Hai bản Tuyên ngôn độc lập thay vì một (Phạm Cao Dương)
Một
điều khác vô cùng quan trọng độc giả cũng nên để ý khi tìm
hiểu hai bản tuyên ngôn này là mục tiêu tối hậu của những
người cộng sản không phải là độc lập cho quốc gia, đất nước
và dân tộc Việt Nam mà là cách mạng quốc tế vô sản và xã
hội chủ nghĩa theo quan niệm riêng của họ, như người ta đã thấy
ngay từ những năm đầu của thập niên 1950 với sự thúc đẩy của
Nga Xô và Trung Cộng.
73 năm nhìn lại :
Hai bản Tuyên ngôn độc lập thay vì một
Lịch sử không thể chỉ được biết có một nửa
Phạm Cao Dương, 23/08/2018
Trong
lịch sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai
mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức
tuyên bố độc lập.
Lần
thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng đế Bảo Đại và lần thứ
hai vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 bởi Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh.
Hai
lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một
lần. Họ chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2
tháng 9 mà không biết hay không được học bản tuyên ngôn của Vua Bảo Đại
ngày 11 tháng 3, 1945, ngót sáu tháng trước đó. Lịch sử do đó chỉ
được biết có một nửa thay vì toàn vẹn.
Bài này nhằm bổ khuyết cho tình trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ý nghĩa của từng bản.
Buổi họp mặt tay ba giữa Hoàng thân Lào Xuphanuvong, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cựu Hoàng đế Bảo Đại (Vĩnh Thụy) tại Hà Nội sau ngày 2/9/1945
Bài này được trích đăng một phần từ tác phẩm Trước khi bão lụt tràn tới : Bảo Đại-Trần Trọng Kim và Đế quốc Việt Nam, 9/3/1945-30/8/1945
của tác giả, do Nhà xuất bản Amazon in và phát hành, thể theo
lời yêu cầu của một số quý vị độc giả, vì lý do này hay lý
do khác, không có cuốn sách này trong tay, muốn biết rõ hơn và
đầy đủ hơn về hai bản tuyên ngôn quan trọng này, liên hệ tới
định mạng và lịch sử đầy đau thương, máu xương và nước mắt
của dân tộc Việt Nam.
I. Tuyên ngôn của Hoàng đế Bảo Đại
1. Hoàn cảnh được công bố
Bản
Tuyên ngôn Độc lập của Hoàng đế Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3
năm 1945, hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau một
thời gian dài hơn bốn năm, từ cuối tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật
vào phần đất này của Đông Nam Á, gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu
hàng và Thế chiến thứ hai kết thúc.
Trong
thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ
sau khi Hòa ước 1884 được ký kết, lẫn người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm
1940, với một hậu quả khủng khiếp là Trận đói tháng Ba năm Ất Dậu. Hoàn
cảnh này đã làm cho không chỉ riêng những người cộng sản, vốn chủ
trương đánh đổ chế độ quân chủ để "cướp chính quyền" (chữ của chính
người cộng sản) để từ đó thực thi cách mạng vô sản, mà luôn cả những
người không những không có cảm tình với chế độ quân chủ đương thời và
còn chủ trương lật đổ chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ,
không nhìn nhận giá trị đích thực của bản tuyên ngôn này.
Lý
do là vì Bảo Đại luôn luôn bị coi như một ông vua bù nhìn, trước kia
trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. Theo họ trước kia
người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945,
người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập thì ông tuyên bố độc lập, thế thôi.
Người ta chỉ hiểu hay được học đơn giản như vậy. Nền độc lập mà Bảo Đại
tuyên bố theo họ chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của ông
chẳng có một giá trị gì trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của người
Việt. Thực chất của nó chỉ là "sự tuyên bố công khai việc thay thầy đổi
chủ của triều đình Bảo Đại" (1) không hơn không kém.
Sự
thực không đơn giản như vậy. Người Nhật có lý do làm đảo chính lật đổ
người Pháp và Bảo Đại có lý do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật
tuyên bố Việt Nam độc lập. Lý do của Bảo Đại đã được ông giải thích khi
tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm
thủ tướng đầu tiên của chính phủ Nam Triều độc lập. Nguyên văn câu nói
của Bảo Đại được Trần Trọng Kim kể lại như sau :
"Trước
kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho
ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không
có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải
đứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc" (2).
Người
ta cần phải nhớ là hơn mười năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới
Huế được hai ngày, ngày tháng 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đã ra Dụ số 1
tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều hủy bỏ
Quy ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội đồng Phụ Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, ký với Toàn quyền
Đông Dương thời ông còn nhỏ tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu
hết các quyền hành còn lại của nhà vua trừ các quyền có tính cách nghi
lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ... kèm
theo nhiều dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong nền hành
chánh của chính phủ Nam Triều, nhưng đã bị người Pháp ngăn cản và bị
thất bại.
Đảo
chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật
dù gì đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế còn trẻ tuổi này từ lâu
mong đợi.
Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trọng Kim "chịu khó" lập chính phủ mới. Ông nói :
"Trước
kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn,
nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính
phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ
nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một
chính phủ để lo việc nước" (3).
Hai
tiếng "cơ hội" Bảo Đại dùng ở đây cho ta thấy ông từ lâu mong có dịp
này. Đồng thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo chưa phải
độc lập hẳn. Chưa hết, tuyên bố rồi ông còn có nhu cầu phải tỏ ra có đủ
tư cách để độc lậpvà nhất là để tránh không cho người Nhật "lập cách
cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta". Một sự e ngại chỉ có
những người có kiến thức về lịch sử và chính trị học mới biết được.
Ngoài
ra những tiếng "rất có hại cho nước ta" cũng cho người ta thấy đối
tượng của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải là ngôi vua mà
là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và thần dân
của ông. Cái nhìn và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về tình
hình thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đã được ông nói rõ
trong hồi ký của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đã không tin tưởng ở
họ cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ.
Nói
cách khác Bảo Đại ở vị thế phải chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rõ sự
phức tạp của vấn đề. Phần khác như ông cũng nói tới trong hồi ký của ông
: "Độc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt Nam thời đó".
