Thảm họa đó là chiến tranh Việt Nam (Mark Atwood Lawrence)


Cuốn sách cũng chỉ trích gay gắt những người miền Nam Việt Nam. Từ chối quan điểm học thuật kinh viện gần đây (nguyên văn : "recent scholarship") cho rằng các nhà lãnh đạo ở Sài Gòn có thể có tính hợp pháp hơn như thường vẫn được cho là như vậy, Hastings chỉ trích thậm tệ họ như những kẻ độc tài, chuyên quyền tham nhũng dựa dẫm, phụ thuộc vào Hoa Kỳ và không quan tâm gì đến đến an sinh phúc lợi của người dân. Một ví dụ, Nguyễn Cao Kỳ là người "xa lạ như một người sao Hỏa" trong chính đất nước mà phần lớn là nông dân của mình, khi ông này làm thủ tướng từ năm 1965 đến năm 1967. Đối với giới quân sự miền Nam Việt Nam, Hastings bày tỏ thiện cảm với những người lính bình thường và thừa nhận rằng đôi khi họ đã chiến đấu tốt. Nhưng ông chỉ trích phần lớn các sĩ quan của họ như những kẻ bất tài nhưng lại ham hố danh vọng, không đoái hoài gì đến những gian khổ, ác liệt mà các binh sỹ của họ phải đối mặt. (Mark Atwood Lawrence) 
"Việt Nam : Một bi kịch mang tính sử thi, 1945-1975" – một tác phẩm hoành tráng của Max Hastings về chiến tranh Việt Nam - 2018. 



Thẳm sâu bên trong cuốn sách "Việt Nam : Một bi kịch mang tính sử thi, 1945-1975" – một tác phẩm hoành tráng của Max Hastings - là một câu chuyện nhỏ nhưng đã tóm tắt được cốt lõi của cuốn sách.

Hastings kể lại, vào năm 1964, khi cuộc chiến nóng lên, các cán binh Việt Cộng đã tích cực vũ trang cho một số lượng ngày càng gia tăng mạnh mẽ những người nông dân miền Nam Việt Nam thành một lực lượng du kích chiến đấu nhằm lật đổ chính phủ Sài Gòn được Hoa Kỳ hậu thuẫn. Đối với nhiều người lính quân dịch trẻ tuổi, đó là một trải nghiệm tan nát tâm hồn, cũng đáng ghét như sự cưỡng bức nhập ngũ vào quân đội của chính phủ, mà đáng ra những người tuyển dụng của họ phải nếm trải trước nhất. Cha đẻ của một người bị cưỡng bức vào lính đã lên án những người cộng sản rằng "Các ông luôn luôn lên án những phần tử theo chủ nghĩa đế quốc, nhưng các ông thậm chí còn tồi tệ hơn (những phần tử theo chủ nghĩa đế quốc). Tôi muốn con trai tôi trở về".
Hastings nhìn nhận cuộc chiến tranh Việt Nam theo cách nhìn tương tự như cách nhìn của những người dân nông thôn đang đau khổ. Theo lời kể của ông, đó là một cuộc xung đột không có những người tốt, một cuộc xung đột kinh hoàng mà trong đó sự tàn bạo, sự bất chấp đạo lý và sự bất tài của Hoa Kỳ và đồng minh Nam Việt Nam không thua kém gì sự tàn bạo, gian hiểm của những kẻ thù của họ khiến cho số đông bất hạnh dân chúng Việt Nam phải gánh chịu những hậu quả. "Nếu giới lãnh đạo Mỹ trong cuộc chiến tranh này thường phô trương sự vô nhân đạo của mình, thì Bắc Việt Nam cũng không thua kém gì trên phương diện tàn bạo", Hast Hastings khẳng định như vậy.
