Cải cách, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới (Nguyễn Trung)
Tình hình từ hai, ba khóa đại hội nay cho thấy mâu thuẫn giữa một bên
đảng một bên dân nói trên gây ra nhiều xung đột ngày càng lớn và quyết
liệt, hoặc ngầm ngầm, hoặc bùng nổ công khai. Tình trạng bế tắc này tự
nó đang hấp dẫn ngày càng mạnh mẽ những bi kịch tồi tệ nhất đến với đất
nước, với mọi kết cục thê thảm có thể.
Cùng nhau mở con đường cải cách, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới
Một kiến nghị tâm huyết
Mục lục
I. Đòi hỏi sinh tử : Cải cách đổi đời đất nước
II. Cải cách phải là sự nghiệp của toàn dân
III. Cái đích phải tới
***
Phụ lục I
Về con đường cải cách đi qua Đảng cộng sản Việt Nam đã chuyển đổi trở thành đảng của dân tộc (Nguyễn Trung)
Phụ lục II
Về chủ nghĩa Marx – Lenin (Nguyễn Trung)
Phụ lục III
Về Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam (Nguyễn Trung)
Phụ lục IV
Về sự hình thành và phát triển xã hội dân sự ở Việt Nam (Phạm Khiêm Ích)
*********************
Nội dung
Cải
cách thường phải do một lực lượng chính trị có ảnh hưởng và quyền lực
chi phối quốc gia tiến hành – ví dụ như đảng nắm quyền, chính phủ, một
lực lượng chính trị mạnh áp đảo… Nhưng tôi vẫn đặt vấn đề cả nước cùng
tham gia cải cách vì các lý do sau đây :
I. Cải cách đã trở thành đòi hỏi sinh tử của đất nước.
II. Vì là cải cách đổi đời đất nước, nên phải là sự nghiệp của toàn dân.
III.
Cái đích cải cách phải tới là hình thành một thể chế chính trị - nhà
nước dân chủ dựa trên kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội
dân sự.
Xin trình bầy lần lượt như sau.
*****************
I. Đòi hỏi sinh tử : Cải cách đổi đời đất nước
Cục diện thế giới hiện nay đặt nước ta vào tính thế nguy hiểm chưa từng có kể từ khi giành được độc lập thống nhất 30/04/1975 :
-
Tranh chấp Mỹ - Nga – Trung rất phức tạp nói riêng và những vấn đề kinh
tế, chính trị và an ninh nóng bỏng ở phạm vi toàn cầu trong cục diện
thế giới đa cực hiện nay nói chung đặt ra cùng một lúc nhiều vấn đề lớn
chưa có lời giải. Chiến tranh lạnh II ngày càng quyết liệt trên các mặt
trận kinh tế, chính trị, quân sự. Đang tiềm tàng cùng một lúc các nguy
cơ xung đột lớn ở Châu Á, Châu Âu và Trung Đông có thể dẫn tới chiến
tranh thế giới III.
Giới
chiến lược Mỹ cho rằng cả Trung Quốc và Nga vì lợi ích riêng đều muốn
khai thác sự lúng túng của Mỹ trong vấn đề tên lửa và vũ khí A của Bắc
Triều Tiên. Vì thế cho đến nay hai nước này vẫn không đi đến cùng với Mỹ
(trên thực tế gần như bỏ mặc cho Mỹ) trong việc gây sức ép phải có đối
với Bắc Triều Tiên. Sự nghi ngờ của Mỹ đi xa tới mức cho rằng : Bắc
Triều Tiên được sự giúp đỡ nào đấy về kỹ thuật, vật chất... ; có người
nói tiềm tàng những vụ đổi chác lớn – ví dụ đổi vấn đề tên lửa và vũ khí
A của Bắc Triều Tiên lấy "cái lưỡi bò" ở Biển Đông… (chẳng lẽ lịch sử
có thể lập lại chuyện "Kissinger – Chu Ân Lai 1972" ?).
Trong
cuộc đấu tay ba Mỹ - Nga - Trung mỗi bên đều có cái mạnh và cái yếu
riêng với sự tập hợp lực lượng và phe cánh riêng rất phức tạp, có nhiều
mặt trận đối kháng chính/phụ, nóng/lạnh khác nhau, cục diện thay đổi
từng giờ.
Cái
mạnh nổi bật của Trung Quốc là sự phát triển năng động của kinh tế thế
giới cần thị trường rộng lớn của Trung Quốc, sự nổi trội sức mạnh tại
chỗ so với các nước láng giềng, có tiềm lực thực hiện chiến lược thâm
nhập, câu giờ và phân hóa đối phương, chuẩn bị sẵn mọi trận địa khác
nhau tại nhiều châu lục và lấn từng bước, kết hợp với các thủ đoạn : gặm
dần (thái xúc-xích salami), lấy thịt đè người, phản ứng nhanh, mục tiêu
biện minh cho biện pháp (vô luật và vô đạo đức)… Chỗ yếu lớn nhất của
Trung Quốc là tình hình nội trị Trung Quốc có nhiều vấn đề lớn (đồng
thời rất nguy hiểm cho bên ngoài), kinh tế đang trong thời kỳ phải
chuyển đổi mô hình phát triển do kinh tế thế giới đã thay đổi. Hiện nay
Trung Quốc đang trở nên nguy hiểm nhất đối với các nước láng giềng trong
khu vực Đông Nam Á - trong đó dặc biệt là Việt Nam, đã thao túng được
đáng kể ASEAN.
Thời
Tập Cận Bình, đặc biệt là trong những năm gần đây và hiện tại, Trung
Quốc đã có những bước leo thang cao nhất đến nay, quyết thực hiện "đường
lưỡi bò" tại Biển Đông, hoàn tất việc xây các căn cứ quân sự trên các
đảo đã chiếm, tiến hành nhiều hoạt động gây căng thẳng phía Bắc là Biển
Hoa Đông, kết hợp chặt chẽ với những bước đi kinh tế, chính trị của
Trung Quốc ở phạm vi toàn cầu.
Cục
diện thế giới hiện tai có nhiều hệ lụy toàn cầu rất sâu sắc, trong đó
đã làm xuất hiện một trong những hệ quả rất nhạy cảm và trực tiếp tác
động vào nước ta : Vì nhiều lý do toàn cầu và khu vực tại những nơi khác
nhau trên thế giới, Biển Đông nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói
chung đang dần dần trở thành một khu vực trống có lợi cho Trung Quốc,
hoặc trong tình huống nhất định có thể đột biến trở thành vùng trống –
dù chỉ trong khoảnh khắc, và Trung Quốc đã sẵn sàng. Tình hình này
còn có nguyên nhân : Vì nhiều lý do trên thực tế ảnh hưởng và sự có mặt
của Mỹ tại khu vực này từ thời Obama và nhất là hiện nay không đủ mạnh
để kiểm soát có hiệu quả sự bành trướng tại chỗ quyền lực của Trung
Quốc, giữa lúc thế giới có nhiều cơ hội "đục nước béo cò" khác với những
hệ lụy có thể liên quan đến Biển Đông.
Việt
Nam hiện nay đứng trước thách thức quyết liệt chưa từng có kể từ sau
chiến tranh 17/02/1979. Điều gì sẽ xảy ra và Trung Quốc có thể đi xa tới
đâu, nếu xu thế nói trên ở Biển Đông diễn tiến tiếp tục, hoặc khi xảy
ra đột biến lớn tại bất kỳ một điểm nóng nào đó trong cục diện thế giới
hiện nay ? Trong khi đó Trung Quốc đã tạo ra được ở Việt Nam ở mức cao
nhất đến nay sự phụ thuộc về kinh tế, sự lệ thuộc về chính trị, sự uy
hiếp nghiêm trọng về an ninh quốc phòng, và triển khai tiếp sự can thiệp
sâu hơn nữa vào nội bộ nước ta.
-
Trong cục diện quốc tế và khu vực rất nguy hiểm và nhạy cảm hiện nay,
Việt Nam đang bước vào thời kỳ trầm trọng của cuộc khủng hoảng toàn diện
bắt đầu từ Đại VII (1991). Nghĩa là Viêt Nam đang ở trong tình thế bị
uy hiếp nghiêm trọng nhất trên cả hai phương diện đối nội và đối ngoại.
Đặc biêt là : Kinh tế tuy đạt mức thu nhập trung bình thấp, song không
bền vững, đang ở thời kỳ khó khăn nhất sau 30 năm đổi mới với nhiều vấn
đề cơ bản, ách tắc, nóng chưa có lời giải (vốn, nợ, tham nhũng, kết cấu
hạ tầng, quy hoạch phát triển, môi trường, năng lượng, nước, năng lực
quản trị quốc gia, giáo dục, biến đổi khí hậu…), nội trị rối ren, an
ninh quốc phòng bị uy hiếp quyết liệt nhất trong tình thế phải đối mặt
với nguy cơ bị cô lập rất cao.
-
Và 30 năm đổi mới cho thấy ý thức hệ, con đường Đảng cộng sản Việt Nam ;
từ Đại hội VII đất nước đi vào thời kỳ khủng hoảng toàn diện, từ mấy
năm gần đây là thời kỳ trầm trọng nhất chưa từng có kể từ sau
30/04/1975. Đấy cũng là những nguyên nhân gốc gây ra lãng phí, tham
nhũng và bất công xã hội vô cùng nặng nề, cướp đi của đất nước nội lực
phải có để có thể đương đầu với mọi thách thức sống còn trong cục diện
quốc tế ngày càng nóng bỏng hôm nay. Đồng thời đã áp dụng quá nhiều chủ
trương chính sách sai lầm, bưng bít sự thật và ngu dân, kèm theo những
hành động trấn áp khắc nghiệt, tất cả khiến cho khối đại đoàn kết dân
tộc bị phân hóa sâu sắc, trí tuệ và ý chí phấn đấu vươn lên của đất nước
bị tê liệt, làm tổn thương nghiêm trọng tinh thần tự trọng dân tộc và
thể diện quốc gia, lòng dân phân tán và mất lòng tin vào sự lãnh đạo của
đảng.
Từ
Hội nghị Thành Đô (1990) đến nay cho thấy đường lối ngoại giao leo dây
để giữ "đại cục", nhưng không có nội lực vững mạnh của quốc gia làm nền
tảng, lại thêm những yếu kém của đội ngũ lãnh đạo, nên đã thất bại
nghiêm trọng. Mỗi ngày ta phải nhân nhượng một tý để giữ "đại cục" như
thế, để hôm nay là cả một cái thòng lọng không gỡ ra nổi siết trên cổ
đất nước, uy tín quốc tế giảm sút nặng nề, biên cương bờ cõi tổ quốc bị
xâm phạm, đất nước lâm vào thế vừa lệ thuộc và phụ thuộc, vừa đơn độc
một cách nguy hiểm.
Toàn
bộ tình hình nêu trên còn cho thấy đường lối đối nội và đối ngoại của
đảng chẳng những đem lại cho đất nước những tổn thất lớn, mà còn đẩy đất
nước vào con đường phát triển vừa lạc hậu, vừa lạc lõng trong xu thế
phát triển chung của thế giới ngày nay. Xem xét kỹ thực chất, quan
sát trên thế giới sẽ thấy Việt Nam hiện nay là nước duy nhất còn lại
đang cố tìm cách níu kéo ý thức hệ có cỗi rễ là chủ nghĩa Marx-Lenin và
chủ nghĩa cộng sản để duy trì chế độ toàn trị và quyền lực của đảng
trong điều hành đất nước – mặc dù lãnh đạo đảng cũng thừa nhận chưa
biết cuối thế kỷ này liệu sẽ có chủ nghĩa xã hội hay không ! Nghĩa là
trên thực tế về nhiều mặt sâu sắc bên trong, nước ta vẫn đang một mình
một đường đi trong thế giới hôm nay.
Sau ba
thập kỷ hội nhập quốc tế, nền kinh tế đất nước vẫn gia công là chủ yếu
và chưa xác lập được vị trí phải có trong nền kinh tế toàn cầu (ngôn ngữ
chuyên môn thường nói về các chuỗi cung / ứng). Chế độ toàn trị nặng về
trấn áp các quyền tự do dân chủ, cùng với nền kinh tế yếu kém đày rẫy
bất công và tham nhũng đã dựng nên một nền nội trị vừa không có khả năng
vừa không cho phép thực hiện đường lối đối ngoại dấn thân. Cho nên trên
thực tế nước ta chỉ giành được vai trò quốc tế thấp, không đúng với tầm
vóc và vị trí chiến lược của quốc gia, chưa đáp ứng được những đòi hỏi
quan trọng của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc ; đất nước bị thua
thiệt nhiều mặt, thậm chí bị xâm phạm, mặc dù trên danh nghĩa đã thiết
lập được mối quan hệ đối tác chiến lược hay đối tác toàn diện trên mọi
Châu lục.
Một
mình một đường đi như vậy, nước ta càng đuổi theo thiên hạ, nhưng hôm
nay càng tụt hậu xa hơn và yếu đi – ngay cả so với tất cả các nước láng
giềng, tiếp tục lạc lõng.
Trong
khi đó địa kinh tế và địa chính trị của cục diện quốc tế hôm nay khách
quan đặt ra đòi hỏi phải có một Việt Nam là một quốc gia độc lập tự chủ,
vững mạnh và phát triển, để có thể đóng góp tích cực vào lợi ích của
hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực ĐNÁ và trên thế giới. Lợi
ích sống còn của Việt Nam cũng đòi hỏi phải tận dụng được yếu tố mới này
để tạo cho mình một tập hợp lực lượng rộng khắp hậu thuẫn cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đảng hôm nay quên mất bài học việc tạo ra
được một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ
cứu nước – kể cả ngay trong lòng nước Mỹ - là một trong những yếu tố
quyết định giành thắng lợi.
