'Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do' (Tuần Việt Nam)
Dù tác giả cố gắng núp dưới vỏ bọc "kính bác yêu đảng" cho an toàn để "mở mồm" nhưng cũng không thể giấu được một sự thực là ĐCSVN nói dối, nói láo và "nói một đằng làm một nẻo" một cách trơ tráo và lì lợm. Đúng như lời tâm sự của cố nhà văn, đại tá quân đội Nguyễn Khải: "Người cộng sản nói dối lem lẻm, nói dối lì lợm, nói dối không hề biết xấu hổ và không hề run sợ!". Thông điệp của tác giả: "Thực tiễn Việt Nam và thế giới cho thấy, chỉ khi thực hiện đầy đủ quyền tự do dân chủ thì tính sáng tạo của nhân dân mới thăng hoa và vai trò của họ mới được phát huy tối đa" có lẽ ai cũng biết nhưng làm thế nào có dân chủ dưới chế độ độc tài? Đâu là nguồn gốc của vấn đề? Bệnh nửa vời của trí thức VN khó mà chữa khỏi.
Lúc
sinh thời, Bác Hồ quan tâm đặc biệt đến công tác xây dựng Đảng, trong
đó vấn đề quan trọng hàng đầu là Đảng phải dũng cảm, thẳng thắn thừa
nhận sai lầm, khuyết điểm. Người cho rằng: “Một
Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan
thừa nhận khuyết điểm của mình, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa
khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân
chính”.
Quan điểm trên đây của Bác Hồ luôn có giá trị xuyên
suốt, phổ quát. Thực tiễn cho thấy, một Đảng tiến bộ đến mấy cũng có
lúc phạm sai lầm. Điều quan trọng là phải nhận ra sai lầm, khuyết điểm
để sửa chữa, xác định đúng mục tiêu và con đường cách mạng phù hợp với
xu thế phát triển của nhân loại.
Đặc biệt với Đảng ta được Hiến
pháp quy định “…là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Điều 4, Hiếp
pháp 2013). Vì vậy Đảng có sứ mệnh lịch sử đối với vận mệnh của Quốc gia
và phồn thịnh của nhân dân.
Quốc gia hưng thịnh, văn minh hay
không; nhân dân được tự do, hạnh phúc, thịnh vượng hay không là tùy
thuộc vào mục tiêu, con đường mà Đảng lựa chọn. Gần 74 năm Đảng nắm
quyền lãnh đạo Nhà nước đã minh chứng điều đó.
Để Đảng hoàn thành sứ mệnh của mình thì vấn đề xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước đóng vai trò quyết định.
Trong
phạm vi bài viết này, người viết bài xin nêu một số vấn đề có tính thực
tiễn thuộc một số nguyên lý mà Chủ tịch Hồ Chí minh đã chỉ ra trong quá
trình lãnh đạo của Đảng.
Đây là vấn đề mang tính sống còn của Đảng cũng như sự thành bại đối với sứ mệnh mà Đảng gánh vác. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu:
“Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân".
Tuân thủ quan điểm tư tưởng trên đây,
Đảng đã tập hợp được quần chúng nhân dân, vượt qua những khó khăn, hiểm
nguy trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc khi Đảng mới ra đời cũng như
trong những ngày đầu giành chính quyền.
Lúc đó, số lượng đảng viên
chỉ bằng khoảng 1/1000 bây giờ (năm 1945 chỉ có khoảng 5000 đảng viên)
nhưng Đảng đã lãnh đạo dân tộc làm nên cách mạng tháng Tám, giành thắng
lợi trong hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Tuy nhiên, khi
bước vào thời kỳ xây dựng đất nước, một bộ phận cán bộ đảng viên, nhất
là những người có cương vị trong bộ máy của Đảng và Nhà nước đã lạm dụng
vị trí của mình để trục lợi, vơ vét cho bản thân và gia đình.
Hàng
loạt cán bộ tham ô, tham nhũng kéo theo đó là hàng loạt đại án làm thất
thoát của nhà nước hàng nghìn tỷ, hàng chục nghìn tỷ. Trong lúc đời
sống của nhân dân đang khó khăn thì ở nhiều tỉnh thành, biệt thự, biệt
phủ của quan chức thi nhau khoa trương. Những hình ảnh đó chẳng khác gì
trêu ngươi nhân dân.
Đối tượng này vừa làm tổn thất một khối lượng
tài sản rất lớn của quốc gia, vừa bào mòn niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, với chế độ. Rất may là Tổng Bí thư đã mở chiến dịch “đốt lò”,
“cắt rễ tỉa cành, cây to mấy cũng phải đổ”.
Từ năm 2014 đến tháng
6/2018, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 840 tổ
chức Đảng và 58.120 đảng viên vi phạm. Trong đó, hơn 2.700 đảng viên vi
phạm về tham nhũng, cố ý làm trái.
“Từ đầu nhiệm kỳ khoá XII đến
nay, chưa đầy 3 năm, có trên 60 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý bị
kỉ luật. Trong đó, có tới 5 ủy viên Trung ương đương nhiệm, trên 20
tướng lĩnh Công an, Quân đội và nhiều Đại biểu Quốc hội. Gần đây nhất,
có 3 Ủy viên Trung ương bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương đề nghị kỷ luật.
