Mười ‘tiết lộ’ về Cuộc chiến Việt Trung 1979 (Nguyễn Hùng)
Mặc dù báo chí Việt Nam được cởi trói trong dịp kỷ niệm hiện nay,
người ta chỉ có thể hy vọng sự thật lịch sử sẽ thực sự được tôn trọng
khi không còn hệ thống đèn xanh, đèn đỏ trong lĩnh vực xuất bản ở Việt
Nam. Hơn nữa sự cởi trói cũng không phải là toàn diện và các hoạt động
tưởng niệm của người dân trong dịp này đều bị ngăn chặn một cách thô
thiển. Người ta đã cho cẩu đi lư hương ở tượng đài Trần Hưng Đạo thuộc
thành phố Hồ Chí Minh để người dân không thể thắp hương tưởng nhớ hàng
vạn người thiệt mạng. Cách hành xử này cho thấy tư duy của nhiều lãnh
đạo Việt Nam còn ở tầm của Thế kỷ 19 chứ không phải ở Thế kỷ 21. (Nguyễn Hùng)
Dịp kỷ niệm 40 năm Cuộc chiến Biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc
chứng kiến màn mở miệng của phần lớn báo chí trong nước, vốn dè dặt
trong hàng chục năm trở lại đây mỗi khi đề cập tới những ngày đẫm máu
tại sáu tỉnh biên giới giáp Trung Quốc từ tháng Hai năm 1979.
Cuộc chiến trên thực tế còn kéo dài tới tận năm 1989 dù với quy mô,
không gian và thời gian phần lớn hạn chế hơn. Mặc dù Đài Truyền hình
Việt Nam đúng hôm 17/2 bị chỉ trích vì không dám một lần nhắc tới hai
chữ ‘Trung Quốc’ khi đưa tin về các hoạt động kỷ niệm 40 năm cuộc chiến,
phần đông báo chí Việt Nam đã không ngần ngại nhắc tên nước láng giềng
từng bị gọi là “bành trướng, dã man”.
Đây là 10 điểm nhấn hay tiết lộ trên báo chí Việt Nam trong những ngày tháng Hai năm 2019.
1. Điểm nhấn thứ nhất là tổn thất không nhỏ về nhân mạng của Việt Nam
trong cuộc chiến mà giai đoạn chính kéo dài từ ngày 17/2-5/3/1979 với
sự tham gia của 600.000 lính Trung Quốc (dù một số học giả nói chỉ có
150.000 quân trực tiếp tham chiến) trên tuyến biên giới hơn 1.000km
thuộc sáu tỉnh Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang ngày nay), Hoàng Liên Sơn
(Lào Cai và Yên Bái ngày nay), Lạng Sơn, Lai Châu và Quảng Ninh. Báo chí
Việt Nam nhắc lại lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại vùng biên giới
chỉ có 50.000 quân chống lại lực lượng “biển người” của Trung Quốc gồm
cả chín quân đoàn chủ lực, 32 sư đoàn bộ binh độc lập và sáu trung đoàn
xe tăng. Thông tấn xã Việt Nam nói về thiệt hại đối với nước cộng sản
đàn em khi đó: “Để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh, nhân dân Việt
Nam cũng chịu những tổn thất nặng nề: hơn 30.000 cán bộ, chiến sĩ
thương vong; hàng chục ngàn dân thường bị thiệt mạng.”
“Các thị xã Cao Bằng, Lạng Sơn, Cam Đường, Lào Cai gần như bị hủy
diệt hoàn toàn; tổng cộng có 320 xã, 735 trường học, 41 nông trường, 81
xí nghiệp, hầm mỏ và 38 lâm trường bị tàn phá; 400.000 gia súc bị giết,
bị cướp. Khoảng 50% trong tổng số 3,5 triệu người ở sáu tỉnh biên giới
bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống.”
Trong khi đó thiệt hại đối với Trung Quốc cũng được nêu: “Quân dân
Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 quân Trung Quốc, bắn cháy và
phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng, xe thiết giáp, phá hủy
115 khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí, đồ dùng quân sự...
buộc đối phương sớm rút quân, qua đó làm thất bại hoàn toàn ý đồ của các
nhà cầm quyền Trung Quốc muốn áp đặt lợi ích nước lớn lên bán đảo Đông
Dương.”
