Vụ án Trịnh Bá Phương: Nhìn lại về những thảm kịch đất đai của dân tộc – Phần 1 (Nhật Viễn)

Ngày 27/12/2025 tới đây, tòa án tối cao sẽ đưa anh Trịnh Bá Phương ra xét xử phúc thẩm với cáo buộc “làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống nhà nước” theo Điều 117 Bộ luật hình sự. Trong phiên tòa sơ thẩm ngày 27/9/2025, toà án thành phố Đà Nẵng đã kết án anh Phương 11 năm tù dù cho Viện kiểm sát thành phố chỉ đề nghị mức án tù từ 9 đến 10 năm. Thẩm phán đã cho cảnh sát tư pháp bóp miệng ngăn không cho anh Phương nói hết phát biểu cuối cùng của mình. Các Luật sư bào chữa cho anh Phương -Luật sư Lê Văn Luân và Luật sư Nguyễn Thị Trang- cũng không được tôn trọng hơn anh Phương là bao. Thẩm phán chủ toạ ngắt lời hai vị Luật sư này và ngắt lời cả anh Phương vì cho rằng lời trình bày của các Luật sư và anh Phương là “dài dòng” và cảnh cáo các Luật sư là sẽ “chấm dứt tư cách luật sư của họ” nếu còn tiếp tục trình bày. Ông thẩm phán chủ toạ này còn nói với các Luật sư là nếu cần ông ta có thể xét xử vắng mặt bị cáo.
Tang Chứng Từ Trên Trời Rơi Xuống
Sự thô bạo của phiên toà không dừng lại tại đây. Cáo buộc đối với anh Trịnh Bá Phương dựa trên một sự kiện đó là trong một lần khám xét phòng biệt giam số I.3 vào ngày 18/11/2024, cán bộ trại giam An Điềm đã phát hiện ra một khẩu hiệu có nội dung “ĐẢ ĐẢO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN, ĐẢ ĐẢO TOÀ ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI”. Các cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng khẩu hiệu này – tang chứng duy nhất của vụ án – là do anh Phương làm ra, do đó kết luận anh Phương đã có hành vi “làm ra tài liệu, vật phẩm nhằm chống nhà nước”. Cáo buộc kể lể rằng tang chứng – tờ khẩu hiệu – được anh Phương làm ra bằng cách lấy bút lông màu đen viết lên một tờ giấy caro khổ A3 do anh Phương mua ở căng tin trại giam bằng tiền lưu ký, sau đó dán tờ giấy caro khổ A3 vào tờ báo Kinh tế Sài Gòn.
Tuy được kể lể một cách hùng hồn, chi tiết, tường tận nhưng nội dung cáo buộc anh Phương là người làm ra khẩu hiệu – tang chứng duy nhất của vụ án – chỉ là lời nói một chiều, hoàn toàn không dựa trên một bằng chứng nào. Đầu tiên, để xác định khẩu hiệu có do một người viết ra hay không, cơ quan điều tra phải tiến hành biện pháp giám định chữ viết. Họ sẽ yêu cầu cơ quan giám định kỹ thuật hình sự so sánh chữ viết trên khẩu hiệu khổ A3 và mẫu chữ viết do anh Phương cung cấp để đánh giá chữ viết trên khẩu hiệu và chữ viết mẫu có phải của cùng một người hay không. Tuy nhiên, khi nhận được yêu cầu giám định chữ viết của cơ quan điều tra, cả Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Quảng Nam và Phân viện Khoa học Hình sự Bộ công an tại Đà Nẵng đều từ chối giám định chữ viết với lý do không đảm bảo điều kiện giám định. Việc này lặp đi lặp lại hai lần và cả hai cơ quan giám định kỹ thuật hình sự, một ở cấp bộ và một ở cấp tỉnh, đều từ chối giám định với cùng một lý do, chứng tỏ sự chắc chắn của các cơ quan giám định hình sự về vấn đề chữ viết. Như vậy, cơ quan điều tra hoàn toàn không có cơ sở chứng minh được chữ viết trên khẩu hiệu khổ A3 là của anh Phương.
