Cho phép phá sản ngân hàng từ hôm nay 15/1 (Infonet)
Điểm đáng chú ý của Luật này là 
không có quy định nào về mua bắt buộc một TCTD với giá 0 đồng. Thay vào 
đó, Luật cho phép phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt tại Điều 152. 
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức 
tín dụng (TCTD) được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 4 và 
chính thức có hiệu lực từ ngày hôm nay, 15/1/2018. 
Điểm đáng chú ý của Luật này là 
không có quy định nào về mua bắt buộc một TCTD với giá 0 đồng. Thay vào 
đó, Luật cho phép phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt tại Điều 152.
Cụ
 thể, Ngân hàng Nhà nước trình Chính phủ quyết định chủ trương phá sản 
tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt theo quy định. Trong thời hạn 
30 ngày, kể từ ngày Chính phủ quyết định chủ trương phá sản TCTD được 
kiểm soát đặc biệt, Ban kiểm soát đặc biệt có trách nhiệm phối hợp với 
TCTD được kiểm soát đặc biệt, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam xây dựng phương
 án phá sản tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt trình Ngân hàng Nhà
 nước xem xét.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ 
ngày nhận được phương án phá sản, Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm xem 
xét, đánh giá tính khả thi của phương án, trình Chính phủ phê duyệt 
phương án phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt.
Phương
 án phá sản bao gồm các nội dung tối thiểu như: Đánh giá thực trạng và 
quá trình xử lý tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt được quyết định
 chủ trương phá sản; Đánh giá tác động của việc thực hiện phương án phá 
sản tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt đối với sự an toàn của hệ 
thống tổ chức tín dụng; Phương án chi trả tiền gửi của khách hàng là cá 
nhân; Lộ trình thực hiện và trách nhiệm triển khai phương án phá sản.
Theo Điều 145 của Luật này, trường hợp đặt TCTD vào kiểm soát đặc biệt khi lâm vào một trong các trường hợp sau đây:
Mất,
 có nguy cơ mất khả năng chi trả hoặc mất, có nguy cơ mất khả năng thanh
 toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; Số lỗ lũy kế của tổ chức tín
 dụng lớn hơn 50% giá trị của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trong 
báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất; Hai năm liên tục bị xếp 
hạng yếu kém theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; Không duy trì được tỷ
 lệ an toàn vốn quy định tại điểm b khoản 1 Điều 130 của Luật này trong 
thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn thấp hơn 4% trong thời
 hạn 06 tháng liên tục.
Ngân hàng Nhà nước quy 
định hình thức kiểm soát đặc biệt, thời hạn kiểm soát đặc biệt, gia hạn 
thời hạn kiểm soát đặc biệt, chấm dứt kiểm soát đặc biệt, công bố thông 
tin về việc kiểm soát đặc biệt tổ chức tín dụng;…
Điều
 151 quy định Ngân hàng Nhà nước trình Chính phủ quyết định chủ trương 
chuyển giao bắt buộc TCTD được kiểm soát đặc biệt là ngân hàng thương 
mại cho bên nhận chuyển giao khi có đủ các điều kiện: Giá trị thực của 
vốn điều lệ và các quỹ dự trữ âm; Có đề nghị của bên nhận chuyển giao.
Trong trường hợp chưa cần thiết phải đặt TCTD vào 
tình trạng kiểm soát đặc biệt, Điều 130a quy định áp dụng can thiệp sớm 
đối với TCTD lâm vào một trong các trường hợp sau: Không duy trì được tỷ
 lệ an toàn vốn quy định tại điểm b khoản 1 Điều 130 của Luật này trong 
thời hạn 06 tháng liên tục; Không duy trì được tỷ lệ khả năng chi trả 
trong thời gian 03 tháng liên tục; Xếp hạng dưới mức trung bình theo quy
 định của Ngân hàng Nhà nước.
Trong thời gian 30
 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản áp dụng can thiệp sớm của Ngân hàng 
Nhà nước, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải báo cáo 
Ngân hàng Nhà nước thực trạng, nguyên nhân, phương án khắc phục tình 
trạng quy định tại khoản 1 Điều này và tổ chức triển khai thực hiện. 
Ngân hàng Nhà nước có văn bản yêu cầu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân 
hàng nước ngoài điều chỉnh phương án khắc phục nếu xét thấy cần thiết.
Thời
 hạn thực hiện phương án khắc phục tối đa không quá 01 năm, kể từ ngày 
có văn bản áp dụng can thiệp sớm của Ngân hàng Nhà nước.
Ngân Giang