Cuốn sách cho thấy một cách tư duy phiền muộn nhưng mới mẻ một cách đáng ngạc nhiên và phần lớn là có tính thuyết phục về cuộc chiến này. Hastings cũng chỉ ra rằng các nhà sử học quá thường xuyên nhìn nhận cuộc chiến này như một trò chơi đạo đức khi đưa các lực lượng công lý nhập cuộc chống lại các lực lượng đàn áp. Đôi khi các nhà cách mạng - những người dường như có chính nghĩa (nguyên văn : "wear the white hats") - trong khi họ đấu tranh để lật đổ một chế độ Nam Việt Nam thối nát và giải phóng dân tộc của họ khỏi những tên xâm lược Mỹ - họ đã cố gắng bảo vệ vận mệnh của mình (nguyên văn : "bent on controlling its destiny"). Theo những cách nhìn nhận khác thì Sài Gòn và đối tác của mình ở Washington đã dũng cảm bảo vệ một miền Nam Việt Nam còn có những khiếm khuyết nhưng có tư tưởng dân chủ khỏi các lực lượng cộng sản vốn quyết tâm tuân theo ách chuyên chế của Stalin.
Hastings gần như không phải là người đầu tiên đề xuất một cái gì đó phức tạp hơn. Bất chấp xu hướng mạnh mẽ nhất trong số các nhà viết sử có khuynh hướng miêu tả (cuộc chiến tranh) trong một gam màu xám xịt - loạt phim truyền hình nhiều tập phát trên mạng phát thanh truyền hình công cộng của nhà làm phim Ken Burns gần đây về cuộc chiến này là một ví dụ nổi bật (nguyên văn : "the filmmaker Ken Burns’s recent PBS series") - đã gán cho các bên tham chiến một tinh thần chiến đấu chân thành với các nguyên tắc thiêng liêng (nguyên văn : "that made sense to them") đối với họ. Hastings đã đi theo một đường hướng đen tối hơn, tức là tìm kiếm một sự tương đương về mức độ tàn bạo không phải ở tính chính nghĩa (nguyên văn : "the validity") của các mục đích mà vì nó mà các đối thủ đã giao chiến với nhau mà là ở sự vô cảm của họ đối với sự hủy diệt khủng khiếp mà họ đã tạo ra.
Với tư cách là một nhà báo và nhà sử học quân sự người Anh đã từng đưa tin nhiều, viết nhiều về cuộc chiến tranh này, Hastings đã cáo buộc Hoa Kỳ với một niềm đam mê và với những lời bình luận đầy châm chọc hấp dẫn, nhưng chủ yếu là để củng cố các phê phán đã cũ. Mặc dù các lực lượng Mỹ thường chiến đấu hiệu quả trên chiến trường, nhưng Hastings khẳng định, những thành công đó tỏ ra không liên quan vì người Mỹ đã thất bại trong nhiệm vụ quan trọng và tinh tế hơn nhiều là vun trồng, kiến tạo một nhà nước ở miền Nam Việt Nam có khả năng gây dựng được lòng trung thành của chính người dân (đối với chế độ Việt Nam Cộng Hòa). Theo Hastings thì việc này giống với việc Hoa Kỳ đã sử dụng "súng phun lửa để dọn sạch cỏ ở bức dậu hoa (lũy hoa)" (nguyên văn : It was as if the United States used "a flamethrower to weed a flower border").
Thông qua các miêu tả sống động về cuộc chiến và những thống khổ, Hastings cho thấy guồng máy chiến tranh của Mỹ đã tàn phá cái xã hội mà nó dự định bảo vệ, trong khi sử dụng một sức mạnh chiến tranh khổng lồ, một sức mạnh mà đã làm suy sụp tinh thần của người dân miền Nam Việt Nam hơn là đánh bại các lực lượng Cộng sản. Sức mạnh tàn phá khủng khiếp cũng đã làm tổn thương những nỗ lực chiến tranh trong sự nhìn nhận của công chúng Mỹ và quốc tế, những người mà, như Hastings đã viết, sẵn sàng ủng hộ cuộc chiến "chỉ khi có một tương quan nào đó giữa các lực lượng tham chiến, các thương vong dân sự đã xảy ra và mục tiêu nhắm tới".
