Giới thiệu tóm tắt sách “Tại sao các quốc gia thất bại” (Đoạn 3) (Nguyễn Đình Cống)
Nhiều
người đã bị kinh sợ bởi sự tăng trưởng Soviet trong các năm 1920, 30,
40, 50, 60, và thậm chí mãi đến các năm 1970, theo cùng cách mà chúng ta
bị mê hoặc bởi nhịp độ chóng mặt của sự tăng trưởng kinh tế ở Trung
Quốc hiện nay. Nhưng như chúng ta sẽ thảo luận chi tiết trong chương 15,
Trung Quốc dưới sự cai trị của Ðảng Cộng Sản là một thí dụ khác về xã
hội trải qua sự tăng trưởng dưới các thể chế chiếm đoạt và một cách
tương tự không chắc sẽ tạo ra sự tăng trưởng bền vững trừ phi nó trải
qua một sự biến đổi chính trị cơ bản theo hướng các thể chế chính trị
dung hợp.
Chương 4.- NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT
THẾ GIỚI DO DỊCH HẠCH GÂY RA
Vào khoảng năm 1346, bệnh dịch hạch giết chết khoảng nửa số dân ở
những nơi nó tràn qua, từ vùng Địa Trung hải, đến Bắc Phi, Pháp và Anh.
Thế nhưng thảm họa dịch hạch cũng đã có một tác động biến đổi về mặt xã
hội, kinh tế, và chính trị lên Âu châu trung cổ.
Vào thế kỷ thứ 14, châu Âu đã có một trật tự phong kiến Các nông dân,
bởi vì địa vị “nô lệ” của họ, đã được gọi là các nông nô, bị gắn liền
với đất, không có khả năng di chuyển đi nơi khác. Ðó đã là một hệ thống
mang tính chiếm đoạt hết sức cao, với của cải chảy từ nhiều nông dân lên
phía trên cho ít chúa đất.
Sự khan hiếm lao động nghiêm trọng do dịch hạch gây ra đã làm rung
chuyển nền tảng của trật tự phong kiến. Nó đã khuyến khích các nông dân
đòi thay đổi. Nông dân đã đòi giảm nhiều loại tiền phạt và việc làm
không được trả công. Họ đã nhận được cái họ muốn,
Các nông dân đã bắt đầu giải phóng mình khỏi lao dịch bắt buộc và
nhiều nghĩa vụ với các chúa đất của họ. Chính phủ đã thử chấm dứt việc
này và, vào năm 1351, đã thông qua Ðạo luật [về Những người] Lao động
(Statute of Laborers). Nỗ lực của nhà nước Anh để ngăn những sự thay đổi
đã không có hiệu lực. Dịch vụ lao động phong kiến teo dần đi, một thị
trường lao động dung hợp đã bắt đầu nổi lên ở nước Anh, và tiền công
tăng lên.
Các tác động trở nên đặc biệt rõ sau năm 1500, khi Tây Âu bắt đầu cần
đến những hàng hóa nông nghiệp được sản xuất ở Ðông Âu như lúa mỳ, lúa
mạch và gia súc. Khi nhu cầu của Tây Âu tăng, các chúa đất Ðông Âu đã
siết chặt thêm sự kiểm soát của họ đối với lực lượng lao động để mở rộng
cung. Nó đã được gọi là Chế độ Nông nô Thứ hai, khác biệt và hà khắc
hơn dạng gốc của nó ở đầu Thời Trung Cổ. Các nông nô phải chịu các quy
định này đã chiếm 90 phần trăm dân số nông thôn thời đó.
Tai họa dịch hạch là một thí dụ sinh động về bước ngoặt [critical
juncture], một sự kiện lớn hay sự hợp lưu của những yếu tố phá vỡ sự cân
bằng kinh tế hay chính trị hiện tồn trong xã hội. Một bước ngoặt là một
con dao hai lưỡi mà có thể gây ra một sự rẽ đột ngột trong quỹ đạo của
một quốc gia. Một mặt nó có thể mở đường cho sự phá vỡ chu trình của
những thể chế chiếm đoạt và cho phép những thể chế dung hợp hơn nổi lên,
như ở nước Anh. Hoặc nó có thể tăng cường sự nổi lên của những thể
chếchiếm đoạt, như trường hợp của Chế độ Nông nô Thứ hai ở Ðông Âu.