Có thể kết luận :
Thất
bại của 42 năm đầu tiên độc lập thống nhất đất nước phải hứng chịu về
nhiều mặt chính là thất bại của việc lấy chủ nghĩa trà đạp trí tuệ và
các giá trị của tự do – dân chủ - quyền con người, là do người nắm quyền
giành được một số lợi ích phe nhóm nhưng phải hủy hoại nhiều lợi ích
quốc gia và lợi ích của dân tộc, là thất bại của xây dựng chủ nghĩa xã
hội - với kết quả gặt hái được là để mọc lên trên đất nước ta hôm nay
một chế độ toàn trị khắc nghiệt, nhưng đối với bên ngoài độc lập 42 năm
mà vẫn chưa độc lập !
Thất
bại của 42 năm trước hết là do để cho tha hóa của chế độ một đảng biến
đảng thành đảng cai trị hôm nay cướp đi mất tiền thân của nó là một đảng
cách mạng đã từ thế hệ này sang thế hệ khác hy sinh chiến đấu vì nước
và đã làm nên sự nghiệp giành lại độc lập thống nhất, là thất bại của sự
hiểu biết mơ hồ cái thế giới khắc nghiệt chúng ta đang sống, là thất
bại của sự giác ngộ kém cỏi – hay là không giác ngộ được – lợi ích quốc
gia của ta nằm ở chỗ nào trong cái thế giới quyết liệt này – điển hình
là đường lối ngoại giao bắt đầu từ Thành Đô, mới đây lại xảy thêm vụ bắt
cóc Trịnh Xuân Thanh.
Khái quát lại :
Bốn
cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại và 42 năm độc lập thống nhất, công sức
tiền của đổ ra cho công nghiệp hóa như núi biển, song tất cả chỉ để đạt
được nền kinh tế gia công, lãng phí và tham nhũng làm cạn kiệt mọi
nguồn lực và tài nguyên quốc gia, đã đạt mức có thu nhập trung bình
(thấp) song kinh tế không bền vững, năng suất lao động rất thấp, môi
trường tự nhiên bị hủy hoại nặng nề, chế độ toàn trị đầy rẫy bất công và
trấn áp, vị thế quốc gia èo uột… Trong khi đó từ sau chiến tranh
17/02/1979 đến nay không một lúc nào Trung Quốc ngừng nghỉ thực hiện dã
tâm bành trướng "đường lưỡi bò" ; ngay trong những tuần vừa qua Trung
Quốc ép ta phải rút việc khai thác dầu khí khỏi lô 136.03 với lời đe dọa
trực diện trắng trợn sẽ chiếm nốt tất cả các đảo còn lại ở Trường Sa,
tiến hành tập trận bắn đạn thật trên Biển Đông ở quy mô lớn nhất, nằm
sâu vào vùng biển nước ta 11.000 km2 và cách Đà Nẵng 75 hải lý !
Đau quá ! Nhục quá ! Có lời lẽ nào nói hết được hiểm nguy phía trước đang chờ đợi đất nước !
Toàn
bộ sự vận động nói trên của đất nước trong xu thế phát triển hiện nay
của chế độ toàn trị với ý thức hệ như vậy phải được chấm dứt, để tìm
đường hòa bình cải cách chuyển đất nước đi lên con đường : Giải phóng
nội lực và xây dựng cho đất nước vị thế quốc gia mới. Sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc trong cục diện quốc tế ngày nay đòi hỏi phải có đủ
sức mạnh nội lực để phát triển và đồng thời để tập hợp được sự [1] hợp
tác và hậu thuẫn rộng rãi trên thế giới. Một sự nghiệp như vậy đòi hỏi
phải có một thế chế chính trị quốc gia mới phù hợp. Cải cách để đổi đời
đất nước trở thành đòi hỏi sinh tử, cả nước phải đứng lên thực hiện.
II. Cải cách phải là sự nghiệp của toàn dân
-
Đổi mới từ 1986 bắt nguồn từ phong trào "phá rào" của nhân dân, trong
tình thế đất nước vô cùng hiểm nghèo. Khi trở thành chủ trương của đảng,
đổi mới giành thành tựu ngoạn mục, vì nó giải phóng sức mạnh của toàn
dân – nguyên nhân cốt lõi là thực hiện dân chủ và thừa nhận kinh tế thị
trường.
Qua
đổi mới 1986, bộ mặt đất nước bắt đầu có da có thịt, bè bạn ngạc nhiên
và vui mừng, còn mọi kế hoạch thù địch và bao vây cấm vận hiển nhiên đã
thất bại. Sức mạnh và nghị lực sáng tạo của nhân dân là như vậy. Trong
30 năm sau đổi mới 1986, có thể nói sức mạnh và tiềm năng của nhân dân -
ở đây tôi muốn nhấn mạnh trước hết là vai trò của nông dân nói riêng và
của toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân nói chung – luôn luôn là chỗ dựa
vững chắc, thậm chí không hiếm lúc gian nan là chiếc phao cứu sinh, hoặc
là bệ đỡ cho những bước phát triển mới… của nền kinh tế. Lùi nữa về quá
khứ, sức mạnh toàn dân tộc là yếu tố quyết định làm nên thắng lợi vẻ
vang của 4 cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại.
Truyền
thống và sức mạnh nêu trên vừa là yếu tố quyết định thắng lợi, vừa là
đòi hỏi như một điều kiện tiên quyết : Cuộc cải cách vĩ đại đổi đời đất
nước cần phải được tiến hành với tính chất là sự nghiệp của toàn dân, do
toàn dân, và vì toàn dân. Bởi vì đây là cuộc cải cách sâu rộng làm thay
đổi triệt để mọi lĩnh vực của cuộc sống đất nước để trở thành một quốc
gia phát triển, trước hết là thay đổi chính từng người dân từ đây thành người chủ của đất nước.
Xin nhấn mạnh như một nguyên lý : Không bao giờ có thể có một nước giầu mạnh của một nhân dân bị nô lệ !
Một
đất nước giầu mạnh chỉ có thể được kiến tạo nên bởi một nhân dân tự do
và là người chủ của quốc gia mình. Mục tiêu chiến lược này lẽ ra đã phải
được thực hiện ngay sau 30/04/1975, bây giờ không thể trì hoãn được
nữa. Mục tiêu chiến lược này khi trở thành khát vọng của nhân dân, đất
nước hôm nay sẽ có nguồn lực sáng tạo và sức mạnh bất khả kháng để phát
triển.
-
Trong chế độ toàn trị, cái gì nhà nước không quản được thì cấm, thần
dân của nó phải chấp nhận và buộc phải quen sống trong cái lồng quản/cấm
này ; mấy chục năm quản và cấm như thế chế độ toàn trị đã tạo ra cho
thần dân của nó những tập quán và một văn hóa sống lạc hậu.
Trong
chế độ dân chủ của nhà nước pháp quyền, công dân chẳng những phải tự
giác ngộ tất cả về quyền và nghĩa vụ để vươn lên làm người trưởng thành,
để tự quản chính mình, và còn phải làm nhiệm vụ chủ động tham gia vào
đời sống mọi mặt của đất nước với tính cách là chủ nhân của quốc gia.
Hơn thế nữa, mỗi công dân như vậy còn vừa là đối tác của nhau, vừa là
đối tác của cả thế giới, để có khả năng tạo ra cho mình khả năng hợp tác
theo tinh thần đồng đội (teamwork skill), đồng thời cũng phải có bản
lĩnh và khả năng chịu đựng hoặc xử lý được mọi tác động từ thế giới bên
ngoài, chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế của đất nước vừa
là với tính chất công dân Việt Nam, vừa với tính cách là công dân thế
giới…
Như
vậy về tính chất, khả năng và quyền năng của một bên là thần dân của
chế độ toàn trị, và một bên là công dân của chính thể dân chủ pháp quyền
có sự khác nhau một trời một vực. Đây là lý do cơ bản nhất khiến sự
nghiệp cải cách đổi đời con người và đổi đời đất nước sẽ phải bặt đầu từ
học.
Toàn
dân, bao gồm cả các đảng viên, không phân biệt bất kể một thứ bậc nào
trong xã hội, đều phải học, học lại, giúp nhau học – để trở thành một
công dân tự do của trưởng thành, có trí tuệ, ý chí, bản lĩnh và khả
năng/quyền năng làm chủ chính mình và làm tròn trách nhiệm người chủ một
quốc gia trưởng thành. Sự trưởng thành như thế của từng công dân trong
chính thể mới được phát huy đến đâu, đất nước sẽ phát triển đi xa tới
đấy !
Công
dân của chính thể mới nhất thiết phải học để tự tay mình chủ động và
cùng nhau xây dựng nên xã hội dân sự cho chính mình như là một trường
học rèn luyện và phấn đấu để tự khẳng định mình, là môi trường thực thi
trực tiếp quyền và trách nhiệm của mình đối với chính thể và nghĩa vụ
đối với quốc gia, là môi trường quảng bá và vun đắp các giá trị và
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thụ những giá trị của văn minh
nhân loại. Vì chính mình và vì đất nước này, cần phải học văn hóa sống
"mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người", "sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của mọi người !", không để
cho dối trá, mỵ dân, cám dỗ lường gạt, quyết đối mặt với cái ác và bênh
vực lẽ phải, làm cho tổ quốc của chúng ta là nơi đáng sống với tất cả
niềm tự hào chính đáng của mình.
Công
dân của chính thể mới cần đặc biệt quan tâm học hỏi và thay đổi chính
mình, để thấu hiểu nỗi đau của đất nước, hiểu những bài học cay đắng
trên chẳng đường đầy máu và nước mắt để đi tới được độc lập thống nhất
hôm nay, qua đó xây dựng cho bản thân mình chính kiến về đường đi nước
bước của đất nước trong thế giới đã thay đổi này. Phải học để hiểu nỗi
nhục của đất nước phải chịu đựng những chén ép và tổn thất do tình trạng
chậm phát triển của quốc gia mình, nên không thể mở mày mở mặt với
thiên hạ, đến mức tổ quốc của chúng ta được thiên hạ tặng cho biệt danh :
quốc gia không chịu phát triển ! Nghĩa là mỗi người phải học để nhìn nhận công việc của quốc gia cũng là công việc của chính mình, không thể phó mặc cho ai khác tùy tiện.
Cần
phải học nhiều nữa để thấm thía nỗi hèn kém và cả những hư hỏng của
chính bản thân mình và của đất nước, do cái dốt, cái lạc hướng, và cái
khiếp nhược trước quyền uy sinh ra – trong đó cần phải thấy sự hèn kém
này chính là một trong các thành tố tạo nên dinh lũy kiên cố của chế độ
toàn trị hiện nay, những bước bị khuất phục đã xảy ra trước sự bành
trướng và thâm nhập các mặt của Trung Quốc, cũng như thói tự ti và sính
phương Tây, sính theo cái này hay theo cái khác và quên mất chính mình
là ai. Đã xảy ra không hiếm trường hợp hèn kém đến mức đánh mất hoặc để
bị cướp mất tinh thần tự trọng dân tộc và thể diện quốc gia…
Cần phải học bằng được hòa giải dân tộc,
để hàn gắn vết thương tay trái chém tay phải đến hôm nay vẫn còn rỉ
máu. Cần phải học bằng được điều này để làm cho quốc gia đủ mạnh và vững
vàng, không để cho bất kể tình huống nào các mưu đồ hoặc quyền lực đen
tối dù từ đâu tới lại có thể một lần nữa xô đẩy đất nước vào thảm họa
nội chiến này. Và trên hết cả, cần thông qua hòa giải dân tộc, để có
được sự cố kết dân tộc làm nên một quốc gia chẳng những có sức mạnh bất
khả kháng với mọi thách thức từ bên ngoài, mà còn là môi trường nẩy nở
các giá trị cao đẹp, là nơi nuôi dưỡng, làm bệ đỡ, và đồng thời là thành
lũy bảo hộ cho mọi nỗ lực tinh hoa của từng công dân của nó…
Xem
như thế, công dân của thể chế chính trị mới phải học rất nhiều, học tất
cả, để phát huy lợi thế nước đi sau qua sự nghiệp cải cách này xây dựng
thành công một thể chế chính trị dân chủ của nhà nước pháp quyền của
Việt Nam, phù hợp cho Việt Nam, nhằm vào mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam độc lập của tự do - dân chủ - hạnh phúc, trên nền tảng một quốc gia
giầu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh, như đã thể hiện trong Tuyên
ngôn Độc lập 02/09/1945 và Hiến pháp 1946.
Có thể nói đây là cải cách của học tập. Học như thế là nội dung chiều sâu phải thực hiện được trong quá trình cải cách. Vì có con người như thế, đất nước sẽ có tất cả. Học như thế để dứt khoát không học đòi.
Học để từng công dân trực tiếp tham gia cải cách vì chính mình và vì
đất nước. Vì thế, cải cách như vậy phải là sự nghiệp của toàn dân, với
tính chất là toàn dân giác ngộ trực tiếp tiến hành cuộc cải cách trong
đại này, được khai thông con đường thực hiện đi qua Đảng cộng sản Việt
Nam như đang là đã chuyển đổi thành đảng của dân tộc.
III. Cái đích phải tới
Nhiệm vụ có ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại này của đất nước hôm nay đặt lên vai Đảng cộng sản Việt Nam và đội ngũ lãnh đạo không phải là đập vỡ "bình" hay sửa "bình". Cả hai việc này đều không thể, không cần thiết, và đều không phải là giải pháp, thậm chí có thể nguy hiểm cho đất nước.
