sài Gòn với Paris, nối cáp dưới dưới biển đi qua Singapore và sau đó làm đường ngược lên Hồng Kông để liên thông với cả khu vực châu Mỹ.

Kế đến là hệ thống giao thông vận tải, Sài Gòn có đủ phương tiện, từ đường bộ, đường sắt, rồi đường biển, đường thủy. Cái độc đáo của Sài Gòn lúc đó là người Pháp đã tổ chức những đội tàu, không những đi dọc theo bờ biển để đi ra Hải Phòng, đi ra phía Bắc, mà còn làm hệ thống tàu thuyền để chở khách đi khắp đồng bằng sông Cửu Long, rồi đi lên được cả Phnom Penh, thậm chí là đến được cả Bangkok. Ngay cả bây giờ, đường thủy lên Phnom Penh và đường thủy lên Bangkok, chúng ta vẫn chưa thực hiện lại được đầy đủ. Đặc biệt là khi ngành hàng không thế giới ra đời và được đẩy mạnh sau chiến tranh thế giới thứ nhất, sân bay Tân Sơn Nhất đã được xây dựng từ năm 1914. Lúc đó người Pháp đã gom ba làng là Tân Sơn Nhất, Tân Sơn Nhì và Tân Sơn Tam để làm sân bay rất lớn, phục vụ cho đến thế kỷ 21.

Một thế mạnh nữa của Sài Gòn : Đây là trung tâm về khoa học, đào tạo, với những trường dạy nghề đầu tiên cũng như Viện Pasteur. Nơi mà chúng ta hay gọi là Sở thú còn có tên là Sở bông, vì còn là nơi ươm trồng những giống cây mới. Kể cả cây cao su ở Việt Nam cũng chính là đã được trồng thử nghiệm ở Sài Gòn.

Sài Gòn dù không phải là một cảng biển, chỉ là cảng sông, nhưng dòng sông thì sâu. Tại vị trí ở quận 1 đối diện với Thủ Thiêm, độ sâu nhất là khoảng 40 m và khoảng cách giữa hai bờ Thủ Thiêm và bến Bạch Đằng, ở khu vực Nhà Rồng là khoảng 300 m, nên tàu bè đi vào rất là thuận tiện, có tới hai ngã đường sông từ Cần Giờ vào. Tàu thuyền các nước trên đường đi từ Singapore qua hoặc là đi từ Hồng Kông xuống thì ghé lại Sài Gòn để lấy hàng, đồng thời lấy nước ngọt, lấy thêm nhân lực. Chính những điều đó đã giúp cho Sài Gòn phát triển và những thế mạnh này lại tiếp tục xuyên suốt thế kỷ 20 và bây giờ bắt đầu phải được đẩy mạnh hơn trong thế kỷ 21".

Thế nhưng, cũng chính do có vị trí gắn liền với sông và biển, cùng với quá đô thị hóa quá nhanh mà lại thiếu quy hoạch chặt chẽ, bây giờ thêm tác động của biến đổi khí hậu, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh nay lại phải đối đầu với tình trạng ngập lụt thường xuyên. Chính quyền của thành phố đang đối phó ra sao, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến cho biết :

"Tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện giờ nhà nước cũng đã có một số cố gắng giải quyết các vấn nạn môi trường và liên quan đến sông nước. Tôi có thể kể ra một thành công trong vòng 50 năm nay là đã thiết kế, cải tạo lại hai hệ thống kênh lớn, thứ nhất là hệ thống Kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè, có sự trợ giúp của Ngân hàng Thế giới. Thứ hai là hệ thống Kênh Tàu Hủ Bến Nghé. Đồng thời hiện giờ một số con kênh ở khu vực trước đây gọi là Tân Bình, Tân Phú, hoặc những nơi xa hơn, hoặc là ở quận 6, ngay khu vực chợ Bình Tây có những con kênh trước đây bị lấp nay đã được khơi lại.

Trong vài năm trở lại đây đã bắt đầu có những công trình thiết lập các cống để xả nước kịp thời khi có triều cường. Tuy nhiên phải nói rằng các nhà khoa học của thế giới cũng đã báo động cho Việt Nam không chỉ về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, mà toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Việt Nam là một nước sẽ phải hứng chịu những tác động rất lớn của biến đổi khí hậu.

Khu vực đã được báo động sẽ bị ảnh hưởng rất là nặng nề là Cần Giờ, Nhà Bè, Phú Mỹ Hưng, là nơi mà tiếp giáp với biển. Tôi thấy có điểm tích cực là các nhà khoa học từ các viện nghiên cứu, với các trường đại học ,cũng đã bắt đầu đẩy mạnh nghiên cứu, lên tiếng yêu cầu chính quyền có những giải pháp tốt hơn.

