Cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược đã rất đẫm máu, suýt còn đẫm máu hơn! (FB Hồ Bất Khuất)
Chiến tranh không bao giờ là trò đùa vì thế không thể giao phó chuyện chiến tranh cho những cái đầu nóng và giới quân sự. Các chính trị gia phải là người quyết định chiến tranh và các giải pháp ngoại giao luôn phải là lựa chọn được ưu tiên. Chiến tranh chỉ là biện pháp cuối cùng khi mọi giải pháp ngoại giao đã thất bại. Việc tấn công vào các căn cứ quân sự (chứ không phải các khu dân cư) nằm ở các thành phố TQ gần biên giới với VN không có gì là sai khi chiến tranh xảy ra tuy nhiên phải cho phía TQ thấy trước được điều đó để họ cân nhắc trước khi tấn công VN chứ không phải để đến lúc chiến tranh xảy ra rồi mới nghĩ đến. Cách tốt nhất để bảo vệ hòa bình là chuẩn bị thật tốt cho chiến tranh.
Kỷ niệm 10 năm cuộc chiến vệ quốc 1979, tôi được cử lên Lạng Sơn 1
tháng. Ở đó tôi nghe được những câu chuyện mà báo chí chưa bao giờ viết.
Xin kể lại để chúng ta biết và suy ngẫm.
Tháng 12/1988, tôi được báo là chuẩn bị đi công tác Lạng Sơn. Trước
ngày lên đường, lại được báo là cần gặp ông Đinh Nho Liêm – Ủy viên
trung ương Đảng, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao.
Tôi đến nhà ông ấy ở số 3 Cao Bá Quát (Ba Đình, Hà Nội). Nhìn thấy
tôi, ông Đinh Nho Liêm thất vọng (hay ít ra cũng không hài lòng) nhưng
rồi ông vẫn mời tôi vào nhà. Khi đã ngồi xuống ghế, ông Đinh Nho Liêm
hỏi tôi: “Cậu làm việc ở Tạp chí Cộng sản được bao lâu rồi?”/ “Dạ, 6 năm
ạ.”/ “Học ở đâu ra?”/ “Ở Liên Xô về ạ”/ “Quê ở đâu?”/ “ Quỳnh Lưu, Nghệ
An ạ”…
Sau khi “hỏi ngắn, đáp gọn” như vậy, ông Đinh Nho Liêm có vẻ vui tươi
hơn một chút nhưng lại hỏi rất nghiêm trang: “Cậu biết rõ nhiệm vụ đi
Lạng Sơn của mình lần này rồi chứ?”/ “Dạ, việc của nhà báo thì chỉ viết
thôi chứ còn làm gì nữa ạ?!”/ “Đúng là viết nhưng không phải viết bình
thường, mà cậu chắp bút cho Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn La Thăng (1922
-2014) một để bài kỷ niệm 10 năm chiến tranh biên giới với Trung Quốc để
đăng vào số tháng 2/1989 của Tạp chí Cộng sản. Tinh thần là kỷ niệm 10
năm cuộc chiến đẫm máu nhưng không phải gây thù hận, mà là bắt tay giảng
hòa. Chắc cậu hiểu rõ ý nghĩa của việc này rồi…”.
Sau đó, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Đinh Nho Liêm nói về sự cần
thiết phải bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc; sự lắt léo, khó
khăn, phức tạp của việc này. Tôi ngồi nghe chăm chú nhưng chưa hình dung
được mình sẽ viết ra sao, mặc dù việc chắp bút (viết cho người khác
đứng tên) tôi cũng đã làm khá nhiều.
Đoàn công tác của Tạp chí Cộng sản do Vụ trưởng Vụ Quốc tế Nguyễn
Trọng Thụ dẫn đầu được Tỉnh ủy Lạng Sơn tiếp đón rất trọng thị. Bí thư
La Thăng tin tưởng là sắp tới, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ có
bước chuyển biến tích cực. Sau 5 ngày, đoàn trở về Hà Nội, riêng tôi ở
lại. Nhiệm vụ của tôi là trong một tháng phải viết xong bài báo dài cỡ 3
– 4 ngàn chữ để kỷ niệm 10 năm cuộc chiến với Trung Quốc trên biên giới
phía Bắc với tinh thần hòa giải.
Để nắm được tình hình cuộc chiến 10 năm về trước, tôi được tiếp cận
với mọi tài liệu mật, được lên các đồn biên phòng, được hỏi Bí thư La
Thăng. Tuy nhiên, người luôn luôn trò chuyện với tôi, cung cấp nhiều
thông tin và nhiều nhận định có giá trị là ông Trần Rỹ – Trưởng Ban
Tuyên huấn (ngày đó chưa gọi là Tuyên giáo) Tỉnh ủy Lạng Sơn. Ông Trần
Rỹ người Hà Tây, trong chiến tranh biên giới 10 năm về trước, ông mang
quân hàm đại tá và giữ chức Phó Tư lệnh mặt trận Lạng Sơn.
Sau khi bài báo đã được hình thành, chỉ chờ Ban thường vụ Tỉnh ủy có ý
kiến, Bí thư chỉnh sửa nữa là xong; ông Trần Rỹ nói với tôi: “Tớ kể
chuyện này cho cậu, nghe để biết thôi chứ không phải để viết báo đâu
nhé!”. Tôi hứa với ông là sẽ không viết báo về chuyện này trong thời
gian sắp tới. Nếu chúng ta có luật giải mật, chuyện ông Rỹ kể chắc cũng
được giải mật rồi. Hơn nữa, đây không phải là viết báo, mà chỉ viết trên
facebook – “nhà” của tôi.