Cáo buộc cũng không chứng minh được tờ giấy caro khổ A3 là do anh Phương mua vào lúc nào. Cơ quan điều tra chỉ dựa vào lời khai của nhân viên căng tin trại giam nhưng hoàn toàn không thu thập được bất kỳ sổ sách, phiếu mua nào làm bằng chứng ghi nhận việc mua giấy A3 như cáo buộc khẳng định. Bản thân những người làm chứng được triệu tập đến phiên toà cũng khẳng định họ chỉ được cán bộ trại giam mời đến chứng kiến việc khám phòng giam số I.3. Họ không hề chứng kiến anh Phương có ngồi viết hay cắt dán tờ khẩu hiệu khổ A3 kia.
Như vậy, cơ quan điều tra hoàn toàn không chứng minh được chữ viết trên khẩu hiệu khổ A3 là của anh Phương, họ cũng không chứng minh được nguồn gốc của tờ giấy caro khổ A3. Đây đều là những yếu tố dùng để xác định anh Trịnh Bá Phương có làm ra khẩu hiệu trên giấy caro khổ A3 hay không. Không chứng minh được các yếu tố này có nghĩa là không có cơ sở để kết luận anh Trịnh Bá Phương là người làm ra tờ khẩu hiện trên khổ giấy A3 như cơ quan điều tra cáo buộc. Không những thế, ngay sau khi nội dung hồ sơ vụ án được công bố, ông Nguyễn Bắc Truyển – một tù nhân chính trị từng bị giam giữ tại trại giam An Điềm – đã đăng tải một phát biểu cho rằng có khả năng tờ khẩu hiệu dùng để kết tội anh Trịnh Bá Phương là do chính ông Truyển làm ra. Ông Truyển tiết lộ, trong thời gian bị giam giữ ở trại giam An Điềm, ông có viết một số khẩu hiệu lên tờ giấy A3 sau đó dán lên tờ báo, trong đó có khẩu hiệu có nội dung tương tự khẩu hiệu trong vụ án. Ông Truyển đặc biệt chú ý đến chi tiết tờ báo Kinh tế Sài Gòn dán ở mặt sau tờ giấy A3 được dùng làm khẩu hiệu. Ông Truyển khẳng định do cá nhân ông rất thích đọc báo Kinh tế Sài Gòn nên vợ ông luôn gửi vào cho ông đọc và trong trại giam chỉ có ông mới có loại báo này, do vậy nhiều khả năng khẩu hiệu trong vụ án này là do trại giam An Điềm tịch thu của ông, sau đó họ dùng để kết tội anh Phương.
Quyền Tự Do Biểu Đạt, Tự Do Ngôn Luận và Ý Kiến
Trong vụ án áp dụng Điều 117 bộ luật hình sự, đối với hành vi “làm ra tài liệu, vật phẩm nhằm chống chính nhà nước” như trong vụ án này, cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh được hai yếu tố: thứ nhất, phải chứng minh được anh Phương đã làm ra tài liệu, vật phẩm – cụ thể là tờ khẩu hiệu; thứ hai, nội dung của tờ khẩu hiệu nhằm chống nhà nước. Hai yếu tố này phải được chứng minh đồng thời, thiếu một yếu tố cũng không thể kết tội anh Trịnh Bá Phương. Hồ sơ vụ án đã thể hiện các cơ quan tiến hành tố tụng không thu thập được bất kỳ bằng chứng nào chứng minh được anh Phương đã làm ra tờ khẩu hiệu có nội dung “ĐẢ ĐẢO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN, ĐẢ ĐẢO TOÀ ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI”. Hơn nữa, có thông tin khả tín còn chứng tỏ khẩu hiệu này do ông Nguyễn Bắc Truyển làm ra và đã bị trại giam An Điềm thu giữ từ lâu.