Việc hiểu lịch sử và các bước ngoặt định hình thế nào con đường của
các thể chế kinh tế và chính trị cho phép chúng ta có một lý thuyết đầy
đủ hơn về nguồn gốc của những sự khác biệt về sự nghèo khó và thịnh
vượng. Ngoài ra, nó cho phép chúng ta giải thích tình hình hiện nay và
vì sao một số quốc gia chuyển đổi sang các thể chế kinh tế và chính trị
dung hợp trong khi các quốc gia khác lại không.
TẠO RA CÁC THỂ CHẾ DUNG HỢP
Nước Anh đã là độc nhất giữa các quốc gia khi nó có sự đột phá sang
tăng trưởng kinh tế bền vững trong thế kỷ mười bảy. Những thay đổi kinh
tế lớn đã theo sau một cuộc cách mạng chính trị mà đã mang lại một tập
khác biệt của các thể chế kinh tế và chính trị, mang tính dung hợp hơn
rất nhiều so với các thể chế của xã hội trước. Cách mạng Vinh quang
(1688) đã hạn chế quyền lực của nhà vua và hành pháp, và đã chuyển quyền
lực cho Quốc hội để quyết định về các thể chế kinh tế. Ðồng thời nó đã
mở hệ thống chính trị cho phần bao quát tiêu biểu của xã hội, những
người đã có thể ảnh hưởng đáng kể đến cách nhà nước hoạt động. Cách mạng
Vinh quang đã là nền tảng cho việc tạo ra một xã hội đa nguyên, và nó
đã được xây dựng trên và làm tăng tốc một quá trình tập trung hóa chính
trị. Nó đã tạo ra tập hợp đầu tiên của các thể chế chính trị dung hợp
của thế giới. Những tiến bộ công nghệ, khát vọng của các doanh nghiệp để
mở rộng và đầu tư, và việc sử dụng hữu hiệu các kỹ năng và tài năng tất
cả đã trở nên có thể bởi các thể chế kinh tế dung hợp mà nước Anh đã
phát triển.
Nước Anh đã phát triển các thể chế chính trị dung hợp này bởi vì hai
yếu tố. Thứ nhất đã là các thể chế chính trị, kể cả một nhà nước được
tập trung hóa, mà đã cho phép nó tiến hành bước triệt để tiếp theo với
sự ập tới của Cách mạng Vinh quang. Quan trọng hơn là yếu tố thứ hai.
Các sự kiện dẫn tới Cách mạng Vinh quang đã rèn đúc một liên minh rộng
và hùng mạnh có khả năng đặt các ràng buộc lâu bền lên quyền lực của chế
độ quân chủ và hành pháp, mà đã buộc phải mở cho các đòi hỏi của liên
minh này. Việc này đặt nền móng cho các thể chế chính trị đa nguyên, mà
rồi đã cho phép phát triển các thể chế kinh tế mà sẽ làm nòng cốt cho
Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất.
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ MÀ QUAN TRỌNG
Bất bình đẳng thế giới đã tăng đột ngột đầy kịch tính
với Cách mạng Công nghiệp Anh. Các thể chế chính trị Anh đã trên con
đường của chúng đến chủ nghĩa đa nguyên lớn hơn rất nhiều vào năm 1688,
so với các thể chế ở Pháp và Tây Ban Nha. Các con đường phân kỳ của các
xã hội Anh, Pháp, và Tây Ban Nha trong thế kỷ mười bảy minh họa tầm quan
trọng của sự tác động qua lại của những sự khác biệt nhỏ về thể chế và
các bước ngoặt [critical junctures.
Trong thời gian bước ngoặt, một sự kiện lớn hay sự hợp lưu của các
yếu tố phá vỡ sự cân bằng hiện tồn của quyền lực chính trị hay kinh tế
trong một quốc gia. Những cái này có thể ảnh hưởng đến chỉ một quốc gia
duy nhất, thí dụ như cái chết của Mao Trạch Ðông năm 1976. Tuy vậy,
thường các bước ngoặt ảnh hưởng đến toàn bộ một tập các xã hội, theo
cách mà, thí dụ, sự thuộc địa hóa và sau đó là sự phi thuộc địa hóa đã
ảnh hưởng đến phần lớn địa cầu.