Nhiệm vụ lịch sử không được phép tránh né của đảng hôm nay là
phải cất cái "bình" hiện nay vào nơi trang trọng nhất có thể trong bảo
tàng – phần lịch sử Việt Nam cận đại, để đánh dấu sự kết thúc con đường
đất nước đã đi từ năm 1930 đến hôm nay, để từ đây thông qua cải cách thể
chế chính trị mở ra một thời kỳ phát triển mới của nước Việt Nam độc
lập thống nhất trong thế giới đã sang trang.
Song Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay như đang là không
có trí tuệ, phẩm chất và khả năng thực hiện nhiệm vụ lịch sử nó phải
làm nói trên. Và nếu cố tình vẽ ra một nhiệm vụ như thế cho đất nước thì
nó cũng không thực hiện được, nhân dân cũng không tin. 42 năm độc lập
thống nhất đã chứng minh thuyết phục : Ngoài đổi mới 1986 là nỗ lực của
cả nước, Đảng cộng sản Việt Nam như đang là cho đến nay chỉ có
thất bại trong mọi nỗ lực cải cách, dù đấy chỉ là những cải cách ở quy
mô các vấn đề từng phần hay cục bộ (ví dụ : cải cách giáo dục, cải cách
hành chính, tinh giảm biên chế…). Đơn giản vì bản chất và lợi ích của Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay đối
kháng với cải cách, do đó nó coi những ý tưởng cải cách là suy thoái
đạo đức chính trị tư tưởng, là tự diễn biến, đặc biệt đố kỵ trong các
vấn đề như xóa bỏ "Điều 4", hòa giải dân tộc, xã hội dân sự…
Xin lưu ý
: Cải cách đổi đời đất nước mang tầm vóc và nội dung quan trọng, bao
quát toàn bộ đời sống mọi mặt của đất nước, làm nhiệm vụ thay đổi triệt
để toàn bộ hệ thống chính trị - nhà nước của quốc gia hiện có. Nhưng
không được phép để xảy ra tình huống xuất hiện khoảng trống quyền lực
trong khi tiến hành cải cách. Vì lẽ cốt tử này, cải cách phải được một
lực lượng chính trị có ảnh hưởng chi phối quốc gia thực hiện. So sánh
tương quan các lực lượng chính trị - kinh tế - xã hội ở nước ta trong
tình thế cấp bách hiện nay, một lực lượng chính trị đủ mạnh và có sẵn
như thế chỉ có thể là Đảng cộng sản Việt Nam đã chuyển đổi thành đảng
của dân tộc. Đây cũng là điều lý tưởng nhất có thể lúc này để tiến hành
cải cách trong hòa bình theo tinh thần khép lại quá khứ và không hồi tố,
vì thời gian và nguy cơ không chờ đợi !
Vậy chỉ còn con đường sống duy nhất : Đảng cộng sản Việt Nam như đang là phải
lột bỏ ý thức hệ và tình trạng thoán quyền, chỉ giữ lại cho mình trách
nhiệm ràng buộc với đất nước, tự thay đổi mình trước thành đảng của dân
tộc với tinh thần "sống hay là chết", để có phẩm chất và khả năng mới của sự giác ngộ Tổ quốc trên hết, để từ đó mới có thể đề xướng được cải cách, và vận động được cả nước đứng lên thực hiện.
Muốn thế, Đảng cộng sản Việt Nam như đang là phải làm được 2 việc :
1.
Phải nhận thức được đòi hỏi sống còn đưa quốc gia bước sang thời kỳ
phát triển mới trong một thế giới đã hoàn toàn thay đổi là trách nhiệm ràng buộc của đảng ; nếu Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay từ
chối không làm, chống lại, hoặc làm hỏng… đều sẽ đồng nghĩa với phạm
trọng tội chống lại quốc gia, đảng không còn chính danh để tồn tại ; nếu
để xảy ra như thế, cái trước sau phải đến không thể tránh được sẽ là : Chế
độ toàn trị sẽ dẫn tới "dân lật thuyền", hoặc bị tha hóa làm cho sụp
đổ, đất nước lâm vào đại họa, chôn vùi theo toàn bộ sự nghiệp của đảng ;
2.
Đảng phải quyết tâm thay đổi chính mình trước, phải tin vào nhân dân,
và tự tin chính mình, quyết đi cùng với nhân dân mở ra trang sử mới đổi
đời này của đất nước. Làm được như thế, ngoài cái tha hóa và tham nhũng
thối nát ra, đảng không có gì để mất ! Nắm mọi quyền lực trong tay, đảng
đã dẫn dắt đất nước đi vào tình thế đau lòng và hiểm nghèo hôm nay,
đảng phải có trách nhiệm ràng buộc tự lột xác mở lối ra cho đất nước !
Đảng ra đời từ yêu nước, hy sinh cứu nước đã làm nên sự nghiệp của đảng.
Giữ được truyền thống này và có nhân dân, đảng sẽ thực hiện được sứ
mệnh lịch sử mới này.
Như thế, Đảng cộng sản Việt Nam như đang là cần tự thay đổi mình trước thành
đảng của dân tộc – như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cách đây 22 năm đã
chính thức nêu ra với đảng (thư 09/08/1995). Đây là điều kiện tiên quyết
tất yếu. Chỉ trên cơ sở đó, đảng mới có thể đề xướng, có khả năng và có
chính danh để tiến hành cải cách, động viên được sự tham gia của toàn
dân.
Con
đường đảng đã thay đổi thành đảng của dân tộc để cùng với toàn dân tiến
hành cải cách đổi đời đất nước, sẽ là con đường tất cả cùng thắng rất
lớn, và không gì có thể ngăn cản được. Tất cả chỉ còn phụ thuộc duy
nhất vào việc Đảng cộng sản Việt Nam như đang là dám vứt bỏ mọi tha hóa
và tham nhũng thối nát của mình, dám chặn đứng mọi sự can thiệp vào nội
bộ ta từ bên ngoài.
Làm được như thế,
đảng sẽ tránh được mắc phải trọng tội phản dân phản nước trước bước
ngoặt của lịch sử, trở thành đảng của dân, của nước và xác lập được cho
mình con đường vì dân, vì nước trong giai đoạn phát triển mới của đất
nước, kế thừa được truyền thống cách mạng vẻ vang cứu nước của các thế
hệ đi trước.
Đảng
cần nuôi cho mình khát vọng làm được như thế, vì còn gì đáng sống hơn
cho một con người, cho một đảng viên và cho một đảng là trở thành người
đề xướng và chung tay với cả dân tộc mở ra một thời kỳ phát triển mới
của tổ quốc ! ? Đảng phải làm như thế để không phản bội các bậc tiền bối
của mình !
Đảng
cộng sản Việt Nam như đang là quyết tự thay đổi mình trước để làm được
như thế, có thể nói sự nghiệp cải cách có ý nghĩa sinh tử này của đất
nước triển vọng thành công mười phần đã đạt được tới tám, chín phần !
Làm được như thế, Việt Nam bước lên con đường phát triển mới trong thế
giới mới hôm nay sẽ là lẽ tự nhiên, tất yếu, và bất khả kháng.
Vẫn
cứ phải xin nhắc lại : Nếu đảng quyết không làm như thế, thậm chí chống
lại làm như thế, hoặc sợ không dám làm như thế, sẽ có nghĩa đảng tự tay
xóa bỏ toàn bộ sự nghiệp cách mạng của đảng và chống lại đất nước. Trong
tình hình nghiêm trọng hiện nay, nếu bây giờ lãnh đạo đảng vẫn quyết
như thế, thì nên tuyên bố công khai trước toàn dân, toàn thể các đảng
viên phải bầy tỏ thái độ rõ ràng của mình, các tầng lớp nhân nên dân huy
động trí tuệ của mình để quyết định. Cho đến nay đảng đã thực hiện
nhiều biện pháp chống lại cải cách : Điều 4 Hiến pháp, 19 điều cấm, nghị
quyết 244, NQ TƯ 4 (30-10-2016) với 27 "biểu hiện" phải chống (đặc biệt
là nhóm 3 – biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ)… Bây
giờ đứng trước bước ngoặt của lịch sử đất nước, lãnh đạo đảng nhất
thiết phải xem lại. Hôm nay phải lột xác cứu đảng để mở đường cải cách
cứu nước còn hơn cả cứu hỏa ! Bây giờ vẫn còn kịp !
Nội dung cải cách có thể phác họa một cách tóm lược như sau :
Thứ nhất : Mục đích cuối cùng và cũng là cao nhất cải cách chính trị ở nước ta hôm nay phải đạt được nên là : Từ
hòa giải, đoàn kết và đồng thuận dân tộc quật khởi nên một quốc gia
Việt Nam phát triển của toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam chúng ta – đúng với tinh thần đã nêu từ Cách Mạng Tháng Tám : "Nước Việt Nam là của người Việt Nam !", với các tiêu chí Dân chủ, Cộng hòa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.
Thứ hai
: Kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự là 3 trụ cột
làm nên quốc gia vững bền, phải được xây dựng và phát triển từng bước
thích hợp trong tổng lộ trình hình thành nên một nước Việt Nam phát
triển, với các tiêu chí như đã nêu trong điểm thứ nhất.
Thứ ba
: Thể chế chính trị cần phải xây dựng là một nhà nước pháp quyền dân
chủ, có phân định rạch ròi các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền
tư pháp, hoạt động ràng buộc nhau và kiểm soát lẫn nhau trong khung khổ
chung của một Hiến pháp mới ; nhà nước này được xây dựng và hình thành
trên những nguyên tắc của bầu cử dân chủ. Kinh tế thị trường và xã hội
dân sự là 2 yếu tố căn bản tạo dựng nên nhà nước pháp quyền này, vì lẽ
này nhà nước pháp quyền dân chủ tất yếu phải được xây dựng trên nền tảng
của thể chế chính trị dân chủ đa nguyên, được thiết kế theo một hiến
pháp mới đúng với tinh thần nhà nước do dân, của dân, vì dân. Đây
phải là cái đích cuối cùng và cao nhất của toàn bộ quá trình cải cách
chính trị lần này, được thực hiện dần từng bước dựa trên mọi thành quả
kinh tế - chính trị - xã hội và tiến bộ của quốc gia đạt được trong suốt
quá trình tiến hành cải cách này.
Học
hỏi là động lực trí tuệ xuyên suốt quá trình này – vì thế tôi gọi đó
là thể chế chính trị đa nguyên của học hỏi, của giác ngộ, của phát
triển, bởi vì nó được xây dựng từng bước và thường xuyên nâng cao theo
tiến trình của giác ngộ và phát triển ; nó khác hẳn với đa nguyên của
bầy đàn, vô minh và hỗn loạn. Nói đơn giản : Đó là lấy mở rộng tự do dân
chủ tạo ra giác ngộ của trí tuệ và đồng thuận xã hội làm động lực cho
việc tiến hành cải cách, để từng bước xây dựng nên một thể chế chính trị
mới. Vì thế có thể nói : Cải cách chính trị lần này là tiến hành những
cuộc vận động chính trị lớn và sâu rộng trong toàn xã hội như đã từng
làm thời Cách Mạng Tháng Tám nhằm thay đổi sâu sắc toàn diện đời sống
đất nước.
Thứ tư
: Các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền sở hữu cá nhân, và các
quyền con người phải được thể hiện đầy đủ và được bảo đảm trong Hiến
pháp, đồng thời được phản ánh trong mọi bộ luật của quốc gia. Những quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội, quyền biểu tình, quyền tự do báo chí phải
được xem và thiết kế là những quyền trực tiếp bảo đảm việc thực hiện
các quyền công dân và quyền con người, đồng thời những quyền này làm
nhiệm vụ tạo nền móng cho sự hình thành và hoạt động của xã hội dân sự, mang lại động lực cho tiến hành cải cách.
Quân đội, công an và các lực lượng chuyên chính khác là công cụ bảo vệ
đất nước và giữ gìn an ninh quốc gia, được xây dựng và hoạt động trong
khuôn khổ hiến pháp và luật pháp quốc gia, chỉ trung thành với quốc gia,
với nhân dân.
Thứ năm
: Toàn bộ các đảng phái chính trị, các loại hình hiệp hội cùng các
thành viên của nó chỉ được hoạt động trong khuôn khổ của xã hội dân sự,
trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật – bao gồm cả luật/các luật về
các đảng phái chính trị, hiệp, hội, các tổ chức dân sự khác… Tất đều
bình đẳng trước pháp luật, tự túc về tài chính và không được sử dụng
tiền thuế của dân.
Một
khi những cá nhân của những tổ chức này thông qua bầu cứ dân chủ theo
luật định được cử vào tham gia bộ máy nhà nước thì trở thành đại diện
của các cử tri bầu cho họ, hoạt động theo Hiến pháp, chứ không đại diện
cho các đảng phái hay các tổ chức chính trị xã hội xuất thân của họ.
Khái niệm đảng cầm quyền chỉ thuần túy là tên gọi không hơn không kém
cho đảng phái có nhiều thành viên (thường là chiếm đa số hoặc thông qua
liên minh) tham gia chính quyền. Nghĩa là : Không có các đảng phái
hay các tổ chức chính trị xã hội với tính chất là chính nó trong bộ máy
và hệ thống pháp quyền của nhà nước, đây là đặc chưng cốt lõi "nhà nước
do dân, của dân, vì dân".…
Trên
đây chỉ là một gợi ý sơ bộ để tham khảo. Tôi tin rằng nếu lãnh đạo đảng
huy động trí tuệ cả nước xây dựng chiến lược cải cách đưa đất nước đi
vào thời kỳ phát triển mới, chắc chắn đất nước sẽ có được một chiến lược
cải cách của toàn dân và nhất định thành công.