Ngoài ra còn có một dự án là Kênh Xuyên Tâm, băng ngang từ phía Tây Nam lên phía Đông Bắc xuyên qua thành phố. Nếu nhìn trong toàn cảnh thì chúng ta chưa làm được nhiều và cần có sự hỗ trợ. Cũng đã có nhiều cuộc hội thảo mà nước ngoài tham gia, với mong muốn là thúc đẩy (các dự án). Đương nhiên là những chương trình đó cần một kinh phí lớn, nhưng điều quan trọng là dư luận xã hội cũng đã rất quan tâm.

Báo chí cũng đã lên tiếng và trong chương trình hành động của chính quyền thành phố mà bây giờ được mở rộng ra, bao gồm cả Bình Dương và Bà Rịa Vũng Tàu, có những dấu hiệu cho thấy phải xúc tiến càng nhanh càng tốt".

Về sự hỗ trợ của nước ngoài, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến cho rằng có những kinh nghiệm của nước Pháp về môi trường, về trị thủy có thể áp dụng được cho Sài Gòn. Ông hy vọng nước Pháp có thể hỗ trợ nhiều hơn cho Việt Nam và kêu gọi sự tham gia của các nhà khoa học Pháp cũng như nhà khoa học người Việt sống tại Pháp.

Thanh Phương

Nguồn : RFI, 27/10/2025

*******************************

Phục hưng Sài Gòn - "Kinh đô sông nước"
Phuc Tiến, Người Đô Thị online, 12/08/2022

Trở lại với sông nước cũng là trở lại với cội nguồn Sài Gòn - một thành phố ngay từ khởi thủy luôn khát vọng hội nhập giữa truyền thống và cách tân, giữa dân tộc và thế giới !

Tranh vẽ màu phối cảnh quy hoạch Sài Gòn 1898 của người Pháp cho thấy dòng sông Sài Gòn và các kênh rạch là hoạt động giao thông chính của thành phố. Trên góc phải của tranh có logo Sài Gòn với chiếc thuyền buồm và dòng sông nằm ở vị trí trung tâm (ảnh tư liệu)

Nắng sớm mùa hè càng làm màu hoa trắng lấp lánh trên thân những cây gòn cao ngất, phủ khắp các ngọn núi cao thấp của Vũng Tàu. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp hiện lên trong mắt khách phương xa khi tàu từ biển tiến vào Cần Giờ. Và rồi, chẳng mấy chốc, khi tàu đi qua những cánh rừng Sác xanh thẳm, khách nhìn thấy nơi chân trời nổi dần lên một bến cảng và phố thị nguy nga. Đó chính là Sài Gòn - thành phố phía sau rừng gòn, như một nàng công chúa diễm lệ vừa thức dậy, soi mình nguyên khôi trên mặt nước nhung lụa.

Lần đầu tiên tôi thấy Sài Gòn rạng rỡ như vậy khi đứng trên boong một con tàu viễn dương, đi từ "phao số không" ngoài khơi xa, dần dần xuôi sông Lòng Tàu, nhẹ nhàng cập bến Nhà Rồng. Ngày xửa ngày xưa, người Việt theo các ghe bầu của người Chăm từ Phan Thiết, Phan Rang hay theo các đoàn chiến thuyền từ Quy Nhơn, Đà Nẵng vào đây trên cùng thủy lộ này, cũng đã gặp khung cảnh tương tự.

Dõi theo lịch sử hình thành Sài Gòn, chúng ta sẽ thấy thành phố này chào đời và lớn mạnh từ sông biển. Liệu có thể phục hưng vẻ đẹp và thế mạnh vẹn toàn, hoàn mỹ ấy?

Khởi đầu từ làng chài và cảng thị

Theo các dấu tích khảo cổ, đất Sài Gòn khởi đầu từ một vài làng chài ở khu vực Cần Giờ (di tích giồng Cá Vồ - thuộc vương quốc cổ Phù Nam, thế kỷ I - VII). Thời kỳ ấy, mặc dù sát biển nhưng Cần Giờ (gốc từ tiếng Khmer "Kancheou", có nghĩa là Thuyền Thúng) - song hành với Vũng Tàu, không thể trở thành một cảng thị phồn thịnh như Óc Eo (Ba Thê, An Giang ngày nay). Vì cả hai đều là đất rừng ngập mặn, ao đầm hoang vắng, cách xa các vùng đã khai khẩn trồng lúa. Mãi nhiều thế kỷ sau, khi vương quốc Chân Lạp thay thế Phù Nam, người bản địa từ đầu nguồn các sông đổ xuống khai khẩn vùng hạ lưu nhiều hơn.

Từ ấy dần dần hình thành một xóm chợ ven bờ sông - được người Khmer gọi là Kras Krobey, người Việt gọi là Bến Nghé. Khi Chân Lạp phân liệt thành hai chính quyền là Thủy Chân Lạp (miệt dưới) và Thượng Chân Lạp (miệt trên), vua Thủy Chân Lạp đặt kinh đô ở thị tứ ven sông này, tên gọi truyền lại là Prei Nokor (cung điện hoặc đền đài trong rừng).