Hastings cũng có ý tìm kiếm một số lượng nào đó các nhà lãnh đạo dân sự và quân sự Mỹ đã phạm phải những lỗi lầm và những hành động sai trái, nhưng ông đã dành những lời chỉ trích đặc biệt cay độc cho Tổng thống Richard Nixon và trợ lý chính sách đối ngoại hàng đầu của ông là Henry Kissinger. Mặc dù cả hai người này đều hiểu rằng Hoa Kỳ không còn có thể đạt được mục đích tại Việt Nam sau năm 1968, nhưng như Hastings lập luận, các tính toán chính trị đã khiến họ phải tiếp tục cuộc chiến thêm bốn năm nữa, với cái giá phải trả là 21.000 sinh mạng Mỹ, và chỉ vào năm 1973 cả hai mới đồng ý với một thỏa thuận hòa bình mà họ biết là không có cơ hội để thực thi (nguyên văn : "a peace deal that they knew had no chance of sticking" – ý nói trước sau rồi cũng sẽ bị Hà Nội xé toạc – người dịch).
Cuốn sách cũng chỉ trích gay gắt những người miền Nam Việt Nam. Từ chối quan điểm học thuật kinh viện gần đây (nguyên văn : "recent scholarship") cho rằng các nhà lãnh đạo ở Sài Gòn có thể có tính hợp pháp hơn như thường vẫn được cho là như vậy, Hastings chỉ trích thậm tệ họ như những kẻ độc tài, chuyên quyền tham nhũng dựa dẫm, phụ thuộc vào Hoa Kỳ và không quan tâm gì đến đến an sinh phúc lợi của người dân. Một ví dụ, Nguyễn Cao Kỳ là người "xa lạ như một người sao Hỏa" trong chính đất nước mà phần lớn là nông dân của mình, khi ông này làm thủ tướng từ năm 1965 đến năm 1967. Đối với giới quân sự miền Nam Việt Nam, Hastings bày tỏ thiện cảm với những người lính bình thường và thừa nhận rằng đôi khi họ đã chiến đấu tốt. Nhưng ông chỉ trích phần lớn các sĩ quan của họ như những kẻ bất tài nhưng lại ham hố danh vọng, không đoái hoài gì đến những gian khổ, ác liệt mà các binh sỹ của họ phải đối mặt.
Đồng thời, Hastings cũng đưa ra một sự phán xét nặng nề nhất đối với cộng sản Bắc Việt. Trích dẫn những tài liệu mới từ Việt Nam và từ những nghiên cứu gần đây về việc ra các quyết định của Hà Nội, ông lên án những đối thủ của Mỹ như những người có ý thức hệ tàn nhẫn sẵn sàng đổ bất kỳ một lượng máu nào để chinh phục miền Nam. Hồ Chí Minh, thường được lãng mạn hóa như một người theo chủ nghĩa dân tộc hòa nhã, trên thực tế là một kẻ chuyên quyền tàn nhẫn, kẻ đã gây ra biết bao tội ác mang tính hệ thống đối với những người dân của chính ông ta (nguyên văn : "systemic cruelties" on his people). Tệ hơn nữa là Lê Duẩn, một người nhiệt thành ít được biết đến, người mà đã thay thế ông Hồ vào đầu những năm 1960 với tư cách là lãnh chúa Bắc Việt (nguyên văn : "as North Vietnam’s chief warlord"). và đã sẵn sàng chấp nhận cả "núi xương sống máu của chính nhân dân mình" (nguyên văn : "climbed a "mountain of his people’s corpses") để đạt tới thắng lợi cuối cùng trong cuộc chiến với miền Nam Việt Nam trong năm 1975.