2. Nội dung bản Tuyên ngôn
Đây
là một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm ba
mục tiêu chính yếu là hủy bỏ một hòa ước Triều đình Huế trước kia đã ký
với nước Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, đứng vào khối Đại Đông Á trong
chương trình phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng vào "lòng
thành" của nước Nhật với nguyên văn như sau :
"Cứ
tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ
Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và
nước Nam khôi phục quyền độc lập.
Nước
Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập
và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho
cuộc thịnh vượng chung.
Vậy
Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc,
quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt
được mục đích như trên" (4).
Bản Tuyên Bố được đề ngày 11 tháng Ba năm 1945, tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20,
được Bảo Đại ký tên với sáu thượng thư phó thự. Sáu vị thượng thư gồm
có : Phạm Quỳnh, bộ Lại, Hồ Đắc Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi Bằng
Đoàn, bộ Hình, Trần Thanh Đạt, bộ Học, và Trương Như Định, bộ Công. Theo
Bảo Đại đây là lần đầu tiên trong lịch sử một văn kiện được ký bởi nhà
vua và tất cả các nhân vật quan trọng nhất trong triều đình (5).
Đọc bản Tuyên ngôn Độc lập này của Bảo Đại, người ta cần chú ý tới những chi tiết sau đây :
Thứ
nhất : Gọi là tuyên ngôn nhưng thực sự đây chỉ là một văn kiện hủy bỏ
một điều ước đã được ký kết trước đó vì do tình hình biến chuyển, một
trong hai phía đã không tôn trọng được những gì mình đã ký kết hay không
thực thi được những gì mình đã ký kết trong một sinh hoạt quốc tế.
Điều ước bị hủy bỏ ở đây là Hòa ước Giáp Thân được ký kết giữa Triều đình
Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều khoản của
hòa ước này là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp
nhận Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước
Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài và những cuộc nổi loạn từ bên trong (6).
Sự
hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp bất lực không bảo vệ được
Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và cuối cùng là chính
người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo chính ngày 9 tháng 3
năm 1945.
Sự
hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Bảo Đại với tư cách là
người kế vị chính thống của Triều Đình Nhà Nguyễn căn cứ vào những gì đã
xảy ra vào thời điểm này.
Điểm
cần được lưu ý ở đây là từ ngữ hòa ước trong văn kiện này được dùng
theo số ít, trong tiếng Việt, không có chữ "các" hay "những" đi kèm và
trong tiếng Pháp không có chữ "s" theo sau để biểu lộ số nhiều. Điều này
có nghĩa là bản tuyên cáo này chỉ hủy bỏ hòa ước bảo hộ, tức Hòa ước
Giáp Thân 1884 mà thôi thay vì hủy bỏ tất cả các hòa ước đã được ký kết
trước đó. Đó là các Hòa ước Nhâm Tuất 1862 và Hòa ước Giáp Tuất 1874
liên hệ tới xứ Nam Kỳ theo đó xứ này đã bị nhường đứt cho người Pháp và
trở thành thuộc địa của họ, không còn thuộc quyền cai trị của Vua và
Triều Đình Huế nữa.
Vấn
đề thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó chưa được giải quyết ngay nhưng đã trở
thành mối bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Bảo Đại ngay từ
buổi nhà vua tiếp kiến Đại sứ Nhật Yokoyama và của Chính phủ Trần Trọng
Kim trong gần suốt thời gian chính phủ này tồn tại. Xứ Nam Kỳ chỉ được
người Nhật trao trả trong những ngày cuối của chính phủ này và chỉ chính
thức trở về với lãnh thổ quốc gia Việt Nam ngót năm năm sau, vào giữa
tháng 6 năm 1949, và do Bảo Đại với tư cách Quốc trưởng tiếp nhận từ tay
người Pháp. Đây cũng là một sự kiện ít người biết đến.
Thứ
hai : "Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc
gia độc lập... giúp cho cuộc thịnh vượng chung". Câu này xác định phương
thức hoạt động nhằm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một
quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài, mà ta phải hiểu
ngầm là trong đó có cả Nhật Bản, cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và
thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi mình là một phần tử
của Khối Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung).
Nên
để ý tới khẩu hiệu "Châu Á của người Á" do người Nhật đưa ra trong thời
gian này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc đó
còn là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Đây cũng là một cách nói trước
một cách khéo léo để ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội tình Việt Nam
của người Nhật.
Thứ
ba : "Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế
quốc...". Câu này nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn
mạnh vào sự trung thành với những gì họ đã nói, với quan niệm trung
thành như một truyền thống chung của các dân tộc Á Đông.
Thứ
tư : "Quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để cho
đạt được mục đích như trên". Mục đích như trên là mục đích gì ? Phải
hiểu mục đích này bao gồm hai phần là "tự tiến triển cho xứng đáng một
quốc gia độc lập" và "giúp cho cuộc thịnh vượng chung"như là một phần tử của khối Đại Đông Á chứ không phải cho Đế Quốc Nhật Bản.
Thứ
năm : Vì bản tuyên ngôn của Hoàng đế Bảo Đại được ban hành vào lúc Việt
Nam "chưa phải độc lập hẳn" theo Vua Bảo Đại, nên có tác giả cho rằng
nó"không thể coi là có giá trị pháp lý quốc tế gì" (7).
Nhận
định này cần phải được xét lại nếu ngưòi ta nghĩ tới trường hợp của Bản
tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ. Bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ được
công bố ngày 4 tháng 7 năm 1776. Lúc đó Hoa Kỳ chưa độc lập chút nào,
chứ chưa nói là chưa độc lập hẳn. Chính quyền thuộc địa của người Anh và
quân đội Anh vẫn còn đó. Dân chúng 13 thuộc địa của xứ này còn phải
chiến đấu thêm hơn bảy năm nữa, mãi đến năm 1783 Thỏa ước Paris mới được
ký kết, bảy năm, xin nhắc lại (từ ngày 4 tháng 7 năm 1776 đến ngày 3
tháng 9 năm 1783, sau Chiến thắng Yorktown) và Hoa Kỳ mới được người Anh
công nhận là một quốc gia độc lập thực sự.
