Tại sao không dám ‘đối thoại’? (Mạnh Kim)
Bản chất của cộng sản là khủng bố và dối trá. Họ làm gì biết thế nào là "đối thoại". Họ chỉ biết "đối thọi". Một ca sĩ đang hát còn bị khủng bố thì làm gì có chuyện "đối thoại".
Ngày 18-5-2017, tại một hội nghị trực tuyến toàn quốc, Trưởng Ban 
Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng nói: “Chúng ta không sợ đối thoại, 
không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học 
thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và 
cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý”.
Nói thế thôi chứ “chúng ta” của Võ Văn Thưởng sợ đối thoại hơn tất cả
 thứ gì khác. Suốt chiều dài lịch sử đảng cộng sản lẫn nhà cầm quyền 
cộng sản Việt Nam, chẳng bao giờ tồn tại cái gọi là “đối thoại” và “lắng
 nghe ý kiến”. Ngày 30-10-1956, chỉ với bài diễn văn ngắn đọc tại một 
phiên họp Mặt trận Tổ quốc, về sai lầm của cuộc Cải cách ruộng đất, tiến
 sĩ Nguyễn Mạnh Tường, một học giả tài năng xuất chúng, đã lãnh một hậu 
quả khủng khiếp là bị trù dập suốt đời. Ngay cả những người trong hệ 
thống chính quyền cộng sản, từ Hoàng Minh Chính, Trần Bách, Nguyễn Hộ, 
Nguyên Ngọc, Trần Độ, đến thậm chí Võ Nguyên Giáp, còn bị “đập” tơi tả 
khi “bày đặt có ý kiến” thì huống hồ “nhân dân” của một chính quyền “do 
dân, vì dân”!
Tại sao “chúng ta” của Võ Văn Thưởng không dám “đối thoại” với người 
dân? Không dám bởi vì không thể, không có khả năng, không đủ trình độ, 
và đặc biệt không đủ lý lẽ để giải thích hoặc biện minh cho những sai 
lầm chính sách, nhất là những gì liên quan cơ cấu bộ máy thể chế, từ 
“tam quyền phân lập” giả hiệu đến thậm chí cả Hiến pháp, trong đó luôn 
khẳng định “Bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”. “Chúng ta” của Võ Văn Thưởng
 không muốn tự sát, như những cái chết oan khuất của những người đấu 
tranh bị bắt vào đồn và tử vong vì “tự ngã” hoặc “tự tử”. Cái chết bởi 
bạo lực nhân dân trong ngày cuối của một chế độ độc tài là nỗi ám ảnh 
đáng sợ. Tiếng kinh chiều tàn cầu hồn cho một cái chết đang đến gần cứ 
vọng bên tai, thường trực. U tối, rùng rợn, và ám ảnh. Cho nên làm sao 
họ đủ dũng cảm để đối mặt những “câu hỏi thời đại” của nhân dân, trong 
đó có câu hỏi “Việt Nam có chấp nhận mất nước khi nấp dưới cái bóng 
Trung Quốc?”.
Bối cảnh Việt Nam hiện nay không giống giai đoạn khối XHCN tan rã bởi
 “bọn xét lại” khiến Nguyễn Văn Linh phải hộc tốc sang Đông Âu kêu gọi 
“cứu nguy sự tan rã của khối anh em đoàn kết XHCN”. Tuy nhiên, nguy cơ 
sụp đổ bởi sự nổi dậy nhân dân ngày càng lớn hơn bao giờ. Bài học sức 
mạnh nhân dân trong các cuộc cách mạng Cam hoặc cách mạng Hoa nhài đã 
làm lạnh sống lưng những kẻ cai trị Việt Nam. Bằng mọi giá phải giữ thể 
chế - họ hoảng hốt lo sợ, khi mà sự mục ruỗng chế độ đã đến mức trầm 
trọng mà nguyên nhân của nó xuất phát từ chính những sai lầm căn bản 
mang tính nội tại hơn là từ “thế lực thù địch bên ngoài”. Bằng mọi giá 
phải siết lại tự do, đưa dân chủ vào khái niệm “dân chủ tập trung” do 
Đảng và Nhà nước giám sát chứ không thể thả lỏng tự do để tự do hình 
thành dòng chảy như là một xu hướng tất yếu. Bạo lực là giải pháp duy 
nhất cho sự bảo vệ chế độ ở thời điểm này.