Theo ông Trần Rỹ, khi chiến tranh xẩy ra, trên mặt trận Lạng Sơn,
phía ta có khoảng 50.000 quân, kể cả bộ đội địa phương. Trung Quốc dồn
vào hướng Lạng Sơn tới 180.000 quân. Vì vậy, dù chiến đấu rất dũng cảm
nhưng quân ta vẫn phải vừa đánh, vừa rút lui và chịu tổn thất khá nặng.
Trước tình thế khó khăn, ngày 24/2/1979, Quân khu I quyết định thành lập
Mặt Trận Lạng Sơn do Thiếu tướng Hoàng Đan làm Tư lệnh. Ông từ Hà Nội
lên nhận nhiệm vụ và ra chiến trường khảo sát ngay. Không may, chiếc xe
bọc thép ông đi bị trúng đạn, nổ tung. Tất cả những người trong xe đều
hi sinh, riêng ông Hoàng Đan không hề hấn gì. Tuy nhiên, ông biết rằng
quân ta sẽ không thể giữ được thị xã Lạng Sơn. Đồng Bành (cách thị xã
Lạng Sơn khoảng 18 km) được chọn làm “Đại bản doanh” của quân ta để củng
cố lực lượng và chờ cơ hội phản công.
Đúng như nhận định của Thiếu tướng Hoàng Đan, ngày 3/3/1979, quân
Trung Quốc chiếm được Lạng Sơn. Ngay trong đêm hôm đó, Tổng Bí thư Lê
Duẩn có mặt ở Đồng Bành, ông tỏ ra rất tức giận vì mất Lạng Sơn, đến nỗi
ông văng tục: “Các cậu đánh đấm như con c.., mất mẹ nó Lạng Sơn!”. Ông
họp với Bộ Tư lệnh Mặt trận Lạng Sơn và đưa ra một quyết định ghê gớm: Phải san phẳng thành phố Bằng Tường để trả đũa việc Trung Quốc chiếm thị xã Lạng Sơn.
Lúc này, với sự trợ giúp về vận tải của Liên Xô, quân chính quy của
chúng ta đã có mặt ở Bắc Giang với nhiều vũ khí, khí tài hiện đại. Thực
hiện chỉ đạo của Tổng bí thư Lê Duẩn, dưới sự chỉ huy của Tướng Hoàng
Đan, chỉ trong một thời gian ngắn (chủ yếu là đêm ngày 4/3/1979), ta đã
đưa vào vị trí chiến đấu hàng chục dàn hỏa tiễn “Cachiusa”. Đây là loại
vũ khí nhiều nòng có thể bắn hàng loạt đạn tới thành phố Bằng Tường của
Trung Quốc; chỉ còn chờ lệnh khai hỏa là thành phố này bị xóa sổ. Tướng
Hoàng Đan là người chủ trương “đánh cho Trung Quốc hiểu rằng, họ sẽ phải
trả giá không chịu đựng nổi” nên chuyện ta phản công mạnh mẽ là điều
không tránh khỏi. (Nghe đến đây, tôi dựng tóc gáy vì năm 1976, tôi qua
lại thành phố Bằng Tường 3 lần và biết đây là thành phố xinh đẹp, đông
dân, có đường sắt hữu nghị Hà Nội – Bắc Kinh chạy qua. Nếu ta sang bằng
thành phố này, Trung Quốc sẽ không ngồi im. Và thế là cuộc chiến tranh
càng đẫm máu thêm).
Nhưng sáng ngày 5/3/1979, Trung Quốc bất ngờ tuyên bố rút quân. Nhận
được tin này, Bộ Tư lệnh Mặt trận Lạng Sơn hội ý và thảo luận là có phản
công và “san phẳng” thành phố Bằng Tường nữa hay không? Tất cả nhất trí
là phải hỏi ý kiến Tổng bí thư Lê Duẩn vì chính ông ra lệnh san phẳng
Bằng Tường để trả đũa việc Trung Quốc chiếm và tàn phá thị xã Lạng Sơn.
Dù là người chủ trương “san phẳng” Bằng Tường nhưng khi Trung Quốc tuyên
bố rút quân, ông Lê Duẩn cũng nguôi giận và cho rằng, không cần phải đổ
máu thêm nữa.
Tướng Hoàng Đan tuy tiếc công đã đưa được vũ khí, khí tài vào vị trí
chiến đấu rồi nhưng vẫn đồng tình với chủ trương không phản công, không
truy kích khi Trung Quốc rút quân.
Nếu Trung Quốc không tuyên bố rút quân vào ngày 5/3/1979 thì trên mặt trận Lạng Sơn chắc chắn hai bên sẽ còn mất nhiều sinh mạng hơn nữa, thù hận sẽ còn sâu sắc hơn nữa. Nay, kỷ niệm 40 năm cuộc chiến đẫm máu với người láng giềng Trung Quốc, tôi kể lại chuyện được nghe để thấy chúng ta không hề sợ Trung Quốc, dù họ đông, họ mạnh hơn.