Còn
nếu so sánh tình trạng độc lập của Việt Nam vào lúc Hoàng đế Bảo Đại
công bố bản tuyên ngôn của ông, với tình trạng độc lập của Việt Nam vào
ngày 2 tháng 9, 1945, lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn của
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, mọi chuyện vẫn y nguyên, người Pháp vẫn
chưa công nhận mà phải đợi đến ngày 8 tháng 3 năm 1949 với Hiệp định
Élysée, hay muộn hơn nữa, với Hiệp định 4 tháng 6 năm 1954.
Có điều một bản tuyên ngôn hay một lời tuyên bố chỉ là một bản tuyên ngôn, một lời tuyên bố mà thôi.
Nó chỉ là để người viết hay người nói ra nó bày tỏ quan điểm, chủ
trương và ý chí của mình. Nó hoàn toàn chủ quan. Còn giá trị của nó tới
đâu là tùy ở nội dung của nó và luận cứ của các đương sự dưới nhãn quan
của người đọc.
Luận
cứ của Vua Bảo Đại là vì người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam
trước sức bành trướng của người Nhật hồi đầu thập niên 40 của thế kỷ
trước, theo đúng như Hòa ước Bảo hộ, 6 tháng
6 năm 1884, quy định, nên hòa ước này bị kể như đã không được người
Pháp thi hành, do đó không còn hiệu lực nữa và đương nhiên bị hủy bỏ.
Luận cứ này đã được các nhà ngoại giao, luật học hay sử gia dùng, để cho
rằng chế độ bảo hộ của người Pháp ở Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ đã chấm dứt
ngay từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, chứ không phải đợi đến mãi ngày 9
tháng 3 năm 1945 hay sau này. Xứ Nam Kỳ là một ngoại lệ, không bị chi
phối bởi những sự kiện này.
Thứ
sáu : Nội dung của bản tuyên ngôn của Vua Bảo Đại không hề chứa đựng
lời lẽ lên án, mạt sát hay thù hận người Pháp hay tuyệt giao
với nước Pháp, từ đó một cánh cửa được để mở cho các cuộc gặp gỡ ngoại
giao để điều đình về sau này, từ đó hai dân tộc ó thể trở thành bạn và
hợp tác với nhau về lâu, về dài.
Nói
cách khác và tóm tắt lại, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng
nhưng rất quan trọng vì nó vừa mang tính cách pháp lý, có liên hệ tới
nhiều văn kiện ngoại giao khác đã được hình thành trước đó, vừa biểu lộ
chủ trương của một quốc gia được trao trả độc lập trong một hoàn cảnh
không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp, vào lúc tình hình thế
giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và quốc
gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra, mỗi chữ được
viết đều đòi hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trọng và ước tính kỹ càng.
3. Ai là tác giả của bản tuyên ngôn này ?
Người
được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư
bộ lại. Điều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ý tới khả năng nghị
luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của một
học giả, một người làm báo, và sau đó là một ngự tiền văn phòng tổng lý
của nhà vua cũng như thượng thư bộ lại lúc đó. Nó cũng được Phạm Khắc
Hòe, đương thời là ngự tiền văn phòng đổng lý của Vua Bảo Đại, trong hồi
ký của ông này xác nhận (8).
Tuy
nhiên theo Nguyễn Kỳ Nam, trong hồi ký của nhà báo này, thì trong một
cuộc tình cờ gặp Phạm Quỳnh trên cầu Trường Tiền Huế và được hỏi về bản
tuyên này, Phạm Quỳnh đã bác bỏ và cho biết bản văn này là do Đại sứ
Yokoyama đưa cho ông ngày 11 tháng 3 yêu cầu các vị thượng thư ký tên
(9).
Chuyện
này có thể đúng và có thể sai, nhưng sai thì hợp lý hơn vì vào lúc được
Nguyễn Kỳ Nam hỏi, Phạm Quỳnh không còn giữ chức vụ gì nữa nên phủ nhận
những gì thuộc quá khứ liên hệ tới mình ; ngoài ra nếu sự thực là như
vậy, Phạm Khắc Hoè có thể cũng biết và nói ra, trong khi những gì viên
Đổng lý văn phòng này kể lại có vẻ đủ chi tiết hợp lý hơn, kể cả chuyện
hai thượng thư Hồ Đắc Khải và Trương Như Đính khen "Cụ Lại giỏi thật !".
Phạm Khắc Hoè ghi là sau khi Phạm Quỳnh trình bày lý do của buổi họp của Cơ Mật Viện :
"Bảo Đại hỏi ai có ý kiến gì không ? Thì
mọi người đều hoan nghênh việc tuyên bố độc lập và Bùi Bằng Đoàn nói
thêm là trong bản tuyên bố cần nói rõ việc xóa bỏ các hiệp ước đã ký kết
với Pháp. Phạm Quỳnh mỉm cười và nói ông ta đã
không quên việc đó, rồi với vẻ mặt hớn hở tự đắc, ông ta thò tay vào
túi áo rút ra hai tờ giấy và nói tiếp : "Tâu Hoàng đế ! để cho gọn việc,
chúng tôi đã trộm phép dự thảo một bản tuyên bố, xin Hoàng đế cho phép
tuyên đọc". Phạm Quỳnh trịnh trọng đọc bản quốc văn rồi bản dịch Hán
văn. Bản dự thảo có ba ý kiến chính : Một là tuyên bố Việt Nam độc lập ;
hai là xóa bỏ các hiệp ước đã ký với Pháp ; ba là Chính phủ Việt Nam
độc lập sẽ hợp tác thân thiện với Chính phủ Đại Nhật Bản để cùng nhau
xây dựng khối thịnh vượng chung Đại Đông Á.
Phạm
Quỳnh đọc xong, Hồ Đắc Khải và Trương Như Đính tấm tắc khen "Cụ Lại
giỏi thật !". Còn không ai có ý kiến gì thêm bớt cả. Bảo Đại bảo
Phạm Quỳnh đưa bản thảo cho tôi làm mọi việc cần thiết để trong mười lăm
phút có văn bản đưa vào ký (10).
Điều đáng tiếc là cho tới nay người ta không rõ những bản văn chính này nằm ở đâu, còn hay đã mất ?
