Doanh nhân và dân chủ (Việt Hoàng)
Khi nghèo khổ mà bị coi thường đã là nhục nhã
nhưng khi giàu có và thành đạt mà vẫn bị người khác coi thường thì sự nhục nhã
đó càng lớn hơn. Khi nghèo đói chúng ta không quan tâm nhiều đến nhân quyền hay
phẩm giá nhưng khi no đủ rồi thì quyền được nói, quyền được đòi hỏi những ‘nhu
cầu về tinh thần’ sẽ trở nên cấp bách và cần thiết. Một người Việt Nam giàu có
và thành đạt trong một nước Việt Nam mà đa số dân chúng còn nghèo khổ thì vẫn bị bạn bè trên thế giới coi thường và khinh
rẻ.
Doanh nhân có thể hiểu đơn giản là những người
làm kinh doanh hoặc thương mại lớn, có tầm cỡ nhất định. Những bà già ‘buôn
thúng bán mẹt’ cũng là người kinh doanh nhưng không ai gọi họ là doanh nhân.
Doanh nghiệp cũng là doanh nhân vì họ phải kinh doanh sản phẩm của họ làm ra.
Kinh doanh là một nghề khó khăn và mạo hiểm vì độ rủi ro rất cao. Người nông
dân bị mất mùa thì họ cũng chỉ mất mùa trong một năm còn người kinh doanh nếu gặp
khủng hoảng hay sai lầm trong tính toán có thể mất cả cơ nghiệp mà họ gom góp cả
cuộc đời. Doanh nhân thành đạt thì có nhiều tiền, cuộc sống vật chất đầy đủ
nhưng lo lắng thường xuyên do áp lực của công việc, vì thế nên có câu ‘ăn cơm với
thịt gà (thì) lo ngay ngáy, ăn cơm với mắm cáy (thì) ngáy o o’.
Dưới thời phong kiến thì những người làm kinh
doanh không được xã hội tôn trọng, họ đứng sau cả người nông dân: ‘sĩ, nông,
công, thương’. Người làm kinh doanh luôn đồng nghĩa với bóc lột ‘ngồi mát ăn bát vàng’ hay gian dối ‘thật
thà cũng thể lái trâu’. Thế nhưng người dân cũng nhận ra rằng ‘phi thương bất
phú’. Thực ra kinh doanh là một ngành nghề quan trọng như bao ngành nghề khác,
thậm chí nó càng quan trọng hơn trong kỷ nguyên của ‘toàn cầu hóa’, bởi vì
doanh nhân là cầu nối (không thể thiếu) giữa người sản xuất và người tiêu dùng.
Nếu không có tầng lớp kinh doanh thì hàng hóa làm ra không biết tiêu thụ thế
nào và như vậy xã hội không thể phát triển được.
Chủ nghĩa tư bản và kinh tế hiện đại tôn vinh
người làm kinh doanh. Ông Nguyễn Gia Kiểng đề cao giá trị thực sự của những người
làm thương mại: ‘Thương mại đòi hỏi và làm
phát triển nhiều đức tính tốt. Người làm thương mại phải hiểu nhu cầu của xã hội
và vì thế phải cố gắng tìm hiểu xã hội. Người làm thương mại sống bằng chữ tín
nên phải thực thà, nếu không muốn bị tẩy chay và phá sản. Người làm thương mại
cần khách hàng nên phải thực sự quí trọng người khác vì không có sự giả dối nào
có thể kéo dài. Người làm thương mại phải tỏ ra dễ mến để tranh thủ khách hàng
cho nên ngôn ngữ và thái độ phải trang nhã, cũng chính vì thương mại không phát
triển mà con người trong các xã hội Khổng Giáo thường rất thô lỗ’. (Đi tìm
một mô thức phát triển đất nước). Nếu chúng ta chia sẻ ý kiến này thì ngay từ
bây giờ và trong tương lai tầng lớp doanh nhân Việt Nam phải có một tiếng nói,
một chổ đứng quan trọng trong đời sống chính trị văn hóa của đất nước. Họ phải
đóng vai trò tiên phong trong mọi sự phát triển của đời sống và phải tham gia
quản lý đất nước.