Chiến thắng này đã chấm dứt ba thập kỷ chiến tranh nhưng cũng mang đến những làn sóng mới của sự đàn áp và thiếu thốn cho người Việt Nam. Hàng trăm ngàn người đã phải thi hành những bản án mà trật tự mới đã tuyên đối với họ, như Hastings đã ghi nhận, bằng cách mạo hiểm mạng sống của mình để chạy trốn, thường là trên những chiếc thuyền ọp ẹp. Những người ở lại, ông nói thêm, đã bộc lộ rõ ràng quan điểm của họ khi họ nhanh chóng chấp nhận phương Tây sau khi chế độ, trong khi đối mặt với những thất bại của ách cai trị sắt máu của nó, rốt cuộc, vào cuối những năm 1980, đã phải nới lỏng sự kìm kẹp của nó.
Khiếm khuyết chính trong tiêu điểm của Hastings về những thiệt hại sinh mạng trong cuộc chiến là xu hướng của ông trong việc đánh giá thấp các động cơ mà đã khiến cho các bên đối địch đi đến kết luận rằng cần phải tiến hành một cuộc chiến tranh. Kết quả là đôi khi đánh đồng những người ra quyết định với những tên vô lại tàn nhẫn và những kẻ đại loại như thế, và đánh đồng tất cả, cả binh lính và thường dân, với những nạn nhân. Ví dụ, về phía Mỹ, chúng ta biết rất ít về các tính toán địa chính trị mà đã khiến các tổng thống từ Harry Truman cho đến Richard Nixon xác định một cách vững chắc nhu cầu ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản ở Đông Nam Á. Hastings cũng không có nhiều điều để nói về chủ nghĩa chống cộng lan tràn đã khiến rất nhiều người Mỹ ủng hộ sự can thiệp.
Mặt khác, Hastings chỉ lướt qua bề mặt của những bất công kinh tế và xã hội, những bất công mà đã thúc đẩy cuộc nổi dậy chống lại chính quyền Nam Việt Nam và biến chủ nghĩa cộng sản thành một con đường đúng đắn, nếu không muốn nói là hết sức hấp dẫn, đối với sự phát triển của quốc gia. Một cách tự tin, Hastings thừa nhận rằng những người cộng sản đã "gắn kết với bản chất của xã hội nông thôn", thành công hơn so với chính quyền Sài Gòn trong việc xử lý những bất bình hàng ngày, những bất bình mà đã khiến gia tăng tình trạng bất ổn. Nhưng ông không xác định được tầm quan trọng của sự gắn kết mà ông quan sát được, thay vào đó ông lại nhấn mạnh việc Hà Nội phụ thuộc vào bạo lực, cưỡng bức và tuyên truyền để đạt được chiến thắng.
Đáng ra, Hastings đã có thể viết được một cuốn sách đầy đủ hơn bằng cách giải quyết những chủ đề này một cách chi tiết hơn. Trên thực tế, sự quan tâm sâu sắc hơn đến những ý tưởng lớn mà đã thúc đẩy mỗi bên (lao vào cuộc chiến) cần phải củng cố điểm chính yếu của mình bằng cách nhấn mạnh mức độ thiệt hại đã gây ra nhân danh những ý thức hệ đối nghịch nhau, những ý thức hệ phù hợp với nhu cầu của xã hội Việt Nam. Nhưng Hastings hầu như không sai khi đặt trọng tâm vào hậu quả hơn là vào động cơ. Trên thực tế, ông xứng đáng nhận được sự tín nhiệm to lớn vì đã giúp chúng ta, nửa thế kỷ sau đỉnh điểm của cuộc chiến, để nhìn nhận vượt thoát ra khỏi những lập luận cũ về việc phía nào là đúng, phía nào là sai. Những gì được nhìn rõ khi bức rèm được vén lên quả thật không lấy gì là đẹp đẽ lắm.
Mark Atwood Lawrence 
Nguyên tác : The Disaster That Was the Vietnam War, New York Times, 30/11/2018
Mai Hưng dịch
Nguồn : VNTB, 13/01/2019
Mark Atwood Lawrence giảng dạy lịch sử tại Đại học Texas ở Austin. Ông là tác giả của cuốn sách "Cuộc chiến tranh Việt Nam : Lược sử của một sự can dự quốc tế".