II. Bản Tuyên ngôn của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh
1. Hoàn cảnh được công bố
Bản
tuyên ngôn này đã được Hồ Chí Minh một mình soạn thảo, một mình đứng
tên và đọc tại Quảng trường Ba Đình ở Hà Nội vào buổi chiều ngày 2 tháng
Chín năm 1945, tức ngót sáu
tháng sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, hơn hai tuần lễ sau khi Nhật Bản
đầu hàng, mười ba ngày sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội
và hai ngày sau khi Bảo Đại chính thức thoái vị.
Sau
này nó đã được chính quyền cộng sản chính thức phổ biến như tác phẩm mà
ông là tác giả. Điển hình là cuốn Tuyên ngôn Độc lập nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa, do Nhà xuất bản Sự Thật ấn hành năm 1976, với lời giới
thiệu của Phạm Văn Đồng và lời chú dẫn của nhà xuất bản, có ghi rõ là
"do Hồ Chủ tịch thảo ra và đọc trước cuộc mít-tinh của hơn 50 vạn đồng
bàotại Quảng trường Ba-đình (Hà Nội)".
Trong
Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 36 (11), dày 923 trang, dành riêng cho
Hồ Chí Minh, và Hồ Chí Minh Écrits (1920-1969) (12) cũng đều in bản
tuyên ngôn này như tác phẩm riêng của Hồ Chí Minh.
Vì
được công bố sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, sau khi người Nhật đã đầu
hàng cũng như chế độ bảo hộ của người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trước
đó, bản tuyên ngôn này đã bị nhiều người cho là thừa, không cần thiết,
chưa kể tới sự kiện là chính phủ mới do Hồ Chí Minh thành lập là kế vị
chính phủ Nam Triều do Bảo Đại thoái vị nhường cho, dựa theo chiếu thoái
vị của Bảo Đại.
Chiếu
này đã được chính Hồ Chí Minh và chính phủ mới của ông chấp nhận với
những điều kiện đã được Hoàng đế Bảo Đại liệt kê rõ ràng. Chính phủ lâm
thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong những điều kiện này đương
nhiên kế tục những gì Hoàng đế Bảo Đại và Chính phủ Trần Trọng Kim đã
làm trước đó, trong đó có bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 11 tháng 3 năm
1945. Lập luận như vậy là hoàn toàn hợp lý đứng trên phương diện công
pháp quốc tế. Một lập luận đơn giản và hoàn toàn dễ hiểu.
Câu hỏi được đặt ra là Hồ Chí Minh, và những cộng sự viên của ông, khi đưa ra bản tuyên ngôn của ông tại
Quảng trường Ba Đình có biết là trước đó Bảo Đại đã làm công việc này
rồi hay không ? và biết như vậy tại sao ông lại còn làm lại việc đó một
lần nữa ?
Cho câu hỏi thứ nhất, câu trả lời là chắc chắn có. Hồ Chí Minh chắc chắn
phải biết là Bảo Đại trước đó đã tuyên cáo hủy bỏ hòa ước bảo hộ 1884
rồi, nhưng ông vẫn làm lại công việc này vì ông có nhu cầu phải làm.
Những nhu cầu đó là những nhu cầu gì ?
Thứ
nhất là vì từ lâu toàn dân ai nấy đều khao khát được thấy nước nhà độc
lập, đúng như Bảo Đại đã viết trong hồi ký của ông, độc lập là ước mơ
của mọi người dân Việt (13), cũng như nó được phản ảnh ở khắp nước ngay
trước và sau ngày 2 tháng 9 năm 1945. Nói tới độc lập vào lúc đó là gõ
đúng tần số của bất cứ một người dân Việt Nam nào, từ đó qui công lao và đem lại thanh thế cho người chính thức công bố ra điều đó.
Thứ
hai là cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, cái tên Hồ Chí Minh hoàn toàn
xa lạ ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Võ Nguyên Giáp, một trong
những cộng sự viên thân cận nhất và có uy thế nhất của Hồ Chí Minh trong
thời gian này, đã viết trong hồi ký của mình rằng :
"Ba
tiếng Hồ Chí Minh không bao lâu đã vang đi khắp thế giới với những
truyền thuyết mà người ta thường dành cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào
ngày hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn còn mới lạ với nhiều đồng bào. Số
người biết Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi đó không nhiều"
(14).
Ngay vua Bảo Đại ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi nhận được điện tín của của các ông Nguyễn Xiển, Nguyễn
Văn Huyên, Ngụy Như Kontum và Hồ Hữu Tường - nhân danh Ủy ban Nhân dân
Cách mạng, yêu cầu nhà vua thoái vị nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho
Chính phủ Nhân dân Cách mạng với chủ tịch là "Cụ Hồ Chí Minh" - đã không
biết Hồ Chí Minh là ai.
Còn
Phạm Khắc Hòe, người được Việt Minh gài vào cạnh nhà vua cũng không
biết nốt, phải chạy đi hỏi Tôn Quang Phiệt, một đảng viên cộng sản, rồi
Đào Duy Anh, nhưng Tôn Quang Phiệt đi vắng và Đào Duy Anh lục lọi, truy
tìm các tài liệu, sách vở ông có nhưng cũng không ra tên này. Cuối cùng
Vũ Văn Hiền, ở Bắc về mới xác nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc (15).
Tuyên bố Việt Nam độc lập đối với Hồ Chí Minh vào thời điểm này là cách tự giới thiệu mình tốt nhất và hữu hiệu nhất với
toàn thể đồng bào, và để được nhìn và được chấp nhận như là lãnh tụ đầu
tiên đã mang lại được độc lập cho tổ quốc và cho toàn dân Việt Nam. Đây
là một nhu cầu tối cần thiết, dầu rằng nền độc lập này hoàn toàn không
phải do ông hay do Mặt Trận Việt Minh tạo ra mà là do những biến cố khác
của lịch sử, trong đó quan trọng nhất là cuộc Đảo Chính ngày 9 tháng 3
năm 1945, qua đó người Nhật đã loại bỏ người Pháp, kèm theo là bản Tuyên
ngôn Độc lập của Hoàng đế Bảo Đại nói trên, và cuối cùng là sự bại trận
sau đó của người Nhật.