Vì vai trò đặc biệt quan trọng của tầng lớp
doanh nhân Việt Nam, nhất là trong tình hình đất nước hiện nay mà tôi muốn đề cập
đến họ trong bài viết đầu tiên trong năm Tân Mão. Trước hết, bản thân tôi cũng
là một doanh nhân cho nên tôi hiểu rõ những khó khăn và nỗi truân chuyên mà giới
doanh nhân đã trải qua, nhất là những doanh nhân đã từng sống và làm việc tại
nước Nga. Hai cuộc khủng hoảng vào năm 1998 và 2008 đã khiến bao người đang từ ‘doanh
nhân thành đạt’ trở thành tay trắng. Cùng với đó là nạn tham nhũng và sự tùy tiện
của luật phát đã khiến bao người làm kinh doanh ‘lên voi xuống chó’ chỉ sau một
đêm.
Việt Nam và Nga có những điểm tương đồng về thể
chế chính trị (cùng độc tài và công an trị) nên thân phận những người doanh
nhân như ‘cá trên thớt, gà trong chuồng’, chính quyền muốn ‘thịt’ ai và thịt
vào lúc nào là quyền của họ. Bình thường người làm kinh doanh là những con bò sữa,
làm tiền các doanh nghiệp tư nhân luôn là dễ nhất. Thế nhưng chỉ cần chút bất
mãn hay kêu ca phàn nàn là lãnh đủ. Tỉ phú giàu nhất nước Nga Mikhail
Khodorkovsky chỉ vì không ‘hài lòng’ với chính sách của Putin mà mất cả cơ nghiệp
và phải ngồi tù mút mùa, vừa sắp hết hạn tù lại bị ‘gia hạn’ thêm 6 năm nữa. Muốn
tồn tại thì các doanh nhân phải liên kết và chia phần cho giới quan chức. Những
lĩnh vực ngon ăn hay béo bở của nền kinh tế đất nước luôn bị giới doanh nhân
‘con ông cháu cha’ chiếm đoạt và doanh nghiệp tư nhân phải mua lại các hợp đồng
sau khi trả phần trăm hoa hồng thích đáng. Doanh nghiệp nhà nước tha hồ làm mưa
làm gió và làm bậy, mọi chuyện đã có chính phủ lo. Vụ Vinashin vỡ nợ và được
tái cơ cấu cho thấy sự ưu ái một cách thô thiển của chính phủ dành cho các
doanh nghiệp nhà nước. Nếu các doanh nghiệp tư nhân nợ vài trăm triệu mà không
trả được là tù mọt gông. Thậm chí bị ‘dựa cột’ như trường hợp Tăng Minh Phụng.
Các liên minh ma quỷ chi phối nền kinh tế Việt
Nam trước sau gì rồi cũng đi đến đỉnh điểm của nó, nó sẽ làm Việt Nam vỡ nợ
trên bình diện quốc gia. Ở Việt Nam tất cả các doanh nhân đều trốn thuế và ngay
cả họ có muốn nộp đủ thuế cũng không ai nhận và vì thế mọi doanh nhân đều là
con tin của chế độ. Bất cứ lúc nào muốn chính phủ Việt Nam cũng có thể bỏ tù bất
cứ một doanh nhân nào. Và đây là bi kịch lớn nhất của giới doanh nhân Việt Nam.
Đại hội Đảng lần thứ 11 đã kết thúc nhưng vẫn chưa thừa nhận ‘quyền sỡ hữu’ tài
sản của tư nhân.
Khi Việt Nam chuyển hướng (đổi mới) từ nền
kinh tế đóng cửa hoàn toàn (với thế giới bên ngoài) sang nền kinh tế thị trường
(tuy vẫn còn định hướng xã hội chủ nghĩa) thì đã mở ra một cơ hội ‘đổi đời’ thật
sự cho một số người. Chỉ sau hai mươi năm ‘đổi mới’ thì một bộ phận nhỏ trong
xã hội Việt Nam mà trước đây (vốn) là vô sản (bao gồm thành phần con ông cháu
cha và các doanh nhân biết liên kết với chính quyền) đã phất lên một cách nhanh
chóng và kinh khủng. Nhiều kẻ trong số họ đã trở thành triệu phú, tỉ phú đôla. Có
người kể rằng nhiều quan chức cao cấp và doanh nhân Việt Nam không bao giờ uống
loại rượi dưới giá 2000 đô la Mỹ một chai. Đây là điều cũng đã xảy ra ở Liên Xô
cũ hay Trung Quốc, một số lớn tài sản của nhà nước đã được ‘phù phép’ để biến
thành của tư nhân. Quá trình ‘chuyển giao’ này vẫn đang tiếp diễn, khi nào quá
trình này kết thúc thì khi đó ‘thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa’ sẽ chấm dứt.