Khi một bước ngoặt xảy ra, những thay đổi nhỏ mà quan trọng là những
khác biệt thể chế ban đầu mà chúng khởi động những sự đáp lại rất khác
nhau. Ðấy là lý do vì sao những khác biệt thể chế tương đối nhỏ ở Anh,
Pháp, và Tây Ban Nha đã dẫn đến những con đường phát triển khác nhau một
cách cơ bản.
Nhưng đâu là nơi đầu tiên mà những khác biệt nhỏ về thể chế này xuất
hiện và khởi động quá trình phân kỳ? Vì sao Ðông Âu đã có các thể chế
chính trị và kinh tế khác với Tây Âu trong thế kỷ mười bốn? Vì sao sự
cân bằng quyền lực giữa Quốc vương và Quốc hội ở Anh lại khác Pháp và
Tây Ban Nha? Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, ngay cả các xã
hội ít phức tạp hơn xã hội hiện đại của chúng ta rất nhiều cũng tạo ra
các thể chế chính trị và kinh tế mà có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời
sống của các thành viên của nó.
Các hình mẫu phân kỳ phong phú về phát triển kinh tế xung quanh thế
giới phụ thuộc vào sự tác động qua lại của các bước ngoặt và sự trôi dạt
thể chế. Cái Chết Ðen và sự mở rộng thương mại thế giới sau 1600 đã là
hai bước ngoặt lớn cho các cường quốc Âu châu và đã tương tác với các
thể chế ban đầu khác nhau để tạo ra một sự phân kỳ lớn.
CON ĐƯỜNG TÙY THUỘC CỦA LỊCH SỬ
Những kết quả của các sự kiện trong các bước ngoặt được định hình bởi
sức nặng của lịch sử. Năm 1588 chẳng ai đã có thể thấy trước các hệ quả
của chiến thắng may mắn của Anh đánh bại hạm đội hùng hậu của Tây Ban
Nha. Chắc không ai hiểu được rằng việc này sẽ gây ra một bước ngoặt dẫn
đến một cách mạng chính trị lớn một thế kỷ sau.
Các bước ngoặt cũng có thể dẫn đến sự thay đổi lớn theo hướng các thể
chế chiếm đoạt hơn là theo hướng xa khỏi chúng. Cộng hòa Venice, như
chúng ta sẽ thấy ở chương 6, đã tiến hành những bước dài quan trọng theo
hướng các thể chế chính trị và kinh tế dung hợp trong thời trung cổ.
Nhưng trong khi các thể chế như vậy dần dần trở nên mạnh hơn ở nước Anh
sau Cách mạng Vinh quang năm 1688, thì ở Venice cuối cùng chúng đã biến
mình thành các thể chế chiếm đoạt dưới sự kiểm soát của một elite hẹp mà
đã độc quyền hóa cả các cơ hội kinh tế lẫn quyền lực chính trị.
HIỂU ĐỊA HÌNH ĐỊA THẾ
Sự nổi lên của một nền kinh tế thị trường dựa trên các thể chế dung
hợp và sự tăng trưởng kinh tế bền vững ở nước Anh thế kỷ mười tám đã
truyền đi các gợn sóng lăn tăn quanh thế giới. Một số phần của thế giới
đã phát triển các thể chế rất gần các thể chế ở nước Anh. Tây Âu, trải
qua nhiều quá trình lịch sử như nhau, đã có các thể chế giống của Anh
vào thời Cách mạng Công nghiệp. Phần còn lại của thế giới đã đi theo các
quỹ đạo thể chế khác nhau.
Châu Phi là phần của thế giới với các thể chế ít có khả năng nhất để
tận dụng các cơ hội do Cách mạng Công nghiệp tạo ra. Ở phần lớn châu Phi
các khoản lợi nhuận đáng kể là từ bán nô lệ
Tiến trình phát triển thể chế mà Nhật Bản đã vạch ra trong thế kỷ thứ
mười chín lần nữa lại minh họa sự tương tác giữa các bước ngoặt và
những khác biệt nhỏ do trôi dạt thể chế gây ra.