Chúng
ta cũng cần để ý là đối với đa số người Việt Nam thời đó, ngày 2 tháng 9
là Ngày Độc Lập, đúng như Nguyễn Hữu Đang, người được Hồ Chí Minh chỉ
định tổ chức ngày này, gọi, qua các văn thư chính thức ông đã gửi cho
các cơ quan liên hệ, trong đó có thư gửi cho Thị trưởng Hà Nội (16) và
theo bìa in bản tuyên ngôn, bản đầu tiên năm 1945, do Chủ tịch Chính phủ
lâm thời Việt Nam Hồ Chí Minh đọc trong Ngày Độc Lập (17).
Nhưng
đối với Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 còn có một ý nghĩa quan trọng hơn
nữa. Đó là "ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và khai sinh nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa", theo lời ông nói với Nguyễn Hữu Đang, "Chú
phải nhớ..." (18). Tại sao vậy ?
Tại
vì Hồ Chí Minh phải làm chuyện này trước khi quân Đồng Minh kéo vô Việt
Nam, đặc biệt là thủ đô Hà Nội, nhằm đặt họ trước một sự đã rồi, không
thể đảo ngược đươc. Sự kiện vua Bảo Đại thoái vị được nhắc tới và câu
"Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của
bọn thực dân Pháp" là nhằm vào mục tiêu này.
Một
lý do khác cũng được người ta nhắc tới là cho mãi đến ngày 2 tháng 9
năm 1945 nền độc lập của Việt Nam vẫn chưa có gì gọi là hoàn toàn, chưa
được quốc tế chính thức công nhận hay nếu cộng nhận là qua Vua Bảo Đại,
người lãnh đạo hợp pháp chứ không phải với Hồ Chí Minh, một nhân vật vô
danh, hoàn toàn xa lạ, nhất là đối với người Pháp. Vấn đề tuy nhiên còn
cần phải được xét lại.
Cuối cùng thì những lý do liên hệ tới nhu cầu của cá nhân Hồ Chí Minh và Việt Minh cộng sản vẫn là chính.
2. Nguyên văn bản Tuyên Ngôn
Hỡi đồng bào cả nước,
"Tất
cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời
bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng
ra, câu ấy có ý nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do.
Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói :
"Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế
mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình
đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của
chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng
thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung,
Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân
tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cầy và dân buôn, trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Mùa
thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông-dương để mở thêm căn cứ
đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta
rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích : Pháp và Nhật. Từ đó
dân ta càng cực khổ nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm
nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày
9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khi giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân
Pháp hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thế mà chẳng những chúng không "bảo hộ"
được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước
ngày 9 tháng 3 biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh
để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng
bố Việt Minh nữa.
Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy
vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và
nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều
người Pháp chạy qua bên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp chạy ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự
thật là từ đầu mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật,
chứ không phải là thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì
nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa.
Sự thật thì dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng
xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc
lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế
độ dân chủ cộng hòa.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của
nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly
hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký
về nước Việt Nam, xóa bỏ hết mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt
Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng
tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc
bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể
không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một
dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một
dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân
tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !
Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng :
Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước
tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững tự do, độc lập ấy.
(Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1976)
3. Phân tích nội dung
Bản
Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, vì được phổ biến rộng rãi và hầu
như được coi là duy nhất gắn liền với ngày 2 tháng 9, ngày Quốc khánh
của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, rồi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam,
nên đã được nhiều người đọc, phân tích và tìm hiểu. Trong phần này người
viết chỉ nêu lên những gì ít được mọi người nhắc đến hay để ý đến mà
thôi.
Trong
khi Tuyên cáo của Hoàng đế Bảo Đại đơn giản chỉ là một bản văn thuần
túy pháp lý nhằm hủy bỏ hòa ước bảo hộ mà triều đình Huế đã ký trước đó,
căn cứ vào sự bất lực của người Pháp, vì người Pháp đã không giữ được
cam kết ghi trong điều khoản thứ nhất và điều khoản thứ mười lăm của hòa
ước này, mà không nhằm vào một đối tượng quần chúng hay quốc tế nào,
thì bản Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh nhằm vào toàn thể người Việt qua lời
mở đầu "Hỡi đồng bào cả nước…".
Tuy nhiên ở những đoạn cuối Hồ Chí Minhlại
nhắm vào các nước Đồng minh. Điều này phải tinh ý người ta mới nhận ra
được. Về tư cách, Bảo Đại nhân danh Hoàng đế Việt Nam, người đứng đầu
của một quốc gia độc lập đã tồn tại từ trước khi người Pháp xâm lăng và
là người kế thừa chính thống của các vua chúa Nhà Nguyễn, thì Hồ Chí
Minh đã nhân danh "Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới". Mới là vì
đến ngày đó chính phủ này mới chính thức được ra mắt trước quốc dân.
Lời
văn do đó phản ảnh hai tư cách của bản chất của hai con người khác
nhau. Một người là hoàng đế kế thừa chính thống của một triều đại đã trị
vì một quốc gia từ hơn non bốn trăm năm trước, dù cho là chỉ còn hư vị ;
người kia là lãnh tụ của một phong trào cách mạng vừa chủ trương chống
Pháp, vừa chủ trương chống Nhật và lật đổ chế độ quân chủ để giành chính
quyền. Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại là văn phong bình
thường của người cầm quyền ; còn văn phong của Hồ Chí Minh mang tính
cách kêu gọi và ở một mức độ nào đó có tính cách bình dân, kể lể dài
dòng và nhất là xách động.
Mở
đầu cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã trích dẫn một số câu trong phần
đầu của Bản Tuyên ngôn Độc lập của người Mỹ và một câu trong bản Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách Mạng Pháp. Sự trích dẫn này, vào
lúc mà sự hiểu biết của quần chúng Việt Nam còn thấp kém, đặc biệt là về
lịch sử Hoa Kỳ và thế giới, chắc chắn không nhằm vào quần chúng người
Việt mà nhằm vào người Mỹ và người Pháp.