Trước đây,
người Việt Nam đến nước Nga với hai bàn tay trắng, hành trang vào đời chỉ có
cái nghèo và sự liều lĩnh của tuổi trẻ. Khi còn trẻ thì người ta hay ‘liều’ và
‘phiêu lưu’. Liên Xô sụp đổ, một đất nước Nga thời hậu cộng sản với một chính
quyền ‘non trẻ’ đã mở ra cơ hội cho nhiều
người Việt Nam. Nhiều người đã nhanh chóng đổi đời nhờ sự vô luật pháp lúc đó.
Khi luật chơi càng tù mù, luật pháp càng lỏng lẻo thì cơ hội càng nhiều, vì
trong môi trường đó dễ làm giàu nhanh, dễ phất nhanh, dễ thay đổi vận mệnh
nghèo khổ nhanh và đương nhiên cái giá phải trả cũng không hề nhỏ. Thế nhưng xuất
phát từ quan điểm ‘của Liên Xô trả Liên Xô’, nhiều người đã mạnh dạn kinh doanh
khi chưa được phép và một số nhỏ người Việt đã trở thành giàu có.
Để không chảy máu chất xám và của cải Việt Nam
ra nước ngoài thì tôi cho rằng chính quyền mới trong tương lai sẽ không truy cứu
nguồn gốc tài sản của mọi công dân Việt Nam dưới thời cộng sản. Cho dù chúng ta
hiểu rằng một phần trong số tài sản đó là tích lũy bất hợp pháp. Tuy nhiên để
việc đó được chấp nhận rộng rãi trong dân chúng thì ngay từ bây giờ các doanh
nhân giàu có cần ủng hộ dân chủ, ủng hộ sự thay đổi thể chế chính trị thay vì
tiếp tay cho chế độ cộng sản tồn tại để bòn rút của cải cho bản thân. Chỉ có dưới
một chế độ dân chủ thì chổ đứng và danh dự của giới doanh nhân mới được thừa nhận
và có một vị trí xứng đáng. Tôi cho rằng tầng lớp doanh nhân Việt Nam chân
chính có hiểu biết, có kiến thức về xã hội dám dấn thân hay ủng hộ phong trào
dân chủ là thành phần tinh hoa của đất nước và vì thế họ có quyền và nên tham
gia vào việc quản lý đất nước.
Khi nghèo khổ mà bị coi thường đã là nhục nhã
nhưng khi giàu có và thành đạt mà vẫn bị người khác coi thường thì sự nhục nhã
đó càng lớn hơn. Khi nghèo đói chúng ta không quan tâm nhiều đến nhân quyền hay
phẩm giá nhưng khi no đủ rồi thì quyền được nói, quyền được đòi hỏi những ‘nhu
cầu về tinh thần’ sẽ trở nên cấp bách và cần thiết. Một người Việt Nam giàu có
và thành đạt trong một nước Việt Nam mà đa số dân chúng còn nghèo khổ thì vẫn bị bạn bè trên thế giới coi thường và khinh
rẻ. Điều này không khó để nhận biết nếu chúng ta thường xuyên đi ra nước ngoài
qua các cửa khẩu quốc tế. Một người Nhật sống nhờ trợ cấp thất nghiệp khi đi
qua các cửa khẩu quốc tế vẫn được tôn trọng hơn những triệu phú, tỉ phú đô la của
Việt Nam. Rõ ràng là nước nổi thì bèo mới nổi. Trên các cuốn hộ chiếu (hiện
nay) vẫn chưa có mục ghi số tiền của mỗi người có trong tài khoản ngân hàng. Chúng
ta không thể sống hạnh phúc khi xung quanh chúng ta còn quá nhiều người nghèo
khó. Khi môi trường bị ô nhiễm, an toàn thực phẩm hay an toàn toàn giao thông
không được kiểm soát thì dù giàu có vẫn cứ chết như thường. Báo chí đưa tin
ngày 6/2/2011 tức là ngày mùng 3 Tết Tân Mão tàu khách Thống Nhất chạy từ Nam
ra Bắc đến cầu Ghềnh tỉnh Đồng Nai đã đâm vào 6 chiếc ô tô liên hoàn khiến 28
người chết và bị thương. Báo chí cũng cho biết là trong dịp Tết đã có gần 300
người chết vì tai nạn giao thông, có thể
trong số này có nhiều người giàu có.