Hiện giờ, chúng ta chưa rõ Prei Nokor ra đời năm nào và quy mô lớn nhỏ ra sao. Có thể hoàng thành và hoàng cung của Prei Nokor là vùng người Việt sau này gọi là Phú Lâm, Chợ Rẫy và Chợ Quán (ba cái tên đều thể hiện dấu tích rừng và thị tứ, gộp chung thành vùng Chợ Lớn). Trong đó, có lẽ tâm điểm là khu vực đồn Cây Mai, nguyên là chùa và đền đài lớn của người Khmer (1).

Từ vùng Chợ Lớn, có nhiều kênh rạch (hậu thân là kênh Tàu Hũ và đường Nguyễn Trãi) thông ra khu vực bờ sông Bến Nghé, đón tàu từ biển vào. Đồng thời từ vùng này lại có đường thủy - người Việt gọi là kênh Chợ Gạo - cái tên cho thấy ý nghĩa kinh tế, dẫn đến Gò Công - Cần Đước -vùng lúa gạo, cây trái và hải sản. Kinh đô Thủy Chân Lạp còn có cả đường thủy và đường bộ thuận tiện ngược lên Thượng Chân Lạp - vùng Biển Hồ giàu có.

Nhờ đó, thuyền buôn người Hoa, người Việt, người Chăm, người Nhật, người Java, người phương Tây và người Việt từ nhiều nơi đổ đến Prei Nokor, hình thành nên một tân cảng thị tấp nập.

Kinh đô hưng vượng

Từ Phú Xuân - Huế xa xăm, chúa Nguyễn đã thấy được vị trí và nguồn lợi của Prei Nokor. Từ năm 1623, sau khi gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Thủy Chân Lạp, chúa Nguyễn khôn khéo xin thầu thu thuế các thuyền buôn tại đây.

Một số học giả cho rằng vùng Cầu Kho và Cột cờ Thủ Ngữ hiện tại chính là địa điểm đặt hai đồn thu thuế của chúa Nguyễn. Để rồi, trong vòng 65 năm sau, từ hai "cứ điểm" kinh tế và quân sự đó, người Việt và quân đội Việt tỏa rộng khắp miền đất từ Đồng Nai đến sông Tiền. Năm 1698, Thống chế Nguyễn Hữu Cảnh chính thức khép lại vương quốc Thủy Chân Lạp. Cảng thị Prei Nokor trở thành đô thị Việt Nam, mang tên phủ Tân Bình. Cũng từ đấy, con sông dẫn vào đô thị này, trước người Việt gọi là Ngưu Chữ, đổi tên là Tân Bình Giang (2).

Dõi theo lịch sử hình thành Sài Gòn, chúng ta sẽ thấy thành phố này chào đời và lớn mạnh từ sông biển.

Vào nửa cuối thế kỷ XVIII, trải qua nhiều cơn binh lửa, Tân Bình mang tên mới là Gia Định, bắt đầu một thời kỳ hưng vượng sung túc. Từ 1788 - 1802, Gia Định là kinh đô và hậu cứ lớn nhất của nhà Nguyễn trong cuộc chiến trường kỳ với Tây Sơn. Từ đây, nhân tài (người Việt, Hoa, Khmer, Chăm, Lào, Tây Nguyên, Tây Âu…) và vật lực (lúa gạo sông Tiền, lâm sản Đồng Nai…) được huy động dồi dào cho cuộc chiến.

Nhờ có khu người Hoa - Chợ Lớn và cảng Bến Nghé - nối liền sông biển, Gia Định vươn lên là một trung tâm buôn bán và giao lưu với cả phương Đông và phương Tây. Tựa vào sông Tân Bình, hệ thống rạch Bến Nghé và rạch Thị Nghè, Nguyễn Ánh cho xây dựng một tòa thành đồ sộ. Thêm nữa, Gia Định còn được quy hoạch, dựa trên kinh nghiệm của châu Âu, là một thành phố lớn chưa từng có hướng ra biển.

Lorem ipsum dolor sit amet, consetetur sadipscing elitr, sed diam nonumy eirmod tempor invidunt ut labore et dolore magna aliquyam erat, sed diam voluptua. At vero eos et accusam et justo duo dolores et ea rebum. Stet clita kasd gubergren, no sea takimata sanctus est Lorem ipsum dolor sit amet. Lorem ipsum dolor sit amet, consetetur sadipscing elitr, sed diam nonumy eirmod tempor invidunt ut labore et dolore magna aliquyam erat, sed diam voluptua. At vero eos et accusam et justo duo dolores et ea rebum. Stet clita kasd gubergren, no sea takimata sanctus est Lorem ipsum dolor sit amet. Lorem ipsum dolor sit amet, consetetur sadipscing elitr, sed diam nonumy eirmod tempor invidunt ut labore et dolore magna aliquyam erat, sed diam voluptua. At vero eos et accusam et justo duo dolores et ea rebum. Stet clita kasd gubergren, no sea takimata sanctus est Lorem ipsum dolor sit amet.