Lý do là Hồ Chí Minh như là một đảng viên cộng sản quốc tế chắc chắn đã
hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm này đã đóng một vai trò vô
cùng quan trọng trong chính tình ở Á Châu, trong đó có Việt Nam. Được
nguời Mỹ công nhận là coi như làm chủ được chính quyền. Hiểu được như
vậy, ngay từ khi còn ở chiến khu Hồ Chí Minh đã tìm cách tiếp xúc và
cộng tác với người Mỹ của cơ quan OSS từ hồi còn ở chiến khu, và đã yêu
cầu họ cung cấp cho ông một bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, đồng
thời nói về lịch sử nước Mỹ như là một cách để chinh phục cảm tình của
họ.
Đó
chính là lý do tại sao ngày 29 tháng 8 năm 1945, hai ngày trước khi Hồ
Chí Minh tuyên đọc bản Tuyên ngôn Độc lập của ông, lúc 10 giờ 30 sáng,
ông đã cho xe tới chở Archemedes L. A. Patti, trưởng nhóm tình báo OSS
mới tới Hà Nội không lâu tới gặp ông. Mục đích của cuộc gặp mặt, theo Hồ
Chí Minh không phải là để bàn về chuyện người Tàu mà là để nói về những
gì ông đã làm vài ngày trước đó (buổi họp ngày 27/8
về Chính phủ Lâm thời) và ít ngày sau đó (ngày 2 tháng 9 đã được chọn
là Ngày Độc Lập, Hồ Chí Minh sẽ tuyên bố Việt Nam độc lập và giới thiệu
thành phần chính phủ lâm thời) với Patti như là người đầu tiên được
biết. Quan trọng hơn hết ở đây là Hồ Chí Minh đã cho Patti coi bản nháp
của bản Tuyên ngôn Độc lập của ông bằng tiếng Việt mà Pattti không đọc
được và chỉ hiểu sơ sơ qua lời một thông ngôn… (19).
Vì
chỉ nhằm mục tiêu lôi cuốn sự chú ý và cảm tình của người Mỹ, Hồ Chí
Minh đã không đi xa hơn nữa và rất có thể ông cũng không hiểu rõ hơn hay
cố tình không hiểu sự khác biệt trong quá trình giành độc lập của mười
ba thuộc địa của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII và của nước Việt Nam
thời năm 1945.Vì vậy ông đã áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền bình
đẳng, quyền được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc của
mọi-người-như-là-những-cá-nhân riêng lẻ theo đúng như tinh thần của bản
Tuyên ngôn Độc lập của người Mỹ vào trường hợp chung của cả nước Việt
Nam-như-một-quốc-gia đòi quyền độc lập một cách gượng ép hay ít ra là suy luận theo quan điểm chủ quan của ông với dụng ý riêng của ông. Cũng vậy với những gì ông trích dẫn từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách Mạng Pháp.
Phần
kế tiếp, Hồ Chí Minh lên án người Pháp và người Nhật, đồng thời ông kể
công cho Việt Minh : "Trước ngày mồng 9 tháng 3, đã bao lần Việt Minh đã
kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật...", sau đó "đã giúp cho
nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi
nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ" và kết luận rằng
"Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải
từ tay Pháp". Điều này như người viết đã nói ở trên là không đúng sự
thật.
Sự
thật là Chính Phủ Bảo Đại - Trần Trọng Kim đã lấy lại được toàn thể
nước Việt Nam từ Bắc chí Nam, bao gồm luôn cả xứ Nam Kỳ từ trong tay
người Nhật, trước khi người Nhật đầu hàng và Việt Minh đã cướp chính
quyền từ trong tay của chính phủ Bảo Đại - Trần Trọng Kim trong những
ngày 17 và 19 tháng 8 năm 1945 sau đó, sau khi Nhật đã đầu hàng, nói
cách khác sau ngày 15 tháng 8 năm 1945. Lý do là vì Việt Minh "đã có
đường riêng của họ rồi", nói theo Phan Anh, Bộ trưởng Thanh niên trong
Chính phủ Trần Trọng Kim và sau này là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong
Chính phủ Liên hiệp của Hồ Chí Minh (20). Trong những đoạn này Hồ Chí
Minh đã dùng các từ ngữ ta hay "dân ta" hay "đất nước ta", nhưng mục
đích không nhằm vào người Việt Nam mà vào người Pháp.Ông đã kể công với người Pháp, giữ một cánh cửa mở, phòng ngừa họ trở lại.
Phần
cuối cùng của bản văn, từ "Bởi thế cho nên..." cho đến hết, lời văn cho
người ta thấy Hồ Chí Minh không hướng về người Việt mà về cả thế giới.
Trong phần này ông xưng là "chúng tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho
toàn dân Việt Nam" để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi
các nước Đồng minh công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam... Phần này
Hồ Chí Minh thay vì nói về quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc của mọi-người-như-những-cá-nhân do Tạo hóa ban cho, những
quyền phải hiểu là tự nhiên ai cũng có, đã nói về quyền hưởng tự do và
độc lập. Đây là một lập luận có tính cách cưỡng ép, hoàn toàn không đúng
với tinh thần của bản Tuyên ngôn Độc lập của người Mỹ và nhất là của
bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp mà danh xưng
của nó đã nói lên một cách rõ ràng : Nhân quyền và Dân quyền, không thể
hiểu sai được.
Độc
lập của một dân tộc không phải luôn luôn đồng nghĩa với tự do, dân
quyền và nhân quyền của mỗi một cá nhân người dân như một thành phần của
dân tộc ấy. Không những thế, thay vì coi những quyền này là do Tạo hóa
ban cho, Hồ Chí Minh lại lý luận là vì dân tộc Việt Nam là "Một dân tộc
đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã
gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó
phải được tự do ! Dân tộc ấy phải được độc lập !". Lý luận như vậy người
ta phải hiểu, theo Hồ Chí Minh, rằng những dân tộc không gan góc chống
lại những thế lực đè nén, áp bức mình và không gan góc đứng về phe Đồng
Minh, chống phát-xít là không đáng được tự do, độc lập.