Cần phải khẳng định, cho dù tờ khẩu hiệu có nội dung như thế nào đi chăng nữa thì đó cũng thuộc phạm trù của quyền tự do biểu đạt, quyền tự do ngôn luận. Ngoại trừ những trường hợp trắng trợn kêu gọi bạo lực hoặc phân biệt đối xử, chính quyền không được phép cấm cản một cá nhân thực hiện quyền tự do biểu đạt, quyền tự do ngôn luận – những quyền đã được chính quyền cộng sản thừa nhận và cam kết tôn trọng khi họ tham gia vào Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR năm 1966). Quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt là quyền quan trọng nhất trong các quyền con người. Nó không chỉ là phương tiện để mọi người trong xã hội trao đổi thông tin, ý kiến, đóng góp để xã hội tiến lên mà còn là phương thức để chúng ta thực hiện và bảo vệ các quyền con người khác. Không có gì khó hiểu khi các chế độ độc tài và các thế lực chuyên chế luôn tấn công trước hết đến quyền tự do ngôn luận và biểu đạt hoặc đầu độc, làm nhiễu loạn môi trường thông tin và không gian trao đổi của các công dân để hạn chế hiệu năng của quyền tự do ngôn luận và biểu đạt, với mục đích sau cùng là để nô dịch và khống chế mọi người. Điều 117 – “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống nhà nước” và Điều 331 – “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” của bộ luật hình sự năm 2015 là những điều luật xâm phạm trực tiếp đến quyền tự do ngôn luận và biểu đạt. Công dân có quyền phát biểu về quan điểm chính trị của mình, có quyền phê bình hoặc bày tỏ sự không hài lòng, thậm chí bày tỏ sự đả kích với chính quyền. Ngôn luận có logic vận hành riêng của nó. Nếu chính quyền cộng sản tự tin là mình đúng, tự hào là mình không làm gì sai thì hãy cứ để mọi người trình bày quan điểm chính trị của họ, sau đó hãy để logic của ngôn luận được vận hành và công luận tự sẽ có đánh giá của công luận. Người sai sẽ mất uy tín còn kẻ đặt điều hiển nhiên sẽ không còn tư cách.
Một Lực Lượng Chiếm Đóng?
Ngay cả trường hợp anh Trịnh Bá Phương có viết câu khẩu hiệu “ĐẢ ĐẢO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN, ĐẢ ĐẢO TOÀ ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI” thì cần phải khẳng định câu khẩu hiệu này hoàn toàn không chống nhà nước hay chính quyền. Điều 117 bộ luật hình sự ghi rõ là nhằm chế tài hành vi chống nhà nước nghĩa là câu khẩu hiệu phải nhắm tới chống nhà nước thì ít ra mới có cơ sở để buộc tội người làm ra khẩu hiệu đó. Trong khi đó câu khẩu hiệu trên chỉ nhắc tới và đả kích đảng cộng sản Việt Nam mà thôi. Ngay cả nếu xét đến vế sau của câu khẩu hiệu có nhắc đến một chế định trong bộ máy nhà nước là toà án thì vế sau đó cũng không nhắm tới nhà nước. “Toà án” ở đây là “toà án cộng sản” nghĩa là toà án bị đảng cộng sản khống chế, thao túng và điều khiển chứ không còn là một toà án đứng đắn có vai trò phân xử công lý nữa. Nếu thay đổi “ĐẢ ĐẢO TOÀ ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI” thành “ĐẢ ĐẢO ĐẢNG CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI” thì cũng không thay đổi bản chất của câu khẩu hiệu.
Chế độ chắc chắn sẽ phản ứng với lập luận này. Họ sẽ nói nhà nước Việt Nam là do đảng Cộng sản lãnh đạo do đó đả kích đảng Cộng sản là chống nhà nước rồi. Lý luận này hoàn toàn tầm bậy và xấc xược. Đảng Cộng sản và Nhà nước là hai thực thể khác nhau, chính vì khác nhau nên mới có chuyện đảng Cộng sản cứ cố nhận họ là lực lượng lãnh đạo Nhà nước như tại Điều 4 hiến pháp. Lý luận “vì ta lãnh đạo nhà nước” nên “chống ta là chống nhà nước” đâu có khác gì thời kỳ quân chủ khi vua chúa coi mình là tối thượng, mọi phê phán đối với vua chúa đều là hành vi “khi quân phạm thượng”. Nếu cứ cố hiểu và đồng nhất đảng cộng sản với nhà nước thì đảng Cộng sản có lẽ mới tiến hoá được một nửa trên hành trình từ phong kiến lên tới một xã hội văn minh mà thôi.