Các nguồn khác nhau nói thương vong của Trung Quốc ít hơn so với con số Việt Nam công bố tới cả vạn người.
2. Hiện đang có sự khác biệt lớn giữa toàn cảnh cuộc chiến Việt –
Trung có trên truyền thông chính thống trong những ngày qua và những gì
đang được ghi trong sách giáo khoa lịch sử.
Giáo sư, Tiến sỹ Phạm Hồng Tung từ Viện Việt Nam học và Khoa học phát
triển thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, chủ biên chương trình Lịch sử
trong chương trình giáo dục phổ thông viết rằng sách lịch sử lớp 12 chỉ có hai đoạn, bốn câu và 11 dòng dưới đây về cuộc chiến:
“Bảo vệ biên giới phía Bắc: Hành động thù địch chống Việt Nam của tập
đoàn Pôn Pốt được một số nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc đó đồng tình ủng
hộ. Họ còn có những hành động làm tổn hại đến tình hữu nghị của nhân dân
hai nước như cho quân khiêu khích dọc biên giới, dựng nên sự kiện “nạn
kiều”, cắt viện trợ, rút chuyên gia.
Nghiêm trọng hơn, sáng 17/2/1979, quân đội Trung Quốc huy động 32 sư
đoàn mở cuộc tấn công dọc biên giới nước ta từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến
Phong Thổ (Lai Châu). Để bảo vệ lãnh thổ Tổ quốc, quân dân ta, trực
tiếp là quân dân sáu tỉnh biên giới phía Bắc, đã đứng lên chiến đấu. Đến
ngày 18/3/1979, quân Trung Quốc rút khỏi nước ta”.
Ông Tung cũng nói thêm: “Khép lại quá khứ không có nghĩa là lảng
tránh hay nói sai về quá khứ. Làm như vậy chỉ khiến nhận thức lịch sử
trở nên tồi tệ hơn. Cần giúp học sinh nắm vững cách thức khám phá sự
thật lịch sử về cuộc chiến một cách khoa học. Trên cơ sở đó, giáo viên
nói rõ cho người học rằng đó là những sự thật của quá khứ, chúng đã
thuộc về quá khứ. Hiểu rõ chúng để ngăn ngừa, không cho chúng tái sinh
trong hiện tại và tương lai.”
3. Có nhiều khả năng sách giáo khoa lịch sử trong những năm tới đây
sẽ được sửa đổi để phản ánh đúng và đủ hơn những gì thực sự diễn ra
không chỉ trong cuộc chiến biên giới trên bộ mà cả trên biển. Giáo sư
Tung khẳng định với VnExpress
rằng các thông tin về các hành động của Trung Quốc và sự chống trả của
Việt Nam sẽ được trình bày “toàn diện và cẩn trọng”. Trước đó, ông Tung
cũng đã viết trong bài gửi trang tin Zing:
“Trước đây, cũng như ngày nay, cách trình bày, nhìn nhận, đánh giá về
lịch sử các cuộc chiến tranh nói trên ở Việt Nam và Trung Quốc rất khác
nhau, thậm chí hoàn toàn trái ngược nhau.
“Về cuộc chiến tranh biên giới 1979, trong khi ở Việt Nam, giới trẻ
ít được giáo dục, tuyên truyền, cung cấp thông tin một cách khoa học,
đầy đủ, thì ở Trung Quốc, thanh niên, học sinh vẫn được tuyên truyền,
giáo dục rằng đó là “cuộc chiến tranh phản kích chống Việt Nam để tự vệ”
(phản Việt phòng vệ chiến tranh), nhằm trừng phạt “tiểu bá” Việt Nam
vong ân bội nghĩa, tay sai của Liên Xô…”
4. Sách giáo khoa sử của Việt Nam không những bỏ hoàn toàn hai trận
hải chiến Hoàng Sa (1974) và Trường Sa (1988) ra khỏi lịch sử giai đoạn
1979-1989 mà còn lờ luôn trận Vị Xuyên đẫm máu. Trang tin của Đài Tiếng nói Việt Nam hôm 15/2/2019 nêu lại:
“Từ tháng 4/1984 đến tháng 5/1989, Trung Quốc đã đưa hơn 500.000 quân
đánh chiếm biên giới Vị Xuyên. Mặt trận Vị Xuyên- Hà Tuyên trở thành
vùng chiến sự ác liệt nhất trong cuộc chiến chống xâm lấn biên giới. Đến
giữa năm 1984, quân Trung Quốc lần lượt chiếm đóng trái phép nhiều cao
điểm của Việt Nam thuộc tỉnh Hà Giang.