Cũng
vậy, với các quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người
như là những cá nhân trong xã hội. Chính vì vậy Luật sư Trần Thanh
Hiệp, khi được Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đã
có lý khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh này là "một bản tuyên
ngôn phi nhân quyền" (21) dù cho là nó đã được chính tác giả của nó
trích và soạn thảo theo tinh thần của bản Tuyên ngôn Độc lập của người
Mỹ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của người Pháp. Nhưng dù
nói thế này hay thế khác sự kiện này đã phản ảnh chủ trương giai đoạn
của những người cộng sản Việt Nam mà Hồ Chí Minh ở đây là một trường hợp
điển hình.
Về
thời gian soạn thảo, nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh chỉ có ít ngày
sau khi ông từ chiến khu của Việt Minh về Hà Nội, trong khi ông còn phải
bận rộn với nhiều vấn đề cấp bách khác. Điều này không đúng vì trước đó
từ lâu, như đã nói ở trên, khi tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, ông
nhờ người này kiếm cho ông một bản tuyên ngônđộc lập của người Mỹ rồi (22).
Nói
cách khác, Hồ Chí Minh đã nghĩ tới và đã thai nghén bản tuyên ngôn của
ông từ lâu chứ không phải chỉ ít ngày trước ngày 2 tháng 9 năm 1945. Do
đó những gì ông nói tới, những từ ngữ ông dùng đều được cân nhắc kỹ càng
và đều có dụng ý riêng với những mục tiêu riêng mà chỉ sau này phải
phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể sau này khi mọi việc liên hệ đã xảy
ra rồi, người ta mới có thể hiểu được.
Điều
đáng tiếc là khi thực thi những gì ông đã trích dẫn và đề cao trong bản
tuyên ngôn của ông, Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông và sau này
những người nối nghiệp ông trong Đảng cộng sản Việt Nam chỉ thực thi
những gì ông đã suy rộng ra theo lối suy luận loại suy (độc lập của dân
tộc) mà làm ngược lại những gì đích thực về nhân quyền và quyền tự do
mưu cầu hạnh phúc của từng cá nhân con người, theo đúng nguyên bản của
bản Tuyên ngôn Độc lập của người Mỹ cũng như bản Tuyên ngôn Nhân quyền
và Dân quyền của ngưòi Pháp.
Nói
cách khác, Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông trong đó có Trường
Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, cũng như hậu duệ của các ông, thay
vì đi theo con đường tự do, dân chủ của các nhà lãnh đạo của cuộc Cách
Mạng Hoa Kỳ, trong đó có Washington, Jefferson, dựa theo đúng tinh thần
của bản Tuyên ngôn Độc lập của họ mà các ông đã trích dẫn phần mở đầu,
đã theo con đường của Lê-nin, Xít-ta-lin và Mao Trạch Đông.
Hậu
quả là 67 năm sau, bà Hillary Clinton, Ngoại trưởng Hoa Kỳ, đã phải
công khai nhắc người đồng nhiệm của bà ở Việt Nam và luôn cả các ông
Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng chính phủ và Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư
Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam.
Người
ta không hiểu là khi làm công việc nhắc nhở này, bà Clinton có biết
rằng 67 năm trước Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập của ông với
phần trích dẫn về nhân quyền từ bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ hay
không ? Người viết tin là có. Cũng vậy với Đại sứ David Shear khi ông
này tới thăm Bác sĩ Nguyễn Đan Quế và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ở
Sài Gòn.
Nhưng
dù có hay không, khi trích dẫn những tài liệu này, Hồ Chí Minh và từ đó
Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã mắc một món nợ tinh thần với cả hai dân
tộc Mỹ và Pháp và nhân ngày 2 tháng 9 năm 2018 này, những ai quan tâm
đến vấn đề nhân quyền và dân quyền ở Việt Nam hiện tại, nhất là người Mỹ
và người Pháp, nên nhắc nhở những người đang nắm vai trò lãnh đạo ở
quốc gia này phải tôn trọng và thực thi những gì Hồ Chí Minh, người đã
khai sáng nên chế độ của họ cần phải "thật thà" như ông thường khuyên
mọi người, đặc
biệt là các "cháu ngoan" của ông, coi như một giá trị đạo đức, coi
trọng những lý tưởng mà người sáng lập ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
đã viện dẫn từ hai bàn Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của Pháp, coi như một hình thức trả nợ mà bình
thường mọi người đều phải làm, nếu không muốn mang tiếng là lừa đảo.
Về điểm này, tuy nhiên, người ta cũng cần phải dè dặt vì bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng
9 năm 1945 sau đó đã bị sửa lại nhiều lần cũng giống như bức thư gửi Hồ
Chí Minh gửi cho các học sinh nhân lễ khai trường đầu tiên khi nước Việt Nam mới được độc lập cùng năm mà người viết bài này đã phải học thuộc lòng, cho đến giờ này hãy còn nhớ từng chữ.
Người
ta không biết những chi tiết nào đã bị sửa nhưng theo nhà nghiên cứu
Nguyễn Thành từ Hà Nội, trong bài viết nhan đề "Trong Lịch sử nước ta đã
có hai hay ba bản Tuyên ngôn Độc lập" đăng trong Nghiên cứu Lịch sử, số
1 (278), (I- II), 1995, "lại có nhiều dị bản, sai nhau đến 22 từ, được
sửa đi sửa lại nhiều lần từ sau ngày 2/9/1945 đến năm 1973 thì thật
không thể hiểu nổi" (23).
1945 – 2018. Bảy
mươi ba năm đã trôi qua. Đã đến lúc người ta phải trả lại lịch
sử những gì gọi là sự thực của nó khi tìm hiểu hai bản
tuyên ngôn này, đồng thời trả tất cả những món nợ mà vì bất
cứ lý do gì những người đi trước đã mắc phải, nhất là nợ
chính đồng bào mình.
Một
điều khác vô cùng quan trọng độc giả cũng nên để ý khi tìm
hiểu hai bản tuyên ngôn này là mục tiêu tối hậu của những
người cộng sản không phải là độc lập cho quốc gia, đất nước
và dân tộc Việt Nam mà là cách mạng quốc tế vô sản và xã
hội chủ nghĩa theo quan niệm riêng của họ, như người ta đã thấy
ngay từ những năm đầu của thập niên 1950 với sự thúc đẩy của
Nga Xô và Trung Cộng. Tranh đấu cho nền độc lập của quốc gia
chỉ là một chiêu bài, một phương tiện họ dùng để đạt mục tiêu
tối hậu này. Những gì Hồ Chí Minh nói trong bản tuyên ngôn
của ông do đó chỉ nhằm mục tiêu xách động quần chúng nhất
thời, sau đó không còn được chính ông và hậu duệ của ông tôn
trọng, chưa nói là làm ngược lại, trong đó có những gì ông
nặng nề lên án người Pháp.