Nếu thật sự lắng nghe ý kiến người dân thì họ đã nghe và đã sửa. Ngày
 22-1-1990, lá Tâm thư với chữ ký của hàng trăm trí thức kiều bào do 
giáo sư tiến sĩ Nguyễn Ngọc Giao đại diện, gửi về Việt Nam từ Pháp, đã 
cảnh báo:
“Do những đường lối, chính sách không phù hợp với tình hình thế giới 
cũng như với thực tế của Việt Nam, nước ta đã bị cô lập về mặt kinh tế 
cũng như ngoại giao và vẫn chưa thoát ra khỏi cảnh nghèo khó. Đau lòng 
hơn nữa, cuộc đổi mới khởi động năm 1986 đã bị trì hoãn, bỏ lỡ một cơ 
may lớn, làm tổn thương lòng tin của nhân dân mới phần nào được phục 
hồi. Những biến cố vừa xảy ra ở Đông Đức, Tiệp Khắc và nhất là Rumani 
cho thấy là trong một tình hình chính trị, kinh tế, xã hội bế tắc kéo 
dài quá lâu, sự thụ động bề ngoài của quần chúng mà sức kiên nhẫn chịu 
đựng dẫu sao cũng có giới hạn, nhiều khi chỉ là sự bình lặng trước cơn 
bão lớn. Để tránh cho đất nước khỏi rơi vào thảm kịch Thiên An Môn hay 
Rumani, trước tiên cần nhận thức rằng không thể dùng đàn áp hay bạo động
 để giải quyết những vấn đề trầm trọng hiện nay của đất nước mà phải tìm
 được những phương pháp chính trị thích nghi. Hãy vì quyền lợi tối cao 
của dân tộc, sớm cải tổ hệ thống chính trị hiện có bằng cách: Thực sự 
tách rời các định chế của Nhà nước ra khỏi bộ máy chính đảng để cho Nhà 
nước thu hồi trọn vẹn những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của mình,
 để cho không một ai cũng như không một tổ chức nào có thể đứng trên và 
chi phối Nhà nước; Thiết lập một nền dân chủ đa nguyên, thực sự bảo đảm 
an toàn cá nhân và các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội,
 lập đảng…”.
Tâm thư đã được “đón nhận” và được “phản hồi”: Những trí thức kiều 
bào ký tên vào Tâm thư không được cấp visa về nước; có người thậm chí 
được “đăng tên” ở “Bảo tàng tội ác Mỹ-Ngụy” trong suốt 14 năm; danh sách
 34 người ký tên đầu tiên được niêm yết ở trụ sở công an địa phương cũng
 như sứ quán một số nước! Từ năm 1990 đến nay, có bao nhiêu “tâm thư” 
của đồng bào trong nước lẫn hải ngoại? Có ý kiến nào được lắng nghe? 
Những người dân can đảm dám hành động và lên tiếng vì yêu nước đã luôn 
nhận lãnh một kết cục bi thảm: điểm dừng của họ là nhà tù, như Trần 
Huỳnh Duy Thức.
Khó có thể tưởng tượng một “lý thuyết gia” về “tư tưởng” như Võ Văn 
Thưởng sẽ “ăn nói” như thế nào khi đối mặt với Phạm Đoan Trang, với 
Trịnh Hữu Long, với Nguyễn Anh Tuấn… Khó có thể hình dung một nhân vật 
trong Bộ chính trị, kể cả “tiến sĩ Xây dựng Đảng” Nguyễn Phú Trọng, đủ 
khả năng và lý lẽ để “nói chuyện phải quấy” với những gương mặt trẻ đại 
diện cho “bọn phản động”. Ngày đó, ngày mà nhà cầm quyền chịu ngồi 
xuống, để bắt tay và nói chuyện với sinh viên, với công nhân, với những 
người đấu tranh, có thể chẳng bao giờ xảy ra. Thay vào đó là bạo lực đàn
 áp, là những bản án tù nghiệt ngã và những cái chết vì “tự sát” trong 
đồn công an. Hãy dừng lại đi! Dân tộc này đã đổ quá nhiều máu và đã gánh
 chịu quá nhiều đau thương. Hãy dừng lại những nắm đấm và chìa ra những 
bàn tay. Không dân tộc nào có thể đi lên phía trước, khi để lại sau lưng
 những gương mặt người dân bầm tím và những ánh mắt oán thù, bởi sự 
xuống tay của bạo lực cường quyền.
VOA 