Chúng ta đã thấy, rằng các lý thuyết đựa vào địa lý, văn hóa, và sự
dốt nát đều không hữu ích cho việc giải thích địa hình địa thế [tình
hình] xung quanh chúng ta,
rằng quá trình phân kỳ kinh tế đã bắt đầu với Cách mạng Công nghiệp ở
nước Anh trong các thế kỷ thứ mười tám và mười chín, rồi sau đó lan ra
Tây Âu; sự phân kỳ dai dẳng giữa các phần khác nhau của châu Mỹ; sự
nghèo khó của châu Phi và Trung Ðông; sự phân kỳ giữa Ðông và Tây Âu; và
những sự chuyển đổi từ đình trệ sang tăng trưởng và đôi khi sự chấm dứt
đột ngột của những cú thúc tăng trưởng.
Chúng ta sẽ thấy bằng cách nào và vì sao các bước quyết định theo
hướng các thể chế chính trị dung hợp đã được đưa ra trong Cách mạng Vinh
quang ở nước Anh. Chúng ta sẽ xem cụ thể hơn các vấn đề sau đây:
– Các thể chế bao gồm nổi lên thế nào từ sự tác động qua lại của bước
ngoặt được tạo ra bởi thương mại Ðại Tây Dương và bản chất của các thể
chế Anh tồn tại trước đó.
– Bằng cách nào các thể chế này tồn tại dai dẳng và trở nên được củng
cố để đặt nền móng cho Cách mạng Công nghiệp, một phần nhờ vòng thiện,
và một phần nhờ những diễn biến may mắn của sự tùy thuộc ngẫu nhiên.
– Có bao nhiêu chế độ ngự trị trên các thể chế chuyên chế và khai
thác đã chống lại một cách kiên định sự truyền bá các công nghệ mới được
Cách mạng Công nghiệp mở ra.
– Bản thân những người Âu châu đã dập tắt khả năng tăng trưởng kinh
tế như thế nào ở nhiều phần của thế giới mà họ đã chinh phục.
– Bằng cách nào vòng luẩn quẩn và quy luật sắt của chính thể đầu sỏ
đã tạo ra một xu hướng mạnh mẽ cho các thể chế khai thác tồn tại dai
dẳng, và như thế các vùng đất nơi Cách mạng Công nghiệp ban đầu đã không
lan tới vẫn tương đối nghèo.
– Vì sao Cách mạng Công nghiệp và các công nghệ mới khác đã không lan
ra hay không chắc sẽ lan đến các nơi xung quanh thế giới ngày nay những
nơi mà một mức độ tối thiểu của sự tập trung của nhà nước đã không đạt
được.
Việc thảo luận của chúng ta sẽ cũng chứng tỏ rằng các vùng nhất định
mà đã tìm được cách để biến đổi các thể chế theo hướng bao gồm hơn, như
Pháp, Nhật Bản, hay đã cản việc thiết lập các thể chế khai thác, như Hoa
Kỳ hoặc Autralia, đã dễ tiếp thu hơn sự lan tỏa của Cách mạng Công
nghiệp và đã đi trước các nước còn lại. Như ở nước Anh, đấy đã không
luôn luôn là một quá trình suôn sẻ, và dọc đường, nhiều thách thức đối
với các thể chế bao gồm đã được khắc phục, đôi khi bởi vì động học của
vòng thiện, đôi khi nhờ con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử.
Cuối cùng, chúng ta cũng sẽ thảo luận về sự thất bại của các quốc gia
ngày nay bị ảnh hưởng nặng nề ra sao bởi lịch sử thể chế của họ, và bao
nhiêu lời khuyên chính sách được thông báo bởi các giả thuyết không
đúng và có thể làm cho lạc lối, và bằng cách nào các quốc gia vẫn có khả
năng túm lấy các bước ngoặt và phá vỡ các khuôn đúc, các vòng kim cô để
cải cách các thể chế của họ và bắt đầu bước lên con đường đến sự thịnh
vượng lớn hơn.