Phạm Cao Dương
Khởi sự viết năm 2012, sửa lại mùa Khai trường năm 2018
Chú thích :
(1) Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). Hà Nội : Nhà xuất bản Giáo Dục, 2002, tr. 288.
(2) Lệ Thần Trần Trọng Kim. Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục). Sài Gòn : Nhà xuất bản Vinh Sơn, 1969, tr. 49.
(3) nt, tr. 51.
(4) Dương Trung Quốc. Việt Nam, đã dẫn, tr.388 ; Nguyễn Vỹ. Tuấn, Chàng trai nước Việt (Chứng tích thời đại từ 1900 đến 1970), Quyển II. Sài Gòn, 1970. Fort Smith, AR tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 512. S. M. Bao Dai. Le Dragon d’Annam. Paris : Plon, 1990. tr. 104 ; Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, Hồi Ký Chánh Trị 1913-1997. Los Alamitos, CA : Nguyễn Phước Tộc xuất bản, 1990, tr. 162 ; Cameron, Alan W. Vietnam Crisis. A Documentary History, Vol. I, 1940-1956.
Ithaca, NY : Cornell University Press, 1971. tr. 31-32 ; Hai bản tiếng
Việt in trong tác phẩm của Dương Trung Quốc và tác phẩm của Nguyễn Vỹ
hơi khác nhau về ngôn từ nhưng hoàn toàn giống nhau về nội dung. David
G. Marr trong Vietnam 1945, The Quest for Power (Berkeley :
University of California Press, 1995), trang 71 có nói tới bản tiếng
Việt và tiếng Pháp ở văn khố Pháp và bản đăng trên tờ Dân Báo, ngày 12 tháng 3. Vũ Ngự Chiêu cũng nói tới tờ Tin Mới, nhưng nhất thời nguời viết bài này chưa đến được các nơi cần đến để tìm kiếm.
(5) S.M. Bao Dai, Le dragon d’Annam, đã dẫn, tr. 104.
(6) Taboulet, Georges. La teste Francaise en Indochine, histoire par les textes de la France en Indochine des origines à 1914, tome II. Paris, Adrien-Maisonneuve, 1956. Tr. 809-812 ; Phan Khoang, Việt Nam Pháp thuộc sử, 1884-1945. Sài Gòn, 1961, tái bản ở Hoa Kỳ, tr. 322-328.
(7) Phạm Hồng Tung, "Trao đổi về một số ý kiến liên quan đến lịch sử Nội các Trần Trọng Kim và Cách mạng tháng Tám" trong Nghiên Cứu Lịch Sử, Số 8 (424), 2011, tr. 55.
(8) Phạm Khắc Hoè. Từ Triều đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc. Huế : Thuận Hóa, 1987, tr. 16.
(9) Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký "1925-1964". Sài Gòn, 1964, tr. 168-169.
(10) Phạm Khắc Hoè, Từ Triều đình Huế…, đã dẫn, tr. 16-17.
(11) Giáo
sư Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn chủ biên, Lữ Huy Nguyên sưu tầm biên soạn.
Hà Nội : Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1980, tr. 812 – 823.
(12) Hà Nội : Éditions en Langues Étrangères, 1971, tr. 51.
(13) S.M. Bao Dai. Le Dragon…, tr. 103.
(14) Võ Nguyên Giáp. "Những năm tháng không thể nào quên", trong Tổng tập Hồi ký. Hà Nội : Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân, 2006, tr. 255.
(15) Phạm Khắc Hoè. Từ Triều đình Huế…., tr. 76.
(16) Phùng Quán. Ba Phút Sự Thật. Thành Phố Hồ Chí Minh : Nhà xuất bản Văn Nghệ, 2006, tr. 114-115.
(17) Hồ Chí Minh. Tuyên ngôn Độc lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hà Nội : Nhà xuất bản Sự Thật, 1976, tr. 13. Nguyễn Khánh Toàn và Lữ Huy Nguyên, Tổng tập Văn học Việt Nam, Tập 36. Hà Nội, 1980, tr. 812-823.
(18) nt, tr. 134.
(19) Patti, Archimedes L.A. Why Vietnam ? Prelude to America’s Albatoss. Berkeley ; University of California Press, 1980, tr. 223.
(20) Thụy Khuê, Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp. California : Văn Nghệ, 2002, tr. 180-181.
(21) Trần Thanh Hiệp và Trương Giang. "Một bản Tuyên ngôn phi nhân quyền", Nhật báo Người Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007.
(22) Sĩ quan này là Trung úy Dan Phelan, người đã nhảy dù xuống gặp Hồ Chí Minh trong chiến khu của ông này. Xin xem : Fenn, Charles, Ho Chi Minh, A Bibliographical Introduction, New York : Scribner’s Sons, 1973, tr. 81-82 ; Duiker, William J. Ho Chi Minh.
New York :Hyperion, 2000, tr. 301 ; Against Japan. Lawrence, Kansas :
University of Kansas, 2006, tr. 243-244 ; bản dịch tiếng Việt của Lương
Lê Giang nhan đề OSS và Hồ Chí Minh, Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật. Hà
Nội : Nhà xuất bản Thế Giới, 2007, tr. 367-368. Xin để ý : trong nhan
đề tiếng Việt người dịch đã thêm hai chữ phát xít vào danh xưng Nhật.
(23) Số 1 (278), (I- II), 1995, tr. 186. Vì sao giới trẻ Mỹ nay thích chủ nghĩa xã hội ?
----------------------------------------
Tác
giả Phạm Cao Dương, Giáo sư Tiến sĩ Sử học, cựu Giáo sư các trường đại
học Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975. Sau 1975, ông là Giáo sư chuyên vế
Văn hóa và Lịch sử Việt Nam tại một số đại học Mỹ, trước khi nghỉ hưu.