Chuyện các ‘đại gia’ Việt Nam mới phất đua
nhau khoe của như mua xe ô tô xịn, máy bay, du thuyền, xây biệt thự dát
vàng…không còn là chuyện hiếm. Nhưng dù giàu có đến đâu đi nữa thì cuộc sống xa
hoa đó vẫn lạc lõng bên cạnh những cuộc đời đầy khốn khó của đa số đồng bào và chắn
chắn là tiếng khen thì ít mà tiếng chê thì nhiều. Giàu có mà thiếu tri thức và
lòng nhân ái thì sẽ trở thành những kẻ trọc phú. Giàu có cộng với sự hiểu biết
về xã hội và biết chia sẻ với mọi người thì cái sự giàu đó mới đạt đến đỉnh cao
của nó, khi đó họ sẽ thuộc về giai cấp thượng lưu, quí tộc. Việt Nam ngày nay
đáng buồn là ‘trọc phú’ nhiều hơn ‘thượng lưu’. Hy vọng thời gian sẽ làm thay đổi
và biến đổi tâm hồn những ‘trọc phú’ thành ‘thượng lưu’. Khi nghèo người ta bất
chấp mọi thủ đoạn để làm giàu và khi giàu có rồi họ thì sẽ nhận ra một điều đơn
giản, tiền không phải là tất cả.
Lý do rất chính đáng mà các doanh nhân luôn
đưa ra để bào chữa cho mình khi họ tỏ ra thờ ơ với phong trào đấu tranh đòi dân
chủ là ‘chúng tôi kinh doanh chứ không làm chính trị’. Họ cố tình hoặc không biết
rằng mọi chính sách dù lớn hay nhỏ đang tác động hàng ngày liên quan đến công việc của họ đều xuất phát từ
các quyết định chính trị. Có người đã nói ‘trong các hiểu biết của con người
thì hiểu biết về chính trị là hiểu biết lớn nhất’, vì vậy những người làm chính
trị và giới cầm quyền luôn là tinh hoa của dân tộc, của đất nước. Tất nhiên khi
ai đó được gọi là ‘tinh hoa’ thì người đó phải trải qua quá trình ‘chọn lựa’ và
thừa nhận của người dân. Lãnh đạo cộng sản không bao giờ là tinh hoa của đất nước
vì họ chưa được người dân lựa chọn bao giờ.
Ngày xưa những nhà tư sản hay giàu có ‘đóng
góp’ cho cách mạng không phải vì tự giác mà vì sợ khủng bố. Ngày nay phong trào
dân chủ không khủng bố hay đe dọa ai mà chỉ kêu gọi giới doanh nhân đóng góp
công sức của mình cho quá trình dân chủ đất nước. Sự lựa chọn khôn ngoan nhất
là ủng hộ bí mật cho các tổ chức chính trị có uy tín, những người có thể làm
thay đổi số phận của đất nước, đó là việc làm không khó với các doanh nhân nếu
họ muốn. Các doanh nhân đều biết đến lời khuyên trong đầu tư đó là ‘trứng bỏ
nhiều giỏ’ để tránh sự rủi ro, và ‘đầu tư cho dân chủ’ là một kênh đầu tư khôn
ngoan. Đó là đầu tư cho tương lai của bản thân doanh nghiệp, cho con cái họ,
cho bà con họ. Chỉ có dân chủ mới mang lại hạnh phúc cho cả dân tộc trong đó có
bản thân gia đình các doanh nhân, đó cũng là niềm hạnh phúc và tự hào lớn lao khi
đất nước có tự do và quan trọng nhất là sự đóng góp đó sẽ là sự bảo đảm cho sự
an toàn của bạn và khối tài sản mà bạn đang có. Trên tất cả bạn sẽ được sống
như những người văn minh với tất cả phẩm giá của con người. Tôi tin rằng một
chính phủ dân chủ trong tương lai sẽ tôn vinh và phải tỏ lòng tri ân những
doanh nhân đã có đóng góp tích cực cho phong trào dân chủ Việt Nam. Bởi vì họ xứng
đáng được đối xử như vậy.