Tới đây tôi trân trọng đề nghị :
Tổng
bí thư Nguyễn Phú Trọng, với trách nhiệm là người giữ cương vị cao nhất
trong đảng, yêu cầu Bộ Chính trị ra quyết định khép lại quá khứ, đoàn
kết toàn Bộ Chính trị và toàn đảng, huy động toàn đảng và dựa vào trí
tuệ của nhân dân cả nước quyết tiến hành cuộc cải cách chính trị không
thể trì hoãn này. Đảng phải thay đổi thành đảng của dân tộc để có thể
dấy lên cuộc cải cách của toàn dân cứu nước và đổi đời đất nước ! Đây
cũng là con đường cứu đảng thành đảng của dân tộc, mãi mãi đi với dân
tộc. Thời gian không chờ đợi. Mọi thách thức trong/ngoài đang uy hiếp
đất nước không biết chờ đợi !
Trước
những thách thức nghiêm trọng của quốc gia, tôi cầu mong cả nước – đặc
biệt là những đảng viên muốn cứu đảng để cứu nước – hãy lên tiếng về vận
mệnh đất nước, cùng nhau làm tất cả mọi việc vì đất nước với sự giác
ngộ cao nhất về cuộc cải cách phải tiến hành này !
Nguyễn Trung
Xin đọc tiếp 3 phục lục đính kèm
**************
Phụ lục I
Về con đường cải cách đi qua Đảng cộng sản Việt Nam đã thay đổi trở thành đảng của dân tộc
Thực trạng hiện nay là :
-
Đảng như đang là ngày càng không có dân đi với mình và ngày càng bất
cập do tha hóa và do nhiệm vụ đất nước đặt ra cho đảng ngày càng vượt
tầm, khiến đảng ngày càng bị thách thức, càng phải trấn áp để giữ chế độ
toàn trị ;
-
Trong xã hội dân sự hiện nay dân tình ngày càng bức xúc và không có
đường lùi ; dân hiện nay tuy chưa đủ sức lật thuyền xóa bỏ đảng, nhưng
tình hình ngày càng đến gần tức nước vỡ bờ, cùng tắc biến ;
-
Tình hình từ hai, ba khóa đại hội nay cho thấy mâu thuẫn giữa một bên
đảng một bên dân nói trên gây ra nhiều xung đột ngày càng lớn và quyết
liệt, hoặc ngầm ngầm, hoặc bùng nổ công khai. Tình trạng bế tắc này tự
nó đang hấp dẫn ngày càng mạnh mẽ những bi kịch tồi tệ nhất đến với đất
nước, với mọi kết cục thê thảm có thể.
Trong
những bi kịch có thể xảy ra này, bạo loạn lật đổ, hoặc chế độ tự sụp đổ
là nguy hiểm nhất, sẽ có thể mang lại cho đất nước đau khổ và tổn thất
lớn nhất. Bởi vì sự phá hủy này nếu xảy ra sẽ chỉ đem lại điêu tàn cho
đất nước. Trong cái bầu không khí chiến tranh lạnh muốn ăn thịt người
trên thế giới hiện nay, nhất là Việt Nam lại nằm ở vị trị địa đầu trong
khu vực, sẽ không sao đoán trước được cái gì sẽ xảy ra cho nước ta tiếp
theo sự phá hủy này !
Điều
chắc chắn : Quốc gia bạo loạn, nạn "đục nước béo cò" dù là cò "nội" hay
cò "ngoại" sẽ tìm đến như kền kền tìm xác thối ! Mong đừng ai mù quáng
tưởng rằng đấy sẽ là "sự phá hủy sáng tạo" của Schumpeter ! Chỉ cần xem
ai là người khích cho nước ta phải rối ren hơn nữa, sẽ thấy ngay sự phá
hủy này có thể mang lại cho đất nước những gì. Song giữ nguyên trạng chế
độ toàn trị ngày càng ruỗng nát thế này, trước sau cũng tất yếu dẫn tới
bạo loạn !
Hai
năm khóa Đại hội XII cho thấy : Mọi nỗ lực rất quyết liệt và chật vật
nhằm cứu vãn tình hình cho đến nay của đảng và của chế độ toàn trị trong
mọi lĩnh vực cuộc sống đất nước chỉ là "bịt lỗ hà, ra lỗ hổng", hoặc là "giật gấu vá vai".
Hệ thống kinh tế và hệ thống chính trị - xã hội của đất nước dù có vắng
bớt được đôi ba bộ mặt tham nhũng xấu xí ; song chồng chéo, manh mún,
ăn bám, tham nhũng, và mục ruỗng của hệ thống trước sau vẫn nguyên vẹn.
Nghĩa là : (a) cỗ máy sản sinh ra mọi tội lỗi của chế độ toàn trị, và
(b) hiện trạng nguy hiểm của đất nước đều còn nguyên vẹn, và tình hình
mọi mặt đang ngày càng rối thêm. Đất nước đang èo uột tiếp để chịu bó
tay làm mồi cho mọi ý đồ xấu xa phía trước. Trong khi đó thời gian và
mọi thách thức trong / ngoài không biết chờ đợi. Khoanh tay bất lực ngồi
yên, hay cứ loay hoay mãi ngứa đâu gãi đấy, cháy đâu chữa đấy như đang
làm, đều đồng nghĩa với tự sát. Phải nhìn thẳng vào sự thật này để không
lạc hướng trong lúc tìm lối ra cho đất nước : Lột xác cứu đảng để cải cách mở đường cứu nước – lẽ ra đây phải là nội dung duy nhất của Đại hội XII !
Chỉ
có con đường sống : Đảng phải thay đổi chính mình thành đảng của dân
tộc, còn dân quyết đi cùng với đảng đã thay đổi, để cùng sống, sống
được, trên hết là để có thể cùng nhau thực hiện cải cách cứu mình và cứu
nước, và mở ra cho đất nước thời kỳ phát triển mới.
Lý tưởng nhất, con đường này sẽ là : Bộ
Chính trị huy động trí tuệ cả nước và trong Đảng, vận dụng những kinh
nghiệm thành/bại trên con đường phát triển của chính nước ta và các nước
khác trên thế giới xây dựng nên chiến lược cải cách của ta, sau đó làm
cho chiến lược cải cách trở thành nghị quyết của toàn Đảng – bắt đầu là
của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Sau cùng là việc thay đổi đảng thành
đảng của dân tộc và thực hiện cải cách trở thành nghị quyết của Đại hội
Đảng toàn quốc.
Thực
hiện nghị quyết đại hội, đảng – thông qua đảng viên và các tổ chức cơ
sở của mình – làm nhiệm vụ hạt nhân lãnh đạo và đồng thời là lực lượng
nòng cốt vận động nhân dân cả nước tiến hành cuộc cải cách này theo kế
hoạch và các bước đã thiết kế được, với tổng lộ trình gồm 2 phần trước
sau dưới đây :
A. Đảng tiến hành thay đổi chính mình trước trở thành một đảng mới : đảng của dân tộc ; sau đó
B. Triển khai trong cả nước chiến lược cải cách của đảng mới.
Đại thể cải cách có thể chia thành 3 giai đoạn sau đây :
Giai đoạn I :
Hoàn
thành phần A của tổng lộ trình, làm xong việc chuyển đổi thành đảng mới
với cương lĩnh mới, điều lệ mới, tiến hành tổ chức lai đảng theo tinh
thần lấy xã hội dân sự làm môi trưởng rèn luyện, phấn đấu và hoạt động
của đảng, với mục tiêu trở thành lực lượng chính trị mạnh nhất và có
tính tiền phong chiến đấu cao trong xã hội dân sự. Đảng mới sẽ tiến hành
mọi hoạt đông thực hiện các nhiệm vụ của mình theo tinh thần "Điều 4"
của Hiến pháp hiện hành không còn tồn tại nữa trong thực tế (vì lúc này
chưa có Hiến pháp mới). Có những điểm nổi bật sau đấy :
1.
Cương lĩnh mới của Đảng cộng sản Việt Nam đã chuyển hóa thành đảng yêu
nước của dân tộc và dân chủ - nên lấy lại tên cũ là Đảng Lao động Việt
Nam, gồm 3 phần chính :
(a)
khẳng định mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam phát triển theo con
đường dân tộc và dân chủ, hòa nhập cộng đồng thế giới vì hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển, phấn đấu giành vị thế xứng đáng trong kinh
tế thế giới toàn câu hóa ở giai đoạn hiên nay ;
(b)
xây dựng một thể chế chính trị / nhà nước dân tộc và dân chủ của hòa
giải và đoàn kết dân tộc dựa trên kinh tế thị trường, nhà nước pháp
quyền, xã hội dân sự, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ đất nước của nhân
dân ;
(c)
chuyển đổi và xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay thành đảng yêu
nước của dân tộc và dân chủ trên cơ sở gìn giữ và phát huy truyền thống
dựng nước và giữ nước, sự nghiệp giành độc lập thống nhất, các giá trị
của dân tộc và của văn minh nhân loại, nguyện phấn đấu đi tiên phong
trong hàng ngũ dân tộc vì sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam độc lập,
thống nhất, hòa bình, dân chủ, giầu mạnh, công bằng, văn minh.
2.
Điều lệ đảng mới bảo đảm cho đảng viên và toàn đảng được tổ chức và xây
dựng phù hợp tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước, đòi hỏi đảng viên
thông qua học tập :
- nâng cao kiến thức và giác ngộ chính trị để có năng lực và phẩm chất lấy xã hội dân sự làm môi trường phấn đấu ;
-
gương mẫu mọi mặt để có thể trở thành hạt nhân lãnh đạo trong mọi hoạt
động của xã hội dân sự, qua đó phát huy ý chí, nội lực và sự sáng tạo
của mọi tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cải cách đòi hỏi ;
-
khơi dậy mọi sáng kiến và phong trào của nhân dân trong xã hội dân sự,
đi tiên phong xây dựng những phong trào vận động lớn của toàn quốc hoặc
từng vùng miền, từng lĩnh vực để giải quyết những vấn đề trọng đại trong
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ;
- đẩy mạnh cải cách giáo dục, xây dựng nếp sống mới tôn trọng luật pháp và các quyền của công dân, quyền con người ;
-
tạo ra những chuyển biến mới mọi mặt của đất nước, thực hiện những kế
hoạch phát triển, tạo công ăn việc làm mới, tăng cường khả năng cạnh
tranh của sản phẩm Việt Nam, gìn giữ môi trường tự nhiên, tranh thủ đầu
tư nước ngoài và hợp tác quốc tế.
-
xây dựng mới phù hợp với hiến pháp và pháp luật mới (sẽ phải có) những
tiêu chuẩn của đảng viên và tổ chức đảng các cấp phù hợp với thể chế
chính trị dân chủ pháp quyền và khả năng hoạt động của đảng / các tổ
chức cơ sở đảng trong xã hội dân sự để trở thành lực lượng chính trị có
khả năng đi tiên phong trong mọi tiến bộ của đất nước ;
-
lấy thúc đẩy những thành quả đạt được trong vận động xã hội dân sự
thành những động lực bên cạnh những động lực kinh tế - chính trị - xã
hội khác góp phần thúc đẩy sự phát triển và những tiến bộ mới của đất
nước ;
-
cho ra khỏi đảng những đảng viên không muốn hoặc không đủ điều kiện là
đảng viên của đảng mới, đẩy mạnh kết nạp đảng viên mới – trước hết là
trong đối tượng thanh niên, học sinh, sinh viên, trí thức, doanh nhân
giỏi… nhằm mang lại cho đảng năng lực và sức sống mới, dứt khoát vứt bỏ
chủ nghĩa lý lịch và chủ nghĩa thành phần và hậu duệ.
-
qua thực tiễn phấn đấu này rèn luyện đảng trở thành lực lượng chính trị
nòng cốt và đội ngũ tiên phong của một nước Việt Nam mới : Đảng theo
đuổi những giá trị của dân tộc và dân chủ, những tiến bộ mới của trí tuệ
và văn minh nhân loại.
Xin đặc biệt lưu ý về đảng : Đối tượng vận động của đảng chính trị luôn luôn là nhân dân. Quan điểm đúng đắn này đã được nhấn mạnh : Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng (nói
đúng hơn : Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân). Trung thành với quan
điểm này, đảng đã làm nên thắng lợi của 4 cuộc kháng chiến vĩ đại.
Ngày nay,
cải cách là để xây dựng quốc gia độc lập có chủ quyền của thể chế chính
trị pháp quyền dân chủ, trong đó nhân dân là chủ đất nước với tính cách
là công dân trong xã hội dân sự. Vì thế trong cải cách đổi đời đất
nước, Cương lĩnh và Điều lệ mới của đảng (đã thay đổi trở thành đảng của
dân tộc) cần làm rõ nhiệm vụ của đảng và đảng viên là phải có phẩm
chất, năng lực, xác định mục tiêu phấn đấu là lấy xây dựng và phát
triển xã hội dân sự làm môi trường nuôi dưỡng và phát huy sự trưởng
thành, quyền năng và sức mạnh của công dân, coi đây là mặt trận chính
trị số một của đảng để thực hiện hòa giải, đoàn kết và phát huy sức mạnh
toàn dân tộc cho nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thế giới hôm
nay. Đây là nhiệm vụ cơ bản hàng đầu của một đảng lãnh đạo trong
thời kỳ phát triển mới của đất nước, khác hẳn với thời kỳ làm nhiệm vụ
cách mạng giành độc lập và kháng chiến cứu nước !