Dĩ nhiên chúng ta đều biết trên thực tế trong bộ máy nhà nước hiện nay, từ vị trí phó phòng trở lên trong các cơ quan hành chính, trường học, bệnh viện hay công ty quốc doanh, đều phải là đảng viên. Thậm chí các chức vụ này hoàn toàn không dành cho các đảng viên thông thường. Muốn được bổ nhiệm vào đó, đảng viên phải được các trường chính trị phát cho một chứng chỉ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên mới đủ điều kiện. Sĩ quan công an và quân đội cũng đều phải là đảng viên. Thậm chí sĩ quan quân đội còn được định nghĩa trong luật Sĩ quan quân đội là “cán bộ của đảng cộng sản trong quân đội”. Chúng ta cũng biết Mặt trận tổ quốc chỉ là tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản nhưng gần đây, đảng Cộng sản đã sửa quy định về mặt trận tổ quốc trong hiến pháp năm 2013, theo đó từ nay mặt trận tổ quốc được quy định đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đảng cộng sản để khỏi ai phải thắc mắc. Đảng cộng sản đang hành xử như một lực lượng chiếm đóng.
Tất nhiên không ai muốn gọi đảng cộng sản như thế. Các đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn là người Việt Nam mà. Nhưng chúng ta phải hiểu như thế nào khi đảng cộng sản vẫn tiếp tục hành xử coi đất nước là của riêng, khi bắt buộc công an phải “còn đảng còn mình” còn quân đội bắt buộc phải “trung với đảng” và khi dành các vai trò quyết định trong bộ máy nhà nước cho một số ít người trong phe đảng của họ. Và chúng ta phải hiểu như thế nào khi họ đồng nhất đảng với nhà nước như cách họ hiểu và áp đặt Điều 117 bộ luật hình sự trong các vụ án chính trị hay như cách họ đang cố hiểu câu khẩu hiệu trong vụ án Trịnh Bá Phương?
Phiên Tòa Kích Động Hận Thù
Như vậy, cả hai yếu tố cấu thành tội danh quy định tại Điều 117 bộ luật hình sự đều không thoả mãn trong vụ án Trịnh Bá Phương. Bản thân Điều 117 đã là một điều luật vô nghĩa khi trực tiếp xâm phạm đến quyền tự do ngôn luận và biểu đạt. Nghiêm trọng hơn, cơ quan tố tụng còn dùng một tang vật từ trên trời rơi xuống, không phải do anh Phương làm ra để kết tội anh. Sự việc này còn nghiêm trọng hơn chuyện mua con dao và cái thớt ở ngoài chợ làm tang vật kết tội anh Hồ Duy Hải giết người.
Câu hỏi đặt ra, tại sao chính quyền phải cố gắng kết án trả thù anh Trịnh Bá Phương thêm 11 năm tù nữa. Anh Phương đang phải chịu một bản án 10 năm tù, vốn dĩ đã là một bản án khá nặng. Vụ án thứ hai này chỉ xoay quanh một tờ khẩu hiệu bé bằng tờ giấy A3. Đem tờ khẩu hiệu đó ra để khởi tố vụ án đã là điều khó hiểu vậy mà chính quyền lại chuyện bé xé ra to, đem ra kết án đến 11 năm tù.
Lý do đầu tiên là chế độ phải cố tỏ ra hung bạo để chứng tỏ mình còn rất mạnh. Đây là phản xạ thông thường của chế độ khi lúng túng trước hàng loạt các vấn đề của đất nước đang chồng chất trước mặt họ. Nhưng sự hung bạo chỉ khiến chế độ chỉ mất thêm nhân tâm và cảm tình của dư luận. Chế độ càng bị cô lập trên trường quốc tế sau khi đã mắc phải quá nhiều sự lố bịch trong phép xử thế trong nhiều sự kiện ngoại giao trước đó. Càng hung bạo, chế độ thực ra càng phơi bày sự thiếu tự tin.