Chương 5.- “TÔI ÐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ÐỘNG”
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI
Những khác biệt thể chế đóng một vai trò cốt yếu
trong giải thích sự tăng trưởng suốt các thời đại. Nhưng nếu hầu hết các
xã hội trong lịch sử đều dựa vào các thể chế chính trị và kinh tế chiếm
đoạt, thì điều này có ngụ ý rằng tăng trưởng chẳng bao giờ xảy ra? Hiển
nhiên không. Các thể chế chiếm đoạt phải tạo ra của cải sao cho nó có
thể được chiếm được.
Nhưng sự tăng trưởng dưới các thể chế chiếm đoạt khác về bản chất với
sự tăng trưởng do các thể chế dung hợp sinh ra. Quan trọng nhất, nó sẽ
không là sự tăng trưởng bền vững mà đòi hỏi sự thay đổi công nghệ, mà
đúng hơn là sự tăng trưởng dựa trên các công nghệ hiện tồn. Quỹ đạo kinh
tế của Liên Xô cung cấp một minh họa sinh động.
Năm 1922 CP Hoa Kỳ đã cử một phái đoàn do nhà ngoại giao trẻ, William
Bullitt, dẫn đầu và một trí thức và nhà báo kỳ cựu Lincoln Steffens đi
Moscow để gặp Lenin và cố hiểu ý định của những người Bolshevik.
Steffens đã ở Nga vào thời cách mạng. Phái đoàn trở về với những nét
phác họa của một đề nghị từ Lenin về chấp nhận gì cho hòa bình với Liên
Xô mới được tạo ra. Steffens đã hết sức ngạc nhiên trước cái ông thấy,
như tiềm năng to lớn của chế độ Soviet.
Stffens cho rằng “Nước Nga Soviet,” là một chính phủ cách mạng với
một kế hoạch tiến hóa. Ông nói rằng “Tôi đã thấy tương lai, và nó hoạt
động.”
Ngay cho đến đầu các năm 1980, nhiều người phương Tây vẫn thấy tương
lai ở Liên Xô, và họ tiếp tục tin rằng nó hoạt động. Theo một nghĩa nó
đã, hay chí ít nó đã hoạt động một thời gian. Lenin chết năm 1924, và
vào năm 1927 Joseph Stalin đã củng cố sự kìm kẹp của mình trên cả nước.
Ông đã thanh trừng các địch thủ của mình và phát động một đợt vận động
để nhanh chóng công nghiệp hóa đất nước.
Cả ngành công nghiệp mới được tạo ra lẫn các nông trang tập thể đã
không hiệu quả về mặt kinh tế theo nghĩa rằng chúng tận dụng tốt nhất
các nguồn lực mà Liên Xô có. Thế nhưng Liên Xô đã tăng trưởng nhanh. Lý
do cho việc này là không khó hiểu. Đó là sự chuyển đổi lao động nông
nghiệp thô sơ sang lao động công nghiệp.
Mãi đến cuối 1977, một sách giáo khoa hàng đầu của một nhà kinh tế
học Anh đã cho rằng các nền kinh tế kiểu Soviet là ưu việt hơn các nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa về mặt tăng trưởng , tạo việc làm đầy đủ và ổn
định giá cả và thậm chí về mặt tạo ra những người con người với động cơ
thúc đẩy vị tha. Chủ nghĩa tư bản già nua tồi tàn đã làm tốt hơn chỉ ở
việc cung cấp quyền tự do chính trị.
Mặc dù các chính sách của Stalin và các lãnh đạo Soviet kế tiếp đã có
thể tạo ra tăng trưởng kinh tế nhanh, họ đã không thể làm thế theo cách
bền vững. Vào các năm 1970, tăng trưởng kinh tế hầu như đã bị ngừng.
Bài học quan trọng nhất là, các thể chế khai thác không thể tạo ra sự
thay đổi công nghệ bền vững vì hai lý do: sự thiếu các khuyến khích và
sự chống đối của elite.
LIÊN XÔ đã có khả năng tạo ra sự tăng trưởng nhanh ngay cả dưới các
thể chế chiếm đoạt bởi vì những người Bolshevik đã xây dựng một nhà nước
tập trung hùng mạnh và sử dụng nó để phân bổ các nguồn lực sang công
nghiệp. Nhưng như trong mọi trường hợp của tăng trưởng dưới các thể
chế chiếm đoạt, kinh nghiệm này đã không dành vai nổi bật cho sự thay đổi
công nghệ và đã không bền vững. Sự tăng trưởng đầu tiên chậm lại, rồi
sau đó hoàn toàn xẹp xuống. Mặc dù chóng tàn, kiểu tăng trưởng này vẫn
minh họa các thể chế khai thác có thể kích thích hoạt động kinh tế ra
sao.