Đặc điểm mới này quyết định bản chất hoàn toàn mới của đảng, đồng thời đòi hỏi phải có đường lối mới và tổ chức mới của đảng mà cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đề cập tới (thư 09/08/1995). Nhiệm vụ đổi mới Đảng cộng sản Việt Nam như đang là thành
đảng của dân tộc trước hết là hiểu theo tinh thần này. Chủ động xây
dựng và phát triển xã hội dân sự như thế là môi trường rèn luyện phẩm
chất của tính chiến đấu và tính tiền phong của đảng, đồng thời là bí
quyết để phấn đấu giành về cho đảng vai trò lãnh đạo trong thể chế chính
trị dân chủ đa nguyên.
Đây
là những đòi hỏi rất cao về trí tuệ, bản lĩnh và các phẩm chất thuộc
các phạm trù đạo đức và giá trị. Tất cả nói lên Đảng cộng sản Việt Nam như đang là phải
thay đổi hoàn toàn về bản chất, đúng với quy luật : nhiệm vụ mới của
đất nước đòi hỏi phải có đảng chất lượng mới, nếu không muốn bị loại
bỏ.
Có thể tổng kết : Trước 30/04/1975 là giai đoạn làm nhiệm vụ cách mạng để giành độc lập thống nhất, sau 30/04/1975 là làm nhiệm vụ phát triển để xây dựng và bảo vệ tổ quốc ; vì không nhận thức được sự khác nhau của 2 nhiệm vụ chính trị là cách mạng và phát triển như thế để thay đổi, nên 42 năm qua từ đảng lãnh đạo đảng đã biến chất thành đảng cai trị, không oan uổng !
3.
Ra Tuyên bố của Đảng cộng sản Việt Nam chuyển đổi thành đảng yêu nước
của dân tộc và dân chủ (nên đổi tên là Đảng Lao Động Việt Nam), tuyên bố
trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới quyết định đổi mới thành đảng
yêu nước của dân tộc và dân chủ (Đảng Lao Động Việt Nam), làm rõ đất
nước đã hoàn thành một giai đoạn phát triển, ngày nay phải chuyển sang
một giai đoạn mới để trở thành một nước phát triển trong một thế giới đã
sang trang đi vào thời kỳ của một cục diện quốc tế mới.
Khẳng
định mục tiêu chiến lược của đảng mới là kế tục mọi thành tựu đất nước
đã giành được đến nay để đưa đất nước lên con đường trở thành nước phát
triển của một thể chế chính trị / nhà nước dân tộc và dân chủ dựa tên
kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự, nhằm xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, độc lập thống nhất, dân chủ và giầu mạnh ;
lấy hòa giải đoàn kết dân tộc và phát huy các giá trị truyền thống của
dân tộc và của văn minh nhân loại làm động lực thực hiện mục tiêu trọng
đại này ; kêu gọi toàn dân nỗ lực chung vai sát cánh với đảng thực hiện,
đảng nguyện trung thành với lợi ích của nhân dân và của đất nước, phấn
đấu trở thành chỗ dựa tin cậy và là lực lượng nòng cốt của cả nước trong
thực hiện cuôc cải cách đổi đời đất nước cũng như trên con đường đưa
đất nước trở thành nước phát triển theo kịp tiến bộ của nhân loại.
Đảng ra tuyên bố trước toàn thế giới về quyết định thực hiện cuộc cải cách trọng đại này :
- khẳng
định xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập thống nhất, dân chủ
và giầu mạnh, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển trong quan hệ
với moi quốc gia và với các tổ chức quốc tế và khu vực ;
-
lấy phát huy hòa giải đoàn kết dân tộc, các giá trị của dân tộc, tự do,
dân chủ, bảo vệ và phát huy các quyền con người và bảo vệ môi trường
làm động lực xây dựng và bảo vệ đất nước ;
-
Việt Nam khẳng định theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, tôn
trọng luật pháp quốc tế, làm tròn trách nhiệm của thành viên Liên hiệp
quốc ;
-
Việt Nam kêu gọi mọi quốc gia và mọi tổ chức quốc tế và khu vực chủ
động góp phần mình gìn giữ hòa bình, bảo vệ tự do lưu thông hàng hải, và
giải quyết hòa bình mọi tranh chấp có liên quan đến vấn đề chủ quyền
trên trong Biển Đông theo tinh thần UNCLOS 1982 và luật pháp quốc tế,
cùng chung sức phát huy vai trò của ASEAN xây dựng Đông Nam Á thành khu
vực của hòa bình, hợp tác và phát triển, qua đó góp phần vào hòa bình và
sự thịnh vượng chung của thế giới ;
-
trong trường hợp Việt Nam bị xâm lược, Việt Nam quyết tâm bảo vệ độc
lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của mình, đồng thời giành cho mình
quyền kêu gọi sự giúp đỡ của cộng đồng thế giới.
Nói thì ngắn gọn như vậy, song nội dung là quyết xây dựng đối nội và theo đuổi một đường lối đối ngoại dấn thân, để tạo ra vị thế quốc gia mới cho đất nước.
Ngay
sau khi ra 2 tuyên bố nói trên, trả lại tự do cho tất cả những người bị
tù vì bất đồng chính kiến với chế độ chinh trị, khuyến khích và tạo mọi
điều kiện cho họ đem hết sức mình tham gia cuộc cải cách vĩ đại của đất
nước ; đồng thời tiến hành cuộc vận động lớn trong cả nước thực hiện
hòa giải và đoàn kết dân tộc, tạo ra sự đồng thuận của toàn dân tộc tiến
hành thắng lợi cuộc cải cách đổi đời đất nước.
Trong
Giai đoạn I này, như một khởi động đầu tiên của toàn hệ thống chính trị
- xã hội cả nước, đảng tiến hành ngay cuộc vận động lớn trong cả nước
thực hiện tiết kiệm triệt để chi tiêu – trước hết gương mẫu cắt giảm mọi
chi tiêu có thể cho đảng và trong đảng, để cứu nguy thâm hụt ngân sách
quốc gia, dồn mọi nguồn lực cho yêu cầu phát triển của kinh tế.
Qua cuộc vận động này xây dựng và hình thành một phong cách làm ăn trung thực, hiệu quả, tiết kiệm trong cả nước. Từ
đó xây dựng những chuẩn mực đạo đức và chính trị đầu tiên của quốc gia
cần xác lập cho toàn bộ sự nghiệp đưa đất nước trở thành nước phát
triển. Tạo dựng được phong trào mở đầu nhưng rất quan trọng này, hy vọng
những giá trị tốt đẹp sẽ được củng cố và có sức sống mới, đồng thời đất
nước sẽ nảy nở những tinh hoa và trí tuệ mới. Đây có thể là cái đà đầu
tiên vận động toàn bộ quá trình cải cách và xây dựng đất nước.
Tóm
lại, Giai đoạn I thực hiện xong nhiệm vụ đảng tự thay đổi và cải cách
đảng trước về đường lối, về tổ chức và về phương thức hoạt động, để có
khả năng xây dựng xong và triển khai chiến lược cải cách và phương thức /
kế hoạch thực thi trong cả nước. Trên cơ sở tự cải cách chính mình
trước như vậy, đảng chủ xướng và dẫn dắt cả nước thực hiện cuộc cải cách
trọng đại này.
Ngay
lập tức (nghĩa là trong khi chưa có Hiến pháp mới) đảng chuyển sang
hoạt động theo phương thức của đảng cầm quyền trong một thể chế chính
trị pháp quyền dân chủ (trước hết với tinh thần trên thực tế coi như
không còn "Điều 4"), lấy xã hội dân sự làm địa bàn hoạt động chủ yếu,
thực hiện những sửa đổi / cải cách bước đầu cần thiết hệ thống hành
chính quốc gia để bảo đảm yêu cầu xúc tiến cải cách, duy trì đươc sự vận
hành liên tục của mọi lĩnh vực trong cuộc sống trong suốt thời gian
tiến hành cải cách, không để xảy ra khoảng trống quyền lực.
Giai đoạn II :
-
Thực hiện tiếp những bước cải cách cụ thể đã đề ra trên cơ sở về cơ bản
giữ bộ khung cũ của toàn bộ hệ thống hành chính sự nghiệp với những
thay đổi cần thiết về tổ chức, cơ chế hoạt động, nhân sự, song song với
thi hành những chính sách mới hoặc những quy định mới đúng với tinh thần
và nội dung của cải cách. Đặc biệt chú trọng xây dựng và thực hiện ngay
những luật cơ bản (có thể là những Luật tạm thời trước khi có Hiến pháp
mới) về tự do báo chí, tự do thành lập hiệp hội, về quyền biểu tình, về
quyền thể hiện ý chí của nhân dân, về quyền con người, bảo đảm thực
hiện công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình.., qua đó tạo ra động
lực quyết định xúc tiến cải cách. Tất cả những hoạt động này dựa trên
nền tảng nâng cao dân trí và tinh thần thượng tôn pháp luật, hòa giải và
đoàn kết của nhân dân cũng như của hệ thống chính trị / nhà nước… Tất
cả những bước đi mới này nhằm phát huy mọi động lực toàn xã hội thúc đẩy
tiến trình cải cách diễn ra năng động và hiệu quả, giảm thiểu ở mức có
thể nhất mọi xung đột hay tổn thất không đáng có, kết hợp với xây dựng
và thực hiện nếp sống văn minh, gìn giữ và phát huy những giá trị đạo
đức xã hội.
-
Xây dựng những chính sách và chủ trương thực hiện mới để thực hiện song
song các nhiệm vụ phát triển kinh tế, giải quyết những nhiệm vụ chính
trị / văn hóa / xã hội phải tiến hành, thực hiện những bước cải cách
giáo dục ở giai đoạn này phù hợp với tiến trình của cải cách. Đây vừa là
những nhiệm vụ phát triển cụ thể phải thực hiện song song với tiến
trình cải cách, đồng thời tạo tiền đề tiến hành thay đổi / xây dựng các
bộ luật mới.
- Bàn hành dự thảo hiến pháp mới huy động toàn dân tham gia xây dựng.
-
Ban hành dự thảo và thông qua Luật về các đảng phái chính trị và các tổ
chức đoàn thể xã hội để xây dựng thành bộ luật chính thức sau này làm
cơ sở pháp lý cho hoạt động của mọi đảng phái chính trị và đoàn thể xã
hội. Bộ Luật này bảo đảm các đảng phái chính trị và đoàn thể xã hội bình
đẳng trước pháp luật, tự chủ về tài chính, không được sử dụng thuế và
ngân sách của nhà nước, lấy xã hội dân sự làm môi trường phát triển và
hoạt động của mình, đồng thời góp phần bảo đảm trong hệ thống chính trị /
nhà nước và bộ máy vận hành của quốc gia chỉ có Hiến pháp và luật pháp
quyết định tất cả.
Giai đoạn III :
Thông
qua Hiến pháp mới, đồng thời thực hiện tiếp mọi bước đi của cải cách
trong giai đoạn này, xây dựng / hoàn thiện những luật pháp và thể chế
kinh tế theo Hiến pháp và hệ thống pháp luật mới. Thành tựu phát triển
kinh tế và sự ra đời của thể chế chính trị / nhà nước mới theo Hiến pháp
mới là thước đo nội dung và quá trình tiến triển của cải cách ở giai
đoạn này.
Nên
tham khảo mô hình thế chế chính trị / nhà nước và bộ máy hành chính sự
nghiệp của Singapore, Nhật và Hàn Quốc để vận dụng vào nước ta theo tinh
thần của Tuyên ngôn Độc lập 02/09/1945, Hiến pháp 1946 và cách tổ chức
quốc hội 1946, được bổ sung những nét cập nhật phù hợp với đòi hỏi của
đất nước và bối cảnh quốc tế hiện tại. Nét đặc trưng chung của 3 mô hình
này (Singapore, Nhật, Hàn Quốc) là tính tập trung để tạo ra khả năng
quyết đoán cao, đồng thời bảo đảm được dân chủ, tính công khai minh bách
và trách nhiệm giải trình.
Trên
cơ sở những bước tiến mới nói trên, tiến hành xây dựng một thể chế
chính trị / nhà nước đa nguyên, hình thành một số đảng chính trị mới
theo Hiến pháp mới và Luật về đảng phái chính trị và các tổ chức xã hội
dân sự như đã được thông qua ở giai đoạn II.
Nên
xây dựng các lý lẽ thuyết phục, và được bảo đảm bằng bộ luật về các
đảng phái chính trị và đoàn thể nói trên được thiết kế phù hợp, để hình
thành thêm các đảng chính trị mới có thể tham chính thông qua Luật bầu
cử dân chủ tự do và theo quy định của Hiến pháp.
Ở
nước ta, hợp lý nhất có lẽ chỉ nên hình thành thêm 2 đảng tham chính
mới như đã từng có trong thời đầu của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa –
đó là đảng Dân Chủ và Đảng Xã hội – song phải là 2 đảng có thực quyền và
bình đẳng trước pháp luật như mọi đảng khác theo Luật. Nếu có nhiều
đảng nữa sẽ rối và không cần thiết. Hiến pháp và các bộ Luật liên quan
cần được thiết kế sao cho bảo đảm nghiêm túc yêu cầu : thực hiện đa
nguyên, nhưng bảo đảm không quá 3 đảng tham chính trong tranh cử và bầu
cử ; thủ lĩnh của đảng có đa số ghế lớn nhất trong Quốc hội sẽ là tổng
thống với chức năng là người đại diện quốc gia cao nhất và có quyền lực
cao nhất cả nước ; thủ tướng là người trực tiếp điều hành nội các (chính
phủ) do tổng thống bổ nhiệm và được quốc hội chấp thuận ; với điều kiện
của nước ta, nên thực hiện chế độ 1 viện duy nhất là quốc hội ; tuy
nhiên nên thực hiện chế độ bầu cử từng phần so le để bảo đảm sự hoạt
động liên tục của quốc hội (không bị gián đoạn qua mỗi kỳ bầu cử). Tiến
hành bầu cử thành lập hệ thống nhà nước theo Hiến pháp mới, nên mời sự
giám sát quốc tế cuộc bầu cử để nâng cao uy tín của chính thể mới, đồng
thời tranh thủ sự ủng hộ / hậu thuẫn của cộng đồng quốc tế.