Trong đó có 1 Phó Thủ tướng, hai tướng Quân đội."
Nhân dân đang
rất tin tưởng phấn khởi vào những kết quả ban đầu đó, nhưng nhân dân
cũng trong mong quyền lực phải được “nhốt vào lồng” cơ chế, chính sách
để những kẻ muốn lạm dụng quyền lực để tham nhũng tiêu cực cũng không
thể.
Nhà nước của nhân dân, vì lợi ích nhân dân
Theo
quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhưng không
có nghĩa nhà nước đó là của một bộ phận, của một nhóm người mà nhà nước
là của dân, do dân, vì dân.
Người khẳng định: "Nước
ta là một nước dân chủ”, “…Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương
do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm
lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân".
Quan điểm trên
đây của Hồ Chí Minh đã được hiến định vào Hiến pháp năm 1946: “Tất cả
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt
nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.” (Điều 1)
Quan
điểm này vừa là chân lý vừa là nguyên lý xây dựng nhà nước thời đại văn
minh. Quốc gia nào cũng vậy, chỉ khi nào nhà nước phải thực sự do dân
bầu ra và quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân thì nhà nước đó
mới là nhà nước của dân, mới mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Như vậy,
nhân dân mới phụng sự nhà nước đó.
Trong lịch sử Việt Nam dưới
thời lãnh đạo của Đảng, với niềm tin tuyệt đối vào Đảng, khi đất nước
mới giành độc lập, ngân khố Chính phủ trống rỗng, nhân dân đã sẵn sàng
mang tiền, vàng ủng hộ Chính phủ, ủng hộ kháng chiến.
Trong kháng
chiến chống Mỹ, tinh thần “xe chưa qua, nhà không tiếc” không chỉ là
khẩu hiệu mà là hành động thực tế của người dân nhiều tỉnh miền Trung.
Nhưng
khi bước vào thời bình, một bộ phận quan chức vì mưu lợi cho cá nhân đã
lợi dụng quyền lực, lấy danh nghĩa nhà nước xâm phạm thô bạo quyền lợi,
tài sản, danh dự của người dân.
Nhiều vụ cưỡng chế đất đai, nhà
cửa trái pháp luật; nhiều vụ ăn chặn tiền đến bù giải phóng mặt bằng,
tiền trợ cấp xã hội… đã vi phạm nghiêm trọng đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân.
Một trong những ví dụ điển hình là vụ Thủ
Thiêm, TP. Hồ Chí Minh, làm hàng trăm hộ dân mất nhà, mất đất oan ức,
kéo dài hơn 20 năm nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng.
Cán bộ, đảng viên phải là tấm gương sáng cho quần chúng nhân dân noi theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Đồng chí ta
nhiều người đã làm được nhưng vẫn còn những người tham ô, hủ hóa. Đảng
có trách nhiệm gột rửa cho các đồng chí đó".
“Một
dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp
dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến
và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Hiện
nay, trên thực tế một bộ phận cán bộ, đảng viên nói không đi đôi với
làm, nói một đường làm một nẻo. Cách hành xử như vậy không những làm ảnh
hưởng lớn tới uy tín của những cán bộ đó mà còn ảnh hưởng lớn tới niềm
tin của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên và của Đảng nói
chung.
Đề cao và phát huy quyền tự do dân chủ
Một
trong những vấn đề xây dựng Đảng cũng như xây dựng Nhà nước mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh quan tâm nhất là tự do dân chủ. Để phát huy dân chủ, phát
huy trí tuệ của nhân dân, chống tình trạng “độc quyền chân lý”, Người
chỉ rõ:
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư
tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người
tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền
lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người”
Thực tiễn Việt
Nam và thế giới cho thấy, chỉ khi thực hiện đầy đủ quyền tự do dân chủ
thì tính sáng tạo của nhân dân mới thăng hoa và vai trò của họ mới được
phát huy tối đa.
Từ phân tích trên đây, người viết bài đặt mấy vấn đề để cùng suy ngẫm:
Tại
sao trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, Đảng ta được nhân dân tin tưởng
và đã hoàn thành sứ mệnh của mình, nhưng trong sự nghiệp xây dựng, phát
triển đất nước chúng ta lại gặp rất nhiều khó khăn?
Tại sao từ
1986 đến nay, thực hiện đường lối đổi mới, tuy đất nước đạt được nhiều
thành tựu kinh tế, xã hội quan trọng, nhưng hơn 30 năm vẫn chưa hoàn
thành mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, trong
khi nhiều nước chỉ mất khoảng 20 năm?
Vì sao Việt Nam đã thực hiện
mô hình kinh tế thị trường và hội nhập ở mức độ rất sâu rộng với kinh
tế thế giới mà những hệ thống bên trong vẫn không thay đổi cho tương
thích với những cải cách đó? Liệu mô hình tổ chức của chúng ta, như
nhiều người đã phân tích là đang vận hành theo mô hình Xô Viết, có đang
cản trở phát triển?
Hơn lúc nào hết, những nút thắt trên có thể
được tháo gỡ trên quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng; trên quy
luật ‘cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng’ và hệ thống các
quy luật của kinh tế thị trường mà Marx đã chỉ ra.
Nguyễn Huy Viện