Trong phần còn lại của chương này, chúng ta đầu tiên sẽ thảo luận bản
chất của những đổi mới thể chế mà thiết lập mức độ nào đó của sự tập
trung hóa nhà nước và cho phép sự tăng trưởng dưới các thể chếchiếm
đoạt. Sau đó chúng ta sẽ chứng tỏ các ý tưởng này sẽ giúp chúng ta thế
nào để hiểu Cách mạng Ðồ đá Mới, sự chuyển đổi hết sức quan trọng sang
nông nghiệp, mà làm nòng cốt cho nhiều khía cạnh của nền văn minh hiện
tại của chúng ta. Chúng ta sẽ kết thúc bằng việc minh họa, với các thí
dụ của các thành-quốc Maya, sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác bị
hạn chế ra sao không chỉ bởi vì sự thiếu tiến bộ công nghệ, mà cũng bởi
vì nó cũng khuyến khích sự ẩu đả từ các nhóm tranh đua muốn nắm sự kiểm
soát nhà nước và sự khai thác mà nó tạo ra.
TRÊN BỜ SÔNG KASAI
Kasai là một trong những nhánh lớn của sông Congo. Nó là ranh giới
giữa Lele nghèo và Bushong giàu. Hai bộ tộc có chung nguồn gốc và các
ngôn ngữ họ hàng. Ngoài ra, nhiều thứ mà họ xây hay tạo ra là giống nhau
về kiểu cách, bao gồm nhà, quần áo, và đồ thủ công.
Có những khác nhau về kỹ thuật canh tác, về số mùa vụ trong năm, về
các giống cây trồng về kỹ thuật và công cụ đánh bắt, Cũng đã có những
khác biệt nổi bật về luật và trật tự.
Cái gì nằm đằng sau những khác biệt này. Hiển nhiên không phải là địa
lý đã khiến những người Lele sử dụng công nghệ săn bắn và nông nghiệp
thấp. Ðã chắc chắn không phải là sự vô minh, sự không biết, bởi vì họ đã
biết các công cụ người Bushong sử dụng. Một sự giải thích khả dĩ khác
có thể là văn hóa; liệu đã có thể chăng rằng những người Lele có một văn
hóa không khuyến khích họ đầu tư vào lưới săn và nhà chắc chắn hơn và
được xây cất tốt hơn? Nhưng điều này có vẻ cũng chẳng đúng. Những người
Lele đã rất quan tâm đến mua súng,
Lý do cho những khác biệt giữa hai bộ tộc này nằm ở các thể chế khác
nhau. Khoảng năm 1620 một cuộc cách mạng chính trị do Shyaam khởi xướng,
với những người Bushong ở trung tâm. Những sự khác biệt đã nổi lên như
những hệ quả của cách mà Shyaam đã tổ chức lại xã hội. Ông đã xây dựng
một nhà nước và thể chế chính trị. Ðã chẳng ai bỏ phiếu bầu ông, và
chính sách đã được quy định từ trên đỉnh, không phải bởi sự tham gia của
nhân dân. Cuộc cách mạng này dẫn đến sự tập trung hóa nhà nước, luật và
trật tự, đến lượt nó đã dẫn đến một cuộc cách mạng kinh tế. Mối quan hệ
giữa cách mạng chính trị và cách mạng kinh tế đã đơn giản.
Vì sao những người Bushong, chứ không phải những người Lele, đã có
một cuộc cách mạng chính trị. Chẳng phải những người Lele đã có thể có
Shyaam riêng của họ? Những người Lele đã có thể có một cuộc cách mạng
như vậy, nhưng họ đã không làm. Có lẽ đấy là các lý do mà chúng ta không
hiểu bởi vì sự hiểu biết hạn chế của chúng ta ngày nay về xã hội của
họ. Có khả năng nhất là bởi vì bản chất tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch
sử. Cùng sự tùy thuộc ngẫu nhiên có lẽ đã có hiệu lực khi một số xã hội ở
Trung Ðông mười hai ngàn năm trước đã bắt đầu một tập thậm chí cấp tiến
hơn của những đổi mới thể chế dẫn đến các xã hội định cư và sau đó đến
thuần hóa các thực vật và động vật, như chúng ta thảo luận tiếp đây.