Nên
chuẩn bị sớm một chiến lược cải cách như trên để được thông qua sớm
nhất có thể tại một đại hội đảng toàn quốc bất thường, sau đó triển khai
thực hiện. Nhưng ngay sau khi Bộ Chính trị đã đi tới được quyết định
phải tiến hành cải cách, Bộ Chính trị nên có ngay một tuyên bố trình bầy
rõ quyết định chiến lược này, kêu gọi cả nước và toàn đảng đoàn kết và
phát huy tinh thần yêu nước đem hết tâm huyết tham gia sự nghiệp cách
bằng mọi hành động và việc làm thiết thực, dấy lên trong cả nước một hào
khí mới, làm cho nhân dân và từng đảng viên ngay từ ngày đầu tiên cảm
nhận được sự nghiệp cải cách này là trách nhiệm của chính mình, chủ động
làm mọi việc có thể góp phần tham gia của mình.
Trong
quá trình chuẩn bị Đại hội XII tôi đã kiến nghị thành lập nhóm ad hoc
gồm các đồng chí Bùi Quang Vinh, Vũ Đức Đam và Phạm Bình Minh giúp đảng
xây dựng nội dung Đại hội theo hướng xúc tiến cải cách nói trên. Nay tôi
xin đề nghị một lần nữa : Bộ Chính trị nên quyết định lập sớm một nhóm
như thế giúp đảng bắt tay ngay vào việc chuẩn bị và xây dựng chiến lược
cải cách.
Trên đây chỉ là những gợi ý thô sơ ban đầu để tham khảo.
Nguyễn Trung
*******************
Phụ lục II
Về chủ nghĩa Marx – Lenin
Muốn tiến hành cải cách chính trị, đảng phải chủ động loại bỏ "chủ nghĩa Marx – Lenin" và ý thức hệ đi kèm. Bởi các lẽ :
a. Đảng phải từ bỏ ý thức hệ lỗi thời để thay đổi chính mình thành đảng yêu nước của dân tộc và dân chủ.
b.
Giai đoạn phát triển mới của đất nước đòi hỏi đảng phải có một thế giới
quan mới xác lập được con đường phát triển theo các giá trị của dân tộc và dân chủ, giành được vị thế quốc gia mới trong thế giới hôm nay.
c.
Chứng minh trước nhân dân và tranh thủ được lòng tin của nhân dân là
đảng đã trở thành một đảng mới của dân tộc và dân chủ mà sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước trong thế giới hôm nay đòi hỏi.
Nên
có những công trình nghiên cứu khoa học và nghiêm túc giải quyết thấu
đáo, thuyết phục nhiệm vụ khó khăn này để giải phóng tư duy theo tinh
thần loại bỏ những cái sai và lỗi thời, gìn giữ những giá trị đúng đắn,
hướng về những giá trị mới mà thực tế khách quan của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước đòi hỏi.
Trong khuôn khổ tâm sự và trao đổi, chỉ xin nêu ra một số suy nghĩ ban đầu dưới đây.
Trước hết xin nói ngay : Cả Marx và Lenin đều không sáng lập ra chủ nghĩa này – nó không tồn tại.
Chính
bản thân Marx – và cả Ăng-ghen – đều cho tác phẩm trí tuệ của mình là
lý luận mang tính giải thích và thúc đẩy sự phát triển của cuộc sống.
Marx và Engels suốt cuộc đời mình đã nhiều lần tiếp tục điều chỉnh những
chỗ sai, có nhiều sửa đổi quan trọng, bám vào thực tiễn và sự vận động
của lịch sử để tiếp tục phát triển lý luận của mình. Tới nay đã có thể
lọc ra khoảng 9 – 10 lần Marx và Engels đã có những thay đổi như thế. Cả
Marx và Engels đều coi lý luận của mình là mở, đòi hỏi vận dụng sáng
tạo bám sát cuộc sống chứ không giáo điều, không bao giờ coi nó là học
thuyết hay chủ nghĩa mang tính khuôn sáo, áp đặt.
Còn
Lenin cũng chưa từng đưa lý luận Marx lên thành một thứ chủ nghĩa, cũng
chưa hình thành được chủ nghĩa riêng của Lenin, vì bản thân Lenin còn
đang viết NEP (New Economy Policy – Chính sách kinh tế mới, 1924) dở
dang thì qua đời. Trước khi soạn thảo NEP, điều bổ xung của Lenin vào
học thuyết Marx là quan điểm "chuyên chính vô sản". Song trong quá trình
viết NEP chính Lenin không nhắc tới hoặc đã thay đổi quan điểm này.
Thực tế cũng đã chứng minh chuyên chính vô sản là sai lầm.
Chủ
nghĩa Marx - Lenin như được nói tới, được hiểu và dạy, được thực hành
trong Đảng cộng sản Việt Nam và ở nước ta cho đến hôm nay được lấy ra từ
các phiên bản "Liên Xô" và "Trung Quốc" (nghĩa là không phải từ gốc),
có đôi chút biến báo vì lý do phiên dịch hoặc vì theo cách hiểu của Việt
Nam, vừa có nhiều cái sai so với những điều Marx viết ra, vừa đã tự
chứng minh là sai trong thực tiễn Việt Nam 42 năm nay.
Sự
thật là chủ nghĩa Marx - Lenin được các lãnh tụ của phong trào cộng sản
(Stalin, khoảng năm 1927, một số nhân vật khác…) chắt lọc chủ yếu từ
Tuyên ngôn cộng sản, rồi dựng lên thành một chủ nghĩa, một học thuyết
nhằm xác lập vai trò độc tôn lãnh đạo cách mạng (trước hết lúc đó là của
Liên Xô) và sự tồn tại của Đảng cộng sản với tính cách là một đảng độc
tôn như thế, và để chi phối mọi tư duy và hành động của toàn xã hội theo
quan điểm của Đảng cộng sản. Nội dung cốt lõi là xóa bỏ tư hữu tư liệu
sản xuất, thiết lập chuyên chính vô sản, coi đấu tranh giai cấp là động
lực của phát triển.
Ngoài ý nghĩa là một cẩm nang của cách mạng xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Marx - Lenin như vậy có thể được xem như sự khẳng định vai trò lãnh đạo tư duy của Liên Xô (và phần nào cả tôn sùng cá nhân Stalin, sau này Khrushchev (Khrouchtchev) đã bác bỏ, nhưng ở ta lại phê phán Khrushchev là xét lại) trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Marx
viết Tuyên ngôn cộng sản năm 30 tuổi (1848), và hầu như đây là tác phẩm
duy nhất Marx đề cập đến chủ nghĩa cộng sản một cách đầy đủ nhất với
tính cách là một hình thái xã hội mới tất yếu sau chủ nghĩa tư bản. Song
trong toàn bộ cuộc đời còn lại sau đó, Marx hầu như bỏ không theo cách
tiếp cận như vậy nữa, mà đi sâu vào bản chất sự vận động và phát triển
của chủ nghĩa tư bản đương thời. Dù không kiên định, song đã có lúc Marx
thừa nhận không thể làm thầy bói cho lịch sử như các dự báo của mình,
cho rằng lịch sử chỉ chấp nhận may đo, chứ không thể ốp may sẵn (Việt
Phương). Marx đã hoàn thành "Tư bản" tập I, sau đó Engels từ những phần
việc dở dang của Marx hoàn thành tiếp "Tư bản" II và III, trong đó hầu
như không nói tới chủ nghĩa cộng sản nữa.
Đáng
chú ý là : sau này Marx, song rõ nhất là Engels nhân dịp 25 năm Tuyên
ngôn cộng sản, đều coi Tuyên ngôn cộng sản chỉ có giá trị lịch sử, cuộc
sống hoàn toàn không diễn ra như đã viết trong Tuyên ngôn cộng sản. Một
số quan điểm quan trọng khác của Marx về đấu tranh giai cấp, về quy luật
bóc lột giá trị thặng dư, về quy luật tiến hóa của lịch sử… cũng cho
thấy nhiều chỗ không đúng và càng không theo kịp cuộc sống ngày nay…
Trong khi đó những phân tích của Marx về chủ nghĩa tư bản cho đến hôm
nay vẫn có nhiều giá trị thời sự [1].
Một
vấn đề vô cùng hệ trọng liên quan đến vấn đề đang bàn : Từ 6 - 7 thập
kỷ nay nhiều công trình nghiên cứu khoa học và nhiều học giả có uy tín
trên thế giới đánh giá thống nhất : chế độ của Hítle, Stalin và Mao có 3
đặc điểm giống nhau :
1. thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước - dù tên gọi của nó là gì,
2. tẩy não (chỉnh huấn, học tập, cải tạo...) để mọi người phải trung thành với chế độ,
3. biến con người thành công cụ với đòi hỏi phải phục vụ tuyệt đối chế độ (thông qua hiến pháp, luật pháp, chính sách...).
Chủ
nghĩa xã hội quốc gia của Hitler (Đức quốc xã) muốn dựng lên một đế chế
của giống người Aryan thượng đẳng, song hiện thân của nó là chủ nghĩa
phát-xít Đức, và nó là thủ phạm số 1 gây ra chiến tranh thế giới II.
Chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô lúc đầu là cái nôi và là thành trì của cách mạng
vô sản thế giới, song tha hóa dần hướng về một đế chế trong quan hệ
giữa Nga và các nước trong Liên bang xô viết, cũng như giữa Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu với nhiều rạn nứt, để cuối cùng là tan
vỡ.
Ngay
từ lúc quy mô nền kinh tế Trung Quốc còn đứng rất xa ngoài tốp 50 nước
đứng đầu thế giới, chủ nghĩa xã hội/chủ nghĩa cộng sản của Mao với quan
điểm "gió Đông thổi bạt gió Tây" đã mang màu sắc bá quyền. (Trung Quốc
không theo chủ nghĩa Marx - Lenin vì chống Liên Xô, mà chỉ một thời nêu
là "chủ nghĩa Marx").
Cả
3 chế độ toàn trị nói trên đều có những thảm sát đẫm máu lịch sử sẽ
không thể quên, những tội ác hủy hoại đến tận cùng quyền con người.
Trong
khi đó những khát vọng thể hiện đặc trưng hay thuộc tính của chủ nghĩa
xã hội hiện thực hôm nay xuất phát từ những khát vọng xa xưa của loài
người, sớm nhất là từ thời Plato và Aristotle thuộc nền văn minh Hy Lạp.
Rồi những giá trị này trở thành những quan điểm chính trị rõ rệt ở thế
kỷ thứ 16, nổi bật là Thomas More (The Utopia), và ngày nay vẫn là hoài
bão của loài người về các giá trị của tự do, hạnh phúc...
Chủ
nghĩa xã hội hiện thực – có thể nói như vậy – hôm nay được thấy trước
hết ở các nước Bắc Âu, thuộc phong trào dân chủ xã hội – nghĩa là hoàn
toàn không phải là sản phẩm của chủ nghĩa Marx - Lenin. Tiền thân của
phong trào dân chủ xã hội ngày nay là Quốc tế II mà Marx và Engels lúc
sinh thời đã phê phán rất quyết liệt, cho là cải lương và thủ tiêu đấu
tranh giai cấp. Song sang thế kỷ 21 phong trào dân chủ xã hội trên thế
giới cũng đang đi vào thời kỳ thoái trào, xã hội loài người đứng trước
nhiều vấn đề mới truyền thống và phi truyền thống, những bất công mới,
những đòi hỏi mới trong quá trình toàn cầu hóa ngày nay ; đồng thời –
như 2 mặt của một đồng xu, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra
nhiều thách thức mới…
Vậy
chủ nghĩa Marx - Lenin với tính cách là nền tảng lý luận của những gì
được gọi là xã hội chủ nghĩa hay định hướng xã hội chủ nghĩa được giảng
dạy và thực hiện ở nước ta thực chất là gì ? Lãnh đạo đảng đang đòi hỏi
phải bảo vệ, phải trung thành với chủ nghĩa Marx - Lenin nào, nó là
những nội dung cụ thể gì ? Nó có thể soi sáng con đường nào cho đảng,
dẫn đất nước đi tới đâu ?
Mọi
câu trả lời tìm được trong cuộc sống đều dẫn tới kết luận : Đó là một
tập hợp lý luận đầy khiên cưỡng, duy ý chí và mâu thuẫn, xong lại có
nhiệm vụ xác lập và biện minh cho vai trò độc tôn của Đảng cộng sản, là
nền tảng lý luận, là lá cờ giương lên để gò đất nước vào sự lãnh đạo của
đảng, v v… đồng thời là nguồn gốc và mầm mống của chế độ toàn trị ở
nước ta hôm nay.
Đáng
lưu ý là nội dung của chủ nghĩa Marx - Lenin về xây dựng chủ nghĩa xã
hội được xác định tập trung trong Tuyên bố Mạc-tư-khoa 1957 của các Đảng
cộng sản và CN quốc tế đã có nhiều điểm khiên cưỡng trái hẳn với lý
luận của Marx [2]. Cho đến nay chưa một lần nào và bất kỳ ở đâu có thể
thực hiện được nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội như đã ghi trong tuyên
bố Mạc-tư-khoa. Đơn giản vì những điều đã được xác định này không hiện
thực, duy ý chí, nên thất bại [3]. Vì lẽ này các nước xã hội chủ nghĩa
Liên Xô – Đông Âu cũ sụp đổ. Cũng vì lẽ này Việt Nam đã phải tiến hành
đổi mới 1986, và hiện nay đang bâng khuâng không biết đến hết thế kỷ này
sẽ có chủ nghĩa xã hội hay không ?