“Tháng 7/1984 về sau, Vị Xuyên tiếp tục là mặt trận ác liệt, hai bên
giành giật nhau từng vị trí trên các điểm cao. Đỉnh điểm diễn ra vào đầu
năm 1985, có ngày quân Trung Quốc bắn tới 30.000 quả đại bác vào Vị
Xuyên trong khoảng rộng 5km, sâu 3km.”
5. Con trai của một trong những vị tướng chỉ huy mặt trận Vị Xuyên
cũng đưa ra tiết lộ rằng ông đã để mất tới 30.000 lính trong các trận
đánh với quân Trung Quốc, Hoa Kỳ và cả quân Pháp thời những năm 1950.
Tướng Hoàng Đan không nói rõ bao nhiêu lính đã thiệt mạng trong thời
gian ông là tư lệnh ở Vị Xuyên. Con trai Tướng Đan, ông Hoàng Nam Tiến, Chủ tịch FPT Software, viết trên Soha:
“Năm 1984, Trung Quốc quay trở lại gây chiến ở chiến trường Vị Xuyên,
với mục đích gây sức ép cho ta ở mặt trận Campuchia. Lúc này, ba tôi đã
được rút về làm Cục Phó Cục Khoa học Quân sự. Chỉ huy mặt trận Vị Xuyên
lúc ấy là một vị Tướng khác.
“Ngày 12.7.1984, các đơn vị chủ lực của sư đoàn 312, 316 và 356 được
lệnh dàn quân đánh với quy mô lớn. Tổn thất vô cùng kinh khủng. Chỉ
trong một đêm, chúng ta mất 600 lính, bị thương vong 1.200 người. Sư
đoàn 356 mất sức chiến đấu. Nên ngày 12.7 đến bây giờ vẫn được coi là
ngày giỗ trận của lính Vị Xuyên.
“Ngay sau đó, ba tôi được Đại tướng Lê Trọng Tấn ra lệnh quay lại
Biên giới phía Bắc, làm Tư lệnh mặt trận Vị Xuyên. Lên đến Vị Xuyên,
chứng kiến thương vong khủng khiếp của những người lính, Ba tôi chỉ nói
với những người chỉ huy trận đánh trước một câu duy nhất: "Các anh đánh
thế này, thì mẹ Việt Nam anh hùng đẻ không kịp đâu".
Ông Tiến viết thêm: “Việc đầu tiên ba tôi làm khi lên đến Vị Xuyên là
thay đổi toàn bộ cách đánh trước đó. Không cho quân dàn hàng ngang đấu
tay đôi với Trung Quốc nữa, ông yêu cầu bộ đội quay trở về chiến thuật
thời Điện Biên Phủ.
“Ông lệnh cho bộ đội đào hầm để tránh pháo kích của địch; đào hào sát
đến tận công sự địch, sử dụng tất cả các hang hốc để bố trí lực lượng,
rồi tổ chức những nhóm nhỏ cấp trung đội, tiểu đội để tấn công bất ngờ.
“Thực tế là những tổn thất về con người từ đó đến năm 1985 cộng lại cũng không nặng nề bằng vài tuần đầu của chiến dịch.”
6. Về lý do Trung Quốc tiến đánh Việt Nam, Thiếu Tướng Lê Văn Cương,
nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược của Bộ Công an nói với Báo Nghệ An:
“Khi nghiên cứu lịch sử Trung Quốc và chính sách ngoại giao của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, tôi thấy rằng có 2 lý do, mà những người lãnh đạo
Trung Quốc đã phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày 17/2/1979:
Nguyên nhân chủ yếu nhất, trực tiếp nhất, đó là Việt Nam đã tiêu diệt
Khmer đỏ, cứu dân tộc Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng, mà Khmer đỏ là
“con đẻ” của Trung Quốc…
“Nguyên nhân thứ hai, cũng hết sức quan trọng, đó là Trung Quốc phát
động chiến tranh xâm lược Việt Nam để tỏ lòng trung thành của Trung Quốc
đối với Mỹ. Xin nhắc lại một sự kiện, đầu tháng Giêng năm 1979, trước
khi phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam, ông Đặng Tiểu Bình với tư
cách là nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc đã sang Mỹ. Trong phòng Bầu
dục Nhà Trắng, trước mặt Tổng thống Mỹ Carter, ông Đặng Tiểu Bình đã nói
với Tổng thống Mỹ rằng: “Trung Quốc nhận làm trách nhiệm NATO phương
Đông, đề nghị Hoa Kỳ hợp tác chặt chẽ với Trung Quốc, để đánh bại đại bá
Nga-Xô và tiểu bá Việt Nam”.