MÙA HÈ DÀI
Khoảng 15.000 năm trước công nguyên (TCN), Thời kỳ Băng hà chấm dứt
vì khí hậu trái đất nóng lên. Nhà khảo cổ học Brian Fagan gọi nó là mùa
hè dài. Sự ấm lên của khí hậu đã là một bước ngoặt khổng lồ mà đã tạo
thành nền cho Cách mạng đồ Ðá mới, nơi các xã hội người đã chuyển sang
lối sống định cư, canh tác, và chăn thả. Việc này và phần còn lại của
lịch sử con người đã tiến hành trong Mùa hè Dài này.
Bằng chứng sớm nhất về canh tác, chăn thả và thuần hóa thực vật và
động vật đến từ Trung Ðông, Vì sao các làng canh tác đầu tiên đã xảy ra ở
đây chứ không phải nơi khác? Sự nổi lên của các elite chính trị rất có
thể đã tạo ra sự chuyển đổi đầu tiên sang cuộc sống định cư và sau đó
sang canh tác. Sau khi các xã hội đã trở thành xã hội định cư và bắt đầu
canh tác, họ bắt đầu phát triển hệ thống thứ bậc chính trị, tôn giáo,
và các thể chế phức tạp hơn một cách đáng kể.
Chắc chắn việc chuyển sang canh tác đã dẫn đến năng suất nông nghiệp
lớn hơn và đã cho phép sự bành trướng đáng kể của dân số. Khi khí hậu ấm
lên, một số xã hội, như những người Natufian, đã phát triển các yếu tố
của các thể chế được tập trung hóa và hệ thống thứ bậc, mặc dù các yếu
tố này đã ở quy mô rất nhỏ so với quy mô của các nhà nước-quốc gia hiện
đại.
Sự tăng trưởng ban đầu của những người Natufian đã không trở thành
bền vững vì cùng lý do mà sự tăng trưởng Soviet đã xẹp xuống. Mặc dù hết
sức đáng kể, thậm chí mang tính cách mạng trong thời của nó, đấy đã là
sự tăng trưởng dưới các thể chế chiếm đoạt. Ðối với xã hội Natufian cũng
đã chắc là, loại tăng trưởng này đã gây ra các xung đột sâu sắc về ai
sẽ kiểm soát các thể chế và sự chiếm đoạt mà chúng cho phép. Ðối với mỗi
elite được hưởng lợi từ sự chiếm đoạt, có một vài người sẽ thích thay
thế anh ta. Ðôi khi sự đấu đá nội bộ sẽ thay một elite bằng một elite
khác. Ðôi khi nó phá hủy toàn bộ xã hội khai thác, và tháo xích cho một
quá trình sụp đổ nhà nước và xã hội, như nền văn minh hùng vĩ của các
thành-quốc Maya được xây dựng hơn một ngàn năm trước đã trải qua.
SỰ CHIẾM ĐOẠT KHÔNG ỔN ĐỊNH
Sự canh tác đã nổi lên một cách độc lập ở nhiều nơi quanh thế giới. Ở
nơi bây giờ là Mexico, các xã hội đã hình thành mà thiết lập các nhà
nước và các khu định cư, và đã chuyển sang nông nghiệp. Như với những
người Natufian ở Trung Ðông, họ cũng đã đạt mức độ nào đó của sự tăng
trưởng kinh tế.
Các thành phố Maya đầu tiên bắt đầu phát triển vào khoảng năm 500
TCN, đã chưa bao giờ thống nhất thành một đế chế, Những người Maya đã
phát triển một hệ thống chữ viết và có ít nhất mười lăm ngàn câu khắc
còn lại mô tả nhiều khía cạnh của đời sống elite, văn hóa, và tôn giáo.
Những chữ khắc ghi niên đại này cho chúng ta bức tranh rõ ràng về sự mở
rộng của các thành phố Maya và sự co lại của chúng sau đó từ cuối thế kỷ
thứ tám.