Bi
kịch kép của lý luận Marx là ngoài sự sụp đổ của các nước Liên Xô -
Đông Âu cũ, đến nay cũng chưa có một cuộc cách mạng nào thắng lợi đã xảy
ra theo lý luận của Marx. Trước khi mất 2 năm, Marx đọc cho con rể mình
viết góp ý với đường lối của Đảng công nhân Pháp : cách mạng có thể
giành thắng lợi bằng con đường hòa bình, nghĩa là không phải bạo lực, cụ
thể là thông qua bầu cử ; 1895 Engels cũng góp ý như vậy với Đảng công
nhân Đức, song Lenin không biết những điều này…
Sau
khi Marx mất, Engels tập hợp tiếp các tác phẩm của Marx và đã có lúc
thô thiển hóa những ý tưởng của Marx thành "chủ nghĩa"… (Việt Phương và
một số học giả nước ngoài khác). Việt Phương còn dẫn ra những chỗ sai
khác của Marx trong kinh tế chính trị học. Đúng là dù vĩ đại đến mấy,
con người bao giờ cũng vẫn là nhân vô thập toàn : Marx là một trong
những triết gia và nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất – tích cực
cũng như tiêu cực – đối với nhân loại trong thế kỷ 20.
Có
một điều cần suy nghĩ : Nếu đồng nhất (1) tư tưởng – lý luận Marx và
(2) phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, và (3) chủ nghĩa cộng sản
diễn ra dưới dạng các chế độ toàn trị ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa
làm một, e rằng sẽ không đúng. Dù tác động qua lại với nhau sâu sắc thế
nào, song đây vẫn là 3 thực thể khác nhau. Nên có nghiên cứu khách quan giải đáp thỏa đáng. Với cách đặt vấn đề như vậy, tôi cho rằng :
- Phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế là một cuộc đấu tranh cách mạng, là
một phản ứng tất yếu và rất đáng trân trọng của nhân loại trước thực tế
phát triển đẫm máu và mồ hôi người lao động trong chủ nghĩa tư bản cho
đến những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, chính phong trào đấu tranh
cách mạng này đã góp phần quan trọng làm nên những tiến bộ xã hội của
nhân loại trong thế giới hôm nay.
- Chủ
nghĩa tư bản nói chung hay là các nước tư bản – cũng có lúc với những
đối tượng nào đó ngôn ngữ ta gọi là các nước đế quốc – một phần do đòi
hỏi tự thân, một phần do tác động của các trào lưu tiến bộ, trong đó có
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế - đã có rất nhiều điều chỉnh,
nhất là kể từ sau chiến tranh thế giới II đến nay, trên thực tế đã và
đang dẫn đầu thế giới trong thực hiện một số giá trị quan trọng.
- Chủ
nghĩa cộng sản như đã xuất hiện ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa thuở
ban đầu là kim chỉ nam của phát triển, và sau đó một mặt do duy tâm và
duy ý chí, mặt khác do tha hóa, dần dần biến thành chế độ toàn trị. Nhìn
chung, đó chính là sự diễn biến của một quá trình tha hóa.
- Khi
quyền lực của chế độ toàn trị là tuyệt đối với nhiều tội ác đẫm máu,
chủ nghĩa Marx - Lenin ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa chỉ còn lại là
cái tên (cái bình phong) tuyệt đối, đã dẫn tới sự sụp đổ ở các nước
Liên Xô - Đông Âu, và hiện vẫn đang tiếp diễn ở các nước gọi là xã hội
chủ nghĩa còn lại.
- Chủ
nghĩa cộng sản của phong trào cánh tả bắt đầu từ thời Mao-ít rộ lên một
thời ở một số nước đang phát triển song cũng tàn lụi rất nhanh, để lại
dĩ vãng đau buồn ở những nơi nó xuất hiện. Phong trào này không có mối
liên quan nào đó với chủ nghĩa Marx - Lenin với nghĩa đang được hiểu.
- Chủ
nghĩa Marx - Lenin lúc đầu được hiểu và vận dụng như một học thuyết
cách mạng dẫn dắt sự phát triển của nước ta – dưới dạng xây dựng chủ
nghĩa xã hội, rất tả khuynh, song dần dần bị quyền lực biến tướng thành ý
thức hệ bảo vệ chế độ toàn trị. Quyền lực càng được củng cố bao nhiêu
thì chủ nghĩa Marx - Lenin càng bị tước bỏ về nội dung bấy nhiêu. Hôm
nay chỉ còn lại chức năng là cái mộc và cái khiên của chế độ toàn trị.
- Tất cả những thứ nêu trên đều không phải là hiện thân của lý luận Marx.
- vân… vân…
Nhân
kỷ niêm 100 năm Tuyên ngôn cộng sản, hội thảo quốc tế ở Paris đánh giá :
Trong toàn bộ tác phẩm của Marx, kể cả trong các thư riêng, đỉnh cao
của tư tưởng Marx thể hiện trong quan điểm được nói ra rành rọt, nguyên
văn là "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do
của mọi người !" - một lần duy nhất được viết ra trong Tuyên Ngôn Cộng
Sản. Nhưng tư tưởng này không hề được thực hiện trong bất kỳ một nhà
nước cộng sản nào cho đến nay, thậm chí bị vứt bỏ hoàn toàn ! (Xem bản
ghi của Việt Phương).
Hơn
nữa, trên đời này ngoài kinh thánh được các tín đồ của mình phong tặng
sự vĩnh cửu, không có lý luận khoa học nào là vạn năng, bất di bất dịch
và trường tồn – trong lĩnh vực khoa học xã hội càng không, vì con người
luôn luôn hướng về sự giải phóng chính mình ; mọi thứ "chủ nghĩa" đều
phải áp đặt tư duy của chính nó. Chỉ có các giá trị mà con người xây
dựng nên được trong quá trình phát triển của chính mình là trường tồn.
Song các giá trị này cũng phải thường xuyên phát triển theo sự vận động
của thời gian, thời đại…
Đến đây có thể kết luận :
-
Cchủ nghĩa Marx - Lenin như đang được hiểu và vận dụng ở nước ta là tam
sao thất bản (từ Liên Xô, Trung Quốc), lại được tuyên giáo ta qua các
thời kỳ "chế biến thêm" và "chốt lại"... Một thứ chủ nghĩa Marx - Lenin
như thế hầu như chỉ còn lại là một bình phong, một nhãn mác, hay là một
căn cứ mơ hồ, chỉ để mang lại cái chính danh cho "định hướng xã hội chủ
nghĩa" mà Đảng muốn ốp cho đất nước.
-
Chủ nghĩa Marx - Lenin như hiện nay ở nước ta chỉ còn làm được chức
năng trang trí tư tưởng, một thứ bùa hộ mệnh, một kiểu ngọn cờ… để biện
minh cho vai trò độc tôn và quyền lực của Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay trong
xã hội Việt Nam. Nói trung thành với chủ nghĩa Marx - Lenin dịch ra
đúng nghĩa là áp đặt sự thừa nhận trạng thái hoàn toàn bế tắc về lý luận
của một đảng chính trị, và tính hư vô của lý tưởng mà đảng theo đuổi.
Tất cả chỉ với mục đích duy nhất : củng cố quyền lực của Đảng, loại bỏ phản kháng, trấn áp bất đồng.
Trong
cuộc sống thực của đất nước ta hôm nay, ngoại trừ một số quan điểm sai
lầm như chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp, tập trung dân chủ..,
rất khó tìm được bất kể một quyết định, hay hành động hoặc một kết quả
thực tiễn nào của Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay mang nội dung
chủ nghĩa Marx - Lenin như đã được xác định trong Tuyên bố Moskva 1957
nói trên, hoặc theo chính các giáo lý giảng dạy. Đơn giản vì những thứ
này đều không khả thi. Song lại ngụy biện là vận dụng sáng tạo vào nước ta !
Thực
tế này giải thích hiện tượng : xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta do
thất bại, nên từ vài thập kỷ nay buộc phải hạ thấp xuống thành "định
hướng xã hội chủ nghĩa". Tuy thế đến bây giờ vẫn không xác định rõ được
định hướng xã hội chủ nghĩa là cái gì. Đơn giản vì "định hướng" như thế
không có thực. Tất cả những gì tốt đẹp định làm và cố tìm cách gói ghém
chúng vào khái niệm định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta – ví dụ như
công bằng, dân chủ, văn minh, phúc lợi xã hội, chống bóc lột, trách
nhiệm của nhà nước… - trên thực tế chỉ là những bánh vẽ, hoặc giả có
điểm nào cố sức làm (ví dụ trong y tế, trong giáo dục, trong thực hiện
qua loa một số quyền tự do dân chủ nào đó…) kết quả nếu đạt được thường ở
mức độ rất thấp và kém rất xa tất cả các nước cùng ở mức thu nhập trung
bình (thấp) như nước ta, kém hẳn các nước phát triển.
Sự
thật là nước ta hiện nay bị xếp vào nhóm "top" các quốc gia có chế độ
chính trị mất tự do dân chủ, vi phạm nhân quyền và bất công nhất trên
thế giới. Cho nên càng bàn mãi về định hướng xã hội chủ nghĩa càng bí.
Vì vậy tuyên giáo của Đảng đã "chốt" lại hộ để khỏi phân vân mãi chưa ra
: Cốt lõi của "định hướng xã hội chủ nghĩa" là bảo đảm vai trò lãnh đạo
của Đảng, giữ vững kinh tế nhà nước là chủ đạo ! Song oái oăm thay
chính cái được "chốt" lại này lại là nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản thân
hữu và tư bản hoang dã đạt tới đỉnh cao ở nước ta 10 năm qua, bây giờ
Đảng phải kêu gọi chống. Trong khi đó Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII
lại quy kết mầm mống của chủ nghĩa tư bản thân hữu ở nước ta là kinh tế
tư nhân ! Phi lý đến thế là cùng. Song chính cái "chốt" lại này khiến
nước ta xin mãi hàng chục năm nay sự công nhận là "kinh tế thị trường"
mà vẫn không được !
Cuộc
sống luôn luôn đòi hỏi giải phóng tư duy khỏi sự kìm kẹp của ý thức hệ,
để mở mang trí tuệ phấn đấu cho những giá trị đã được văn minh của nhân
loại xác lập.
Nguyễn Trung
*****************
Phụ lục III
Về Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam
Một
trong những cái lầm chết người từ Thành Đô đến nay là ta bị "16 chữ và 4
tốt" mê hoặc, cứ tưởng ta giống Trung Quốc, nên có thể đi với nhau, dựa
vào nhau, học nhau, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.., mà quên mất ta
không hề, không bao giờ, và không thể giống Trung Quốc về bất kỳ phương
diện nào, nhất là quên khuấy đi mất trước sau ta chỉ là cái đích của Trụng Quốc !
Xin nhắc lại :
Đảng
cộng sản Việt Nam không bao giờ giống Đảng cộng sản Trung Quốc, nên
không thể và không được làm theo Trung Quốc ! Đừng bao giờ quên điều
chết người này !
Hữu nghị, hợp tác, vân vân… là những chuyện hoàn toàn khác và chỉ thuộc lĩnh vực đối ngoại.
Sự thật đơn giản thế này :
-
Trung Quốc của một đế chế hồi sinh luôn luôn cần một đảng độc tài toàn
trị cực mạnh để giữ cho Trung Quốc khỏi tan rã thành những nước nhỏ, và
để tạo lực chiếm ngôi bá chủ trên thế giới. Mao Trạch Đông đã nhiều lần
khẳng định công khai : Đảng cộng sản Trung Quốc là vô thiên vô pháp,
trời cũng không so được !
Cứ
nhìn những gì đẫm máu đã xảy ra ở Trung Quốc và những hành vi của Trung
Quốc trên thế giới từ thời Mao cho đến hôm nay, sẽ thấy quan điểm "vô
thiên, vô pháp, mục tiêu biện minh cho biện pháp" của Mao là xuyên suốt
toàn bộ hệ thống chính trị Trung Quốc về đối nội cũng như đối ngoại.
-
Nhưng Việt Nam là một láng giềng sát nách lại cần một đảng cầm quyền
xây dựng cho quốc gia mình một thể chế chính trị dân chủ lành mạnh, để
phát huy hết mức sức mạnh dân tộc và tranh thủ dược cả thế giới hậu
thuẫn, qua đó mới có thể tồn tại và trở thành một láng giềng được tôn
trong của Trung Quốc ! Việt Nam không làm được như thế thì chắc chắn sẽ
chỉ là cái đích Trung Quốc đã bỏ túi.
Hiển nhiên như ban ngày : Xem vậy nhiệm vụ chính trị đối với quốc gia của 2 đảng Trung Quốc và Việt Nam đối nghịch nhau như giữa đen và trắng vậy. Đừng giây phút nào mơ hồ điều này ! Đừng để cho lăng kính ý thức hệ nhìn lệch sự thật này.
Cho
nên "16 chữ và 4 tốt" chỉ là ngoại giao Trung Quốc đưa ra mà thôi, phải
luôn luôn đối chiếu giữa nói và làm như thế nào. Rất tiếc rằng "16 chữ
và 4 tốt" khi ra đời Trung Quốc lúc ấy mới chỉ làm xong việc chiếm các
đảo của ta, hôm nay làm xong việc hình thành một hệ thống căn cứ quân sự
trên các đảo này.