Tướng Cương cũng nói việc gọi cuộc chiến do Trung Quốc gây ra là
“xung đột biên giới” là “nguỵ biện, lừa dối” vì đó là cuộc chiến tranh
xâm lược. Ông cũng nói trong khi Việt Nam nói giảm đi về cuộc chiến này
thì phía Trung Quốc lại tuyên truyền mạnh mẽ và sai trái về nó:
“40 năm nay, theo thống kê chưa đầy đủ, đã có gần 1 triệu bài báo trên báo chí Trung Quốc vu cáo Việt Nam xâm lược Trung Quốc, Trung Quốc chỉ phản ứng tự vệ.
Mãi đến năm 2010 vẫn còn 90% người Trung Quốc tin rằng, ngày
17/2/1979, Quân đội nhân dân Việt Nam xâm lược Trung Quốc. Đấy là một sự
lừa dối lố bịch, trắng trợn của Trung Quốc về cuộc chiến tranh này!”
Nhưng Tướng Thước và các vị tướng khác của Việt Nam không nhắc tới
vấn đề “nạn kiều” trong những năm cuối thập niên 1970 khi hàng vạn người
Trung Quốc bị buộc phải rời khỏi Việt Nam ngay cả những người chưa bao
giờ sống ở Trung Quốc và thậm chí cũng không biết luôn tiếng Trung. Họ
cũng không nhắc tới việc Trung Quốc cáo buộc Việt Nam “vô ơn” khi nhận
viện trợ lên tới hàng chục tỷ đô la Mỹ của Bắc Kinh để tiến hành chiến
tranh chống Pháp và sau này là chống Hoa Kỳ và quân đội Việt Nam Cộng
hoà.
7. Cuộc chiến mà Khmer Đỏ tiến hành chống Việt Nam ở biên giới tây
nam và cuộc chiến do Đặng Tiểu Bình phát động ở biên giới phía bắc thực
ra chỉ là một theo những gì Trung Tướng Nguyễn Quốc thước viết cho trang Giáo Dục Việt Nam:
“Trực tiếp tham gia chiến đấu chống tập đoàn phản động, diệt chủng
Pol Pot -Ieng Sary ngay từ đầu, lúc đó chúng tôi vẫn nghĩ, kẻ gây ra
cuộc chiến trên biên giới Tây Nam và nuôi dã tâm đánh thẳng tới thành
phố Sài Gòn chỉ là của nhóm Khmer Đỏ cực đoan, nhưng có thế lực bên
ngoài tiếp sức,” Tướng Thước viết.
“Khi ấy còn đang chiến đấu ở chiến trường Tây Nam, chúng tôi chỉ hiểu thế thôi.
Nhưng đến lúc Trung Quốc thực hiện tuyên bố "dạy cho Việt Nam một bài
học", thì chúng tôi mới hiểu ra rằng, hai cuộc tấn công Việt Nam trên
hai mặt trận, biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, là cùng một kịch
bản…”
Ông viết tiếp: “Đánh trả quân Pol Pot, lúc qua Campuchia truy kích
Khmer Đỏ theo lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước
Campuchia, chúng tôi mới thấy, không biết Khmer Đỏ lấy đâu ra nhiều vũ
khí hạng nặng đến thế.
“Xe tăng của chúng đông, pháo binh của chúng đông, phòng [không] của
chúng đông, đạn dược của chúng nhiều, chúng có hàng nghìn xe quân sự.
Khmer Đỏ lấy đâu ra?