Cách, mà theo đó Maya Thời Ðại Cổ Ðiển đã dựa vào việc tạo ra các thể
chế chính trị chiếm đoạt, là rất giống tình hình của người Bushong, Các
thể chế chính trị mới đã dẫn đến một sự tăng đáng kể về thịnh vượng
kinh tế, mà phần lớn của nó sau đó được khai thác bởi elite mới
Ðã không có sự phá hủy sáng tạo. Nhưng đã có các hình thức phá hủy
khác, vì sự giàu có mà các thể chế chiếm đoạt đã tạo ra cho elite Maya
đã dẫn đến chiến tranh liên miên, Thành phố bị bỏ rơi ngay sau đó. Khắp
khu vực Maya câu chuyện đều giống nhau; các thể chế chính trị mà đã tạo
ra bối cảnh cho sự mở rộng buôn bán, nông nghiệp, và dân số đã biến mất.
Các triều đình hoàng gia đã không hoạt động, các công trình và các đền
đài đã không được tạo ra, và các cung điện bị bỏ trống. Như các thể chế
chính trị và xã hội đã làm sáng tỏ, sự đảo ngược quá trình tập trung hóa
nhà nước, nền kinh tế đã co lại và dân số giảm xuống.
Mặc dù các thể chế chiếm đoạt, mà những người Maya tạo ra, đã làm ra
của cải đủ để cho thành phố thịnh vượng và elite trở nên giàu có và tạo
ra nghệ thuật và các công trình kỷ niệm tuyệt vời, hệ thống đã không ổn
định. Các thể chế chiếm đoạt mà trên đó elite hẹp này cai trị đã tạo ra
sự bất bình đẳng sâu rộng, và như thế tạo ra tiềm năng cho sự đấu đá nội
bộ giữa những người có thể hưởng lợi từ của cải được khai thác từ nhân
dân. Sự xung đột này cuối cùng đã dẫn đến sự phá hủy nền văn minh Maya.
HỎNG CÁI GÌ?
Các thể chế khai thác là rất phổ biến trong lịch sử bởi vì chúng có
một logic mạnh mẽ: chúng có thể tạo ra sự thịnh vượng hạn chế nào đó
trong khi đồng thời phân phối nó vào tay của một giới elite nhỏ. Ðể cho
sự tăng trưởng này xảy ra, phải có sự tập trung hóa chính trị.. Tại Liên
Xô, các thể chế chiếm đoạt đã có Ðảng Cộng Sản phân bổ lại các nguồn
lực từ nông nghiệp sang công nghiệp và sắp đặt loại nào đó của các
khuyến khích cho các nhà quản lý và công nhân.
Tuy vậy, sự tăng trưởng được tạo ra bởi các thể chế chiếm đoạt về bản
chất là rất khác với sự tăng trưởng được tạo ra dưới các thể chế dung
hợp. Quan trọng nhất, nó không bền vững. Kinh nghiệm Soviet cho một minh
họa sống động về giới hạn này. Sự tăng trưởng Soviet, dẫu nhanh đến đâu,
đã nhất thiết là tương đối ngắn ngủi, và nó đã hụt hơi vào các năm
1970.
Mặc dù bị hạn chế một cách cố hữu, tăng trưởng dưới các thể chế chiếm
đoạt tuy vậy có thể tỏ ra ngoạn mục khi nó trong chuyển động. Nhiều
người đã bị kinh sợ bởi sự tăng trưởng Soviet trong các năm 1920, 30,
40, 50, 60, và thậm chí mãi đến các năm 1970, theo cùng cách mà chúng ta
bị mê hoặc bởi nhịp độ chóng mặt của sự tăng trưởng kinh tế ở Trung
Quốc hiện nay. Nhưng như chúng ta sẽ thảo luận chi tiết trong chương 15,
Trung Quốc dưới sự cai trị của Ðảng Cộng Sản là một thí dụ khác về xã
hội trải qua sự tăng trưởng dưới các thể chế chiếm đoạt và một cách
tương tự không chắc sẽ tạo ra sự tăng trưởng bền vững trừ phi nó trải
qua một sự biến đổi chính trị cơ bản theo hướng các thể chế chính trị
dung hợp.
(Còn tiếp)