Bản thân tôi cũng như lập trường của Tập Hợp
Dân Chủ Đa Nguyên là mọi sự thay đổi chính trị tại Việt Nam nên diễn ra trong
hòa bình, trong tinh thần ‘hòa giải dân tộc’, nên tránh các cuộc ‘cách mạng đường
phố’ như tình hình đang diễn ra tại Tunisia hay Ai Cập. Nếu điều đó xảy ra tại
Việt Nam thì sự đổ vỡ sẽ kinh khủng hơn rất nhiều so với các nước này, mọi người
đều bị thiệt hại nặng kể cả các doanh nhân. Vì vậy chúng tôi chú trọng và kêu gọi
thành phần trí thức tinh hoa của đất nước chủ động tham gia mạnh mẽ vào quá
trình chuyển đổi quan trọng này. Nếu trí thức Việt Nam không chủ động dấn thân
cho đất nước thì người dân Việt Nam cùng khổ sẽ đứng lên làm cách mạng và hậu
quả thật khó lường. Doanh nhân Việt Nam cũng là thành phần trí thức và tinh hoa
của dân tộc vì vậy phải có trách nhiệm với đất nước. Tiếng nói của tầng lớp
doanh nhân rất có trọng lượng đối với thế hệ trẻ tại Việt Nam hiện nay. Ngoài sự
hiểu biết các doanh nhân Việt Nam còn có một đức tính mà nhiều trí thức không
có được đó là lòng dũng cảm và sự quả quyết.
Tôi cho rằng không phải ‘dân trí’ người Việt
Nam kém mà do tầng lớp trí thức Việt Nam kém. Trước tình hình đất nước như hiện
nay thì trí thức phải xem việc dấn thân chính trị như là mệnh lệnh của lòng yêu
nước và trí thức phải nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt người dân và lãnh đạo đất
nước. Các nước văn minh như Mỹ hay Châu Âu được tự do và hạnh phúc vì tầng lớp
trí thức tinh hoa luôn lãnh đạo và dẫn dắt đất nước trong khi đó ở Việt Nam thì
tầng lớp tinh hoa này bị tiêu diệt tận gốc: “trí, phú, địa, hào, đào tận gốc,
trốc tận rễ”. Để rồi những kẻ thất học, ba đời ăn củ khoai, củ chuối lên nắm
chính quyền nên Việt Nam mới không ngóc đầu dậy nổi. Tôi kính trọng tất cả mọi
người, mọi tầng lớp nhân dân nhưng không thể nào đồng tình với việc để những kẻ
ít học, kém hiểu biết, hung hãn và lưu manh lên nắm chính quyền, những kẻ này sẽ
đày đọa tất cả chúng ta. Trí thức Việt Nam phải nhận lãnh trách nhiệm chèo lái
con thuyền quốc gia, nếu họ từ chối hay nhường quyền này cho kẻ khác thì dân tộc
Việt Nam sẽ tiêu vong.
Có một người nói rằng ‘cách làm từ thiện tốt
nhất (và vĩ đại nhất) là làm chính trị’, đây là một sự thật hiển nhiên. Bình
thường khi làm từ thiện thì người làm từ thiện chỉ bỏ ra một số tiền hay công sức
nho nhỏ mà không ảnh hưởng gì đến tài sản hay công việc của mình, trong khi đó
người làm chính trị chân chính sẵn sàng hy sinh cả cuộc đời họ, chấp nhận đánh
mất tự do, hạnh phúc và thậm chí cả tính mạng mình cho hạnh phúc của mọi người,
mọi nhà. Lịch sử luôn ghi nhận và đánh giá cao những danh nhân đã hy sinh cuộc
đời mình cho dân tộc. Người làm chính trị có thể thành công, có thể thất bại
nhưng tấm lòng yêu nước của họ luôn được người đời ghi nhớ. Nhân dịp năm mới tất
cả chúng ta hãy hướng về những nhà bất đồng chính kiến đang còn bị giam giữ
trong chốn ngục tù, hãy dành cho họ và gia đình họ lòng kính trọng và sự yêu
thương chia sẻ. Nên nhớ rằng việc họ làm không mang lại lợi lộc gì cho bản thân
họ mà là mang lại cả mùa xuân cho dân tộc và mọi người dân Việt Nam.
Trí thức Việt Nam, doanh nhân Việt Nam cần
đoàn kết và sát cánh bên nhau trong cuộc cách mạng vĩ đại này, cuộc cách mạng
mang lại dân chủ và tự do cho dân tộc Việt Nam.
Việt Hoàng (2011)