Đánh xong mới thấy pháo của Trung Quốc, xe tăng T-59 của Trung Quốc,
pháo cao xạ 2 nòng của Trung Quốc và xe Hồng Hà của Trung Quốc tràn
ngập. Lúc ấy, chúng tôi mới càng thấy rằng lãnh đạo Trung Quốc khi đó đã
mượn tay Pol Pot để thực hiện một âm mưu khác với Việt Nam trên hướng
biên giới Tây Nam.
“Đến ngày 17 tháng Hai năm 1979, Trung Quốc đã cất quân tiến đánh
toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam. Thời điểm đó, có 4 quân đoàn chủ
lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam thì 3 quân đoàn đang phải đối phó
với tập đoàn diệt chủng Pol Pot - Ieng Sary; Miền Bắc chỉ còn Quân đoàn 1
chủ yếu là các đơn vị dự bị làm nhiệm vụ phòng thủ, nhưng là đề phòng
với Mỹ chứ không phải Trung Quốc.”
8. “[C]ần gác lại quá khứ nhưng không lãng quên quá khứ” cũng là điều mà Tướng Nguyễn Quốc Thước nêu ra. Ông viết:
“Không thể có hòa bình hữu nghị lâu dài, tin cậy lẫn nhau một khi
Trung Quốc vẫn đánh tráo bản chất cuộc chiến tranh tấn công toàn tuyến
biên giới Việt Nam thành cái gọi là "phản kích tự vệ" như cách họ tuyên
truyền cho người dân nước này.
“Quyết định tiến hành hai cuộc chiến chống Việt Nam trên 2 hướng biên
giới là của một nhóm lãnh đạo cực đoan trong Đảng Cộng sản Trung Quốc
thời điểm bấy giờ, chứ không phải mong muốn hay ý chí của nhân dân Trung
Quốc…
Tướng Thước nhận định: “Kỷ niệm 40 năm sự kiện này, chúng tôi cho
rằng cả Trung Quốc và Việt Nam đều nên nghiêm túc rút ra bài học.. Tổn
thất về con người và vật chất cả hai bên đều có, nhưng cuộc chiến tranh
phi nghĩa này tổn hại đến chính uy tín và hình ảnh của Trung Quốc trên
thế giới. Trung Quốc nên nhìn thẳng vào vấn đề này, để tránh lặp lại vết
xe đổ mà một nhóm lãnh đạo của họ từng gây ra.
“Ai gây ra chiến tranh, kẻ đó phải biết rút kinh nghiệm, bởi trạng
chết, chúa cũng băng hà! Chúng tôi cần nhấn mạnh rằng, bảo vệ hòa bình,
hợp tác và hữu nghị là mong muốn, nguyện vọng chung của nhân dân hai
nước Việt Nam và Trung Quốc, rút bài học để tránh chiến tranh không có
nghĩa là cầu hòa.”
9. Nhìn lại lịch sử để có ngày “sẽ lấy lại Hoàng Sa” và cả một phần
đảo Trường Sa mà Trung Quốc đang giữ là điều mà Tướng Thước nói tới trong một bài viết khác cũng cho Giáo Dục Việt Nam.
Ông viết: “Những tranh chấp do lịch sử để lại, ví dụ Trung Quốc thôn
tính nốt quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và gây ra cuộc thảm sát Gạc Ma năm
1988 để thôn tính một phần quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền hợp pháp
của Việt Nam, sẽ từng bước phải tìm cách giải quyết bằng biện pháp hòa
bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.
“Cục diện Biển Đông ngày nay liên quan mật thiết và là diễn biến tiếp
theo của Chiến tranh Lạnh, là địa bàn cạnh tranh chiến lược chuyển từ
mâu thuẫn ý thức hệ Hoa Kỳ - Liên Xô sang tranh giành vị thế siêu cường
số 1 giữa Mỹ và Trung Quốc…
“Nếu như năm 1974 Trung Quốc đánh chiếm nốt nửa phía Tây quần đảo
Hoàng Sa vì cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc đang
bước vào giai đoạn nước rút, thì cuộc thảm sát, thôn tính Gạc Ma và 5
cấu trúc địa lý ở Trường Sa tháng Ba năm 1988 diễn ra trong bối cảnh
Việt Nam bị bao vây cấm vận, chiến tranh tàn phá, kinh tế kiệt quệ.