Một lý do khác, quan trọng hơn, khiến chế độ đàn áp anh Trịnh Bá Phương trong phiên toà sơ thẩm là để khiêu khích. Bản án ngày 27/9/2025 đã đưa tổng số năm tù mà các thành viên gia đình anh Trịnh Bá Phương ở phường Dương Nội, quận Hà Đông, Hà Nội phải chịu vượt qua con số 40 năm. Một giáo trình về luật đất đai do Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản cách đây hơn chục năm xác nhận vào thời điểm đó cả nước có nửa triệu hồ sơ khiếu kiện về đất đai. Con số thực tế hiện nay có thể lên đến hàng triệu nhưng khó có thể có một trường hợp nào điển hình hơn trình hợp gia đình anh Trịnh Bá Phương. Đàn áp anh Trịnh Bá Phương và gia đình anh có mục đích nhắm đến để khiêu khích đại đa số dư luận và nhân dân Việt Nam. Thông điệp khiêu khích này được chế độ gửi đến khối hàng triệu dân oan và xát thêm muối vào những thảm kịch đất đai nhức nhối của dân tộc Việt Nam. Mưu tính của những người lãnh đạo chế độ là muốn gây thêm thù, chuốc thêm oán để người dân Việt Nam, nhất là khối dân oan, thêm căm thù chế độ. Họ muốn khơi lên ngọn lửa hận thù giữa người dân Việt Nam và chế độ để các thành phần của chế độ, những cán bộ, đảng viên, công an, quân đội lo sợ bị trả thù mà tử thủ cùng chế độ.

Dân oan Việt Nam
Tuy vậy, mưu tính này của những người lãnh đạo chế độ không đạt được kết quả. Chế độ rạn nứt hơn những gì mà lãnh đạo chế độ có thể cảm nhận được. Chiến dịch đốt lò đã tàn sát tình cảm nội bộ và khiến các đồng chí coi nhau như kẻ thù. Rồi đến lượt kế hoạch tinh gọn bộ máy và sáp nhập bộ máy hành chính gây đảo lộn, mất phương hướng cho biết bao nhiêu cán bộ, viên chức, đảng viên để rồi họ nhận ra đó chỉ là một công cuộc xào xáo để áp đặt bộ máy công an trị và kế hoạch “Hưng Yên hoá” chế độ. Dần dà, trong đại đa số cán bộ, viên chức, đảng viên, ngay cả sĩ quan công an và quân đội cũng nhận ra chế độ này không còn là của họ nữa. Việc chỉ định cấp uỷ và đoàn đại biểu dự đại hội cấp trên là cú knock-out cuối cùng vào dân chủ trong nội bộ đảng. Tình cảm giữa cán bộ, viên chức và đảng viên và chế độ càng ngày càng trở nên lãnh đạm. Trong tình cảnh như thế, người ta sẽ coi hành động hung bạo của cấp lãnh đạo là ý chí riêng, không liên quan đến họ, họ không chống đối nhưng cũng không muốn tiếp tay, nếu chưa có cơ hội xa lánh. Một chi tiết nhiều người không để ý, đó là suốt ba tháng nay kể từ khi phiên tòa sơ thẩm kết thúc, chưa có một tờ báo nào của nhà nước, dù lớn hay bé, đưa tin về phiên tòa. Sự im lặng một cách toàn diện tiết lộ một sự chia rẽ rất lớn trong nội bộ chế độ.
Mưu tính muốn gây thêm thù chuốc thêm oán để trói buộc cán bộ, viên chức, đảng viên và sĩ quan trong vòng xoáy hận thù không đạt được kết quả còn vì một sự kiện rất mới. Gia đình anh Trịnh Bá Phương không chỉ là một gia đình nông dân điển hình theo khía cạnh họ đã phải trải qua một quá trình tranh đấu hơn 15 năm cho quyền lợi đất đai. Họ còn điển hình và đặc biệt vì đã lựa chọn một thái độ tranh đấu ôn hoà, sử dụng lý lẽ và đối thoại. Sự hiền lành, khiêm tốn, có chừng mực nhưng cương quyết của các thành viên gia đình anh Trịnh Bá Phương đã đặt chế độ vào thế việt vị nhiều lần và chắc chắn đã khiến nhiều người của chế độ phải tự chất vấn và nhận ra rằng đón nhận họ ở phía bên kia làn ranh thù địch mà chính quyền tạo ra là sự bao dung, là tinh thần dân tộc và tình nghĩa đồng bào.
Nhật Viễn (26/12/2025)