“Ngay cả Hoa Kỳ là đồng minh của Việt Nam Cộng hòa cũng nhắm mắt làm
ngơ cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Liên Xô là đồng minh của chúng ta, có
lực lượng quân sự đóng tại Cam Ranh thời điểm 1988 cũng không thể giúp
gì trong sự kiện Trung Quốc chiếm Gạc Ma, vì bản thân họ phải tính đến
lợi ích của mình trước.”
Ông Thước còn viết: “Trong lịch sử quan hệ giữa Việt Nam và Trung
Quốc, cha ông ta đã từng đàm phán thành công khiến triều đình nhà Tống ở
Trung Quốc trả lại phần đất đai họ xâm chiếm của Đại Việt thời Hoàng đế
Lý Nhân Tông.
“Cha ông ta đòi được phần lãnh thổ đã mất là nhờ tài bang giao khéo
léo của những người được triều đình phó thác trọng trách. Nhưng nền tảng
cho thắng lợi ấy phải là thế và lực của một đất nước hòa bình, thịnh
trị, chứ không phải một quốc gia nhược tiểu. Biết rằng Hoàng Sa, một
phần Trường Sa là máu thịt của Tổ quốc Việt Nam đang nằm trong tay Trung
Quốc và một số nước khác, con cháu đời đời không quên nghĩa vụ phải lấy
lại, nhưng không phải là lúc này, càng không phải bằng vũ lực.”
10. Những tội ác chiến tranh của quân đội Trung Quốc cũng được nêu lại trong đợt kỷ niệm 40 năm này. Trang tin của Đài Tiếng nói Việt Nam
nói “không ai quên được tội ác thảm sát, giết chết 43 phụ nữ và trẻ em
tại Tổng Chúp” thuộc tỉnh Cao Bằng. Video được đăng tải nói về cuộc
“thảm sát man rợ” trong đó lính Trung Quốc dùng “cọc tre, búa bổ củi đập
chết 43 phụ nữ và trẻ em”.
Ông Nông Thanh Quế, nguyên chủ tịch Hội nhà báo Cao Bằng được dẫn lời
nói: “Tại sao lại toàn nữ và trẻ em? Vì đấy là nhà trẻ của công ty
giống, thức ăn gia súc của tỉnh Cao Bằng. Công ty ấy là trẻ con chạy
chậm quá và cái ý đồ sơ tán của mình có nhưng chắc là bên công ty chưa
chuẩn bị kịp. Phương tiện không có nên đi bộ thôi nên xảy ra chuyện trên
đường đi bị quân Trung Quốc vây, dồn vào khu tập thể. Nhiều bà mẹ còn
chưa đến đón con kịp.
Đài Tiếng nói Việt Nam cũng dẫn lời bà Nông Thị Kim Chung, người nhà
của một trong các nhạn nhân nói: “Lên nhận xác, mẹ tôi có mái tóc dài…
mới nhận dạng được. Còn một đứa em gái, tám tháng tuổi, vẫn địu trên
lưng, bị nó đập vào đầu, đầu bị lõm một vệt trên đỉnh đầu.”
Những sự kiện được nhắc lại trong đợt kỷ niệm 40 năm Cuộc chiến Việt –
Trung cũng lại làm một số người nhắc lại diễn biến Mậu Thân 1968 khi
lực lượng cộng sản Bắc Việt tiến hành chiến tranh vào dịp Tết và cũng bị
cáo buộc gây ra những cuộc “thảm sát” người dân của chính mình.
Mặc dù báo chí Việt Nam được cởi trói trong dịp kỷ niệm hiện nay,
người ta chỉ có thể hy vọng sự thật lịch sử sẽ thực sự được tôn trọng
khi không còn hệ thống đèn xanh, đèn đỏ trong lĩnh vực xuất bản ở Việt
Nam. Hơn nữa sự cởi trói cũng không phải là toàn diện và các hoạt động
tưởng niệm của người dân trong dịp này đều bị ngăn chặn một cách thô
thiển. Người ta đã cho cẩu đi lư hương ở tượng đài Trần Hưng Đạo thuộc
thành phố Hồ Chí Minh để người dân không thể thắp hương tưởng nhớ hàng
vạn người thiệt mạng. Cách hành xử này cho thấy tư duy của nhiều lãnh
đạo Việt Nam còn ở tầm của Thế kỷ 19 chứ không phải ở Thế kỷ 21.
VOA