Nếu
Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay nghĩ mình giống Trung Quốc, chọn nhiệm
vụ chính trị của mình là học và làm theo Trung Quốc, làm giống Trung
Quốc… thì vô lý quá. Ví dụ, Trung Quốc làm Thiên An Môn, chẳng lẽ ta
cũng làm Thiên An Môn ? Trung Quốc khủng bố Lưu Hiểu Ba, ta cũng phải
bắt chước ? Lại còn học Trung Quốc nhiều thứ chính trị khác, nhờ Trung
Quốc đào tạo cán bộ, lại cả cán bộ cao cấp nữa… Làm như thế sẽ chỉ hàm nghĩa là làm cho nước mình sớm trở thành cái đích đạt được của Trung Quốc mà thôi !
Cho phép tôi nói bỗ bã thế này :
-
Đảng của Trung Quốc cần bạo quyền để giữ bá quyền trong nước và đối với
thế giới, nhiệm vụ chính trị đối với quốc gia của nó là thế.
-
Đảng của Việt Nam cần dân chủ phát huy nội lực của nhân dân và giành
được vị thế tranh thủ được hậu thuẫn của cả thế giới để làm cho nước
mạnh có thể sống được bên cạnh Trung Quốc.
Nghĩa là mỗi đảng này có nhiệm vụ chính trị đối với quốc gia của nó khác nhau như giữa đêm và ngày, giữa nước và lửa vậy !
Nếu
đảng của Việt Nam cũng bắt chước đảng Trung Quốc làm bạo quyền, thì
giỏi lắm cũng chỉ có thể bạo quyền với chính nhân dân nước mình mà thôi.
Nhưng làm như thế, sẽ giúp Trung Quốc bá quyền được nước mình sớm hơn !
Nếu làm như thế, đảng của Việt nam sẽ là đảng gì ? Dân có để cho đảng
yên không ? Đảng của Việt Nam có nên như thế không ? Phải nghĩ lại !
Hai đảng này không giống nhau chút nào cả.
Nhất
thiết phải tạo dựng được quan hệ hữu nghị và hợp tác lâu dài với Trung
Quốc. Song nếu ta muốn đạt được điều này, nhất thiết phải có nhân cách,
bản lĩnh và thực lực ; còn nếu chỉ là kẻ dặt dẹo, là con nghiện, thì hữu
nghị và hợp tác chỉ có thân phận kẻ ăn mày và chứ hầu mà thôi !
Nói đến hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc là phải nói đến hữu nghị thật, hợp tác thật, trước sau phải làm bằng được.
Có
thể sẽ không phải quá lời : Không ai cần mối quan hệ hữu nghị láng
giềng tốt với Trung Quốc bằng Việt Nam ! Cũng chưa nước nào bỏ ra nhiều
công sức như thế cho mục tiêu này. Song cũng chưa nước nào phải trả giá
đắt như Việt Nam. Đấy là sự thật trần trụi.
Nếu
hiện nay hữu nghị - hợp tác với Trung Quốc chưa được là thật, thì ta
phải tìm cách tạo ra lực đứng trên đôi chân của ta, để khẳng định được
là chính ta, nhờ đó để có thể làm cho hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc
trở nên thật.
Còn
hữu nghị cửa miệng, hợp tác cửa miệng, sẽ chỉ là lừa nhau mà thôi. Nhìn
lại, lừa nhau như thế, cho đến nay hầu như chỉ có ta bị lừa. Làm ngoại
giao cả đời, tôi chưa thấy ta lừa nổi Trung Quốc một lần nào, vì nước
này lớn quá và xảo quyệt quá để có thể lừa. Vậy chỉ còn con đường tạo ra
thực lực và bản lĩnh để có được hữu nghị thật, hợp tác thật với Trung
Quốc thì mới sống được ! Thứ này không xin được.
Hay là chọn con đường làm chư hầu ? Xin đừng quên lịch sử quan hệ Việt – Trung hơn một nghìn năm nay !
Không có con đường giả vờ nào khác mà đi cả.
Tất cả cho thấy chỉ còn cách phải đổi đời để sống thật !
Mất
nước 80 năm vào tay thực dân Pháp, chỉ vì triều Nguyễn hồi ấy chưa nghĩ
đến đổi đời để bước vào cái thế giới đã thay đổi mà sống. Bây giờ có
lại được độc lập thống nhất, nhưng trong một thế giới lại thay đổi tiếp.
Bài học rút ra từ 80 năm thuộc địa "phải đổi đời để sống" chẳng lẽ hôm
nay vô nghĩa đối với Đảng cộng sản Việt Nam hay sao ? Nguy cơ tái diễn
cái quán tính lịch sử tệ hại của những thế kỷ đất nước ta đã sống trong
cái bóng Trung Quốc chính là ở chỗ này !
Xin nhấn mạnh một lần nữa
: Nhiệm vụ chính trị và trách nhiệm đối với quốc gia của Đảng cộng sản
Việt Nam chẳng có một nét mảy may nào giống đảng của Trung Quốc – và đây
chính là chỗ lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay mơ hồ nhất, mất
cảnh giác nhất ! Cứ nghĩ cùng là xã hội chủ nghĩa thì giống nhau và đi
được với nhau ! Với những thất bại nghiêm trọng cho đất nước và những hệ
quả lâu dài đến hôm nay vẫn chưa tỉnh và chưa sao gỡ ra được !
Mong suy nghĩ kỹ điều này.
Xin
nhắc lại tại đây, lãnh đạo đảng thời hai cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã từng tổng kết : Mọi thắng
lợi đạt được, trước hết là nhờ độc lập tự chủ trong tư duy và đường
lối, mọi thất bại vấp phải là do mất độc lập tự chủ trong tư duy và rập
khuôn Trung Quốc ! Lãnh đạo hồi ấy đã kiểm điểm sâu sắc những bài học
đau đớn như cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, chỉnh huấn, rèn cán
chỉnh cơ, để cho ý thức hệ mao-it ảnh hưởng đến một số đường lối chính
sách… Thậm chí hồi đó đã có người còn muốn nhập khẩu cả cách mạng văn
hóa vào Việt Nam, nhưng đã bị bác bỏ quyết liệt… Bộ chính trị hồi đó
luôn luôn nhắc nhở phải độc lập tự chủ trong tư duy và cảnh giác với mọi
thâm nhập từ bên ngoài và giáo điều, quyết không để cho bên ngoài – dù
là ai – can thiệp vào đường lối cách mạng của mình.
Nghị
quyết 15 về đẩy mạnh kháng chiến cứu nước của ta và Nghị quyết 9 về đối
ngoại là những vị dụ tiêu biểu về kiên định độc lập tự chủ trong tư duy
chiến lược và trong hành động, quyết gạt bỏ mọi ảnh hưởng, tác động, áp
lực từ bên ngoài, để thực hiện đến cùng mục tiêu chiến lược giành lại
độc lập thống nhất đất nước.
Xin kể lại như vậy với các thế hệ lãnh đạo hôm nay để tham khảo.
Muốn
hay không, Trung Quốc hôm nay đã trở thành vấn đề của cả thế giới. Thực
tế khách quan này đối với Việt Nam còn nghiêm trọng hơn, sát phạt hơn
nhiều. Nước ta không lựa chọn được thế giới, nên chỉ còn cách làm sao
lựa chọn được vị thế quốc gia phải có để sống được trong thế giới này – trong đó có đòi hỏi không thể thiếu là phải xác lập bằng được quan hệ lâu dài láng giềng tốt với Trung Quốc, có được hữu nghị thật, hợp tác thật.
Nhìn rõ và quyết nắm lấy bằng được cái đích này, mỗi người Việt chúng
ta – và trước hết là đảng nắm quyền, sẽ biết được và xác định được con
đường phải đi và phải làm gì. Trời đất không cho chúng ta thoát khỏi nhiệm vụ này,
địa kinh tế và địa chính trị của thế giới hôm nay đặt lên vị trí địa
đầu của nước ta số phận như vậy. Nên chi còn cách xác lập lòng tự trọng,
thay đổi chính bản thân mình, để bắt tay thực hiện cái quy luật muôn
đời : "Có lực mới vực được đạo !".
Người
Nhật, người Hàn Quốc, người Israel cho chúng ta nhiều bài học thành
công của quốc gia họ xuất phát từ trân quý lòng tự trọng này. Xin cùng
nhau suy nghĩ về điều này. Nước ta trước sau rất muốn, rất cần hữu nghị –
hợp tác với Trung Quốc, nhưng phải gian khổ tìm cách tạo lập nên, thứ
này không thể xin được.
Nói đất nước đã sang trang trong một thế giới đã sang trang, trước hết nên bắt đầu từ suy nghĩ như trên./.
Hà Nội – Võng Thị, 20/09/2017
Nguyễn Trung
*******************
Phụ lục IV
Vê sự hình thành và phát triển xã hội dân sự Việt Nam
Xã
hội dân sự ở Việt Nam có quá trình hình thành và phát triển khá đặc
biệt, gặp nhiều khó khăn, trắc trở, khi nở rộ, khi lụi tàn. Vai trò của
nó đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay rất mờ nhạt.
Xã
hội dân sự đã hình thành cùng với sự hình thành nhà nước pháp quyền dân
chủ, từ sau Cách mạng tháng Tám. Đây là điều được Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm. Ngay sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngày 3/9/1945
trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ việc
tổ chức sớm Tổng tuyển cử, xây dựng một Hiến pháp dân chủ, đảm bảo cho
nhân dân thực hiện quyền tự do dân chủ là một trong sáu nhiệm vụ cấp
bách nhất. Ngay sau đó ngày 8/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số
14/SL mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội.
Sau
bốn tháng chuẩn bị trong những điều kiện vô cùng khó khăn, ngày
6/1/1946 cuộc Tổng tuyển cử đã được tiến hành trên phạm vi cả nước,
trong một bầu không khí dân chủ thật sự. Trong bản báo cáo ngắn gọn
trước Quốc hội tại kỳ họp thứ nhất ngày 2/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định : "Trong cuộc toàn quốc đại hội đại biểu này, các đảng phái
đều có đại biểu mà đại biểu không đảng phái cũng nhiều, đồng thời phụ nữ
và đồng bào dân tộc thiểu số cũng đều có đại biểu. Vì thế cho nên các
đại biểu trong Quốc hội này không phải đại diện cho một đảng phái nào mà
là đại biểu cho toàn thể quân dân Việt Nam. Đó là một sự đoàn kết tỏ ra
rằng lực lượng của toàn dân Việt Nam đã kết thành một khối".
Một
thành tựu có tính lịch sử mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại là bản Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà Người là Trưởng Ban
Dự thảo. Hiến pháp ấy xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn
này là : "bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc
gia trên nền tảng dân chủ". Bản Hiến pháp dân chủ này ghi ngay trong
trong Điều 1 : "Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền
bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt
giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo".
Đặc
biệt Hiến pháp đầu tiên đã khẳng định những quyền cơ bản của công dân
Việt Nam : Quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức hội họp,
tự do tín ngưỡng, tự do cu trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài
(Điều 10). Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, thư
tín... (Điều 11). Quyền tư hữu tài sản được đảm bảo (Điều 12).
Những
điều trên đây chứng tỏ rằng giữa xã hội dân sự với nhà nước pháp quyền
và chế độ dân chủ có quan hệ mật thiết, bổ sung cho nhau. Không thể có
cái này mà không có cái kia.
Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chỉ công nhận và tôn trọng những
quyền cơ bản của công dân, mà còn tạo điều kiện cho mọi công dân thực
thi những quyền ấy. Tôi muốn nói đến những Sắc lệnh và những Nghị định của Chính phủ tạo điều kiện cho công dân thực thi quyền tự do lập hội và tự do ngôn luận.
Ngày
22/4/1946 Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến ký Sắc lệnh số 52
quy định việc lập hội. Sắc lệnh này, ngoài chữ ký của chủ tịch Hồ Chí
Minh còn có chữ ký của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng
Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe và Bộ trưởng Bộ Tài Chính Lê Văn Hiến. Lúc này
chưa có Hiến pháp, Sắc lệnh này là hình thức pháp lý cao nhất. Sắc lệnh
xác định : "Hội là một đoàn thể có tính cách vĩnh cửu gồm hai hoặc nhiều
người giao ước hiệp lực mà hành động để đạt mục đích chung ; mục đích
ấy không phải là để chia lợi tức" (Điều l). Định nghĩa trên đây xác nhận
"hội" không phải là tổ chức kinh tế để chia lợi tức, cũng không phải là
cơ quan Nhà nước, đó chính là tổ chức xã hội dân sự. Sắc lệnh quy định :
"Cấm không được lập những hội có mục đích và hoạt động làm đồi bại
phong tục, hại đến trật tự chung, hoặc đến sự an toàn của quốc gia"
(Điều 2).
Thủ
tục thành lập hội rất đơn giản và dễ dàng. Người sáng lập hội phải đủ
21 tuổi, là người xưa nay không có can án thường phạm. Những người sáng
lập ra hội phải làm Giấy khai, kèm theo hai bản Điều lệ gửi cho Uỷ ban
hành chính Kỳ (tức là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ), hoặc Bộ Nội vụ. 15 ngày
sau khi nhận được Giấy khai và Điều lệ, Ủy ban hành chính Kỳ sẽ phải
chuyển cả hồ sơ và phát biểu ý kiến lên Bộ Nội vụ. Bộ trưởng Bộ Nội vụ
xét hồ sơ và nếu cho phép hội thành lập sẽ ký Nghị định cho phép. Sau
hạn 45 ngày kể từ hôm phát biên lai, nếu Bộ Nội vụ không trả lời ngăn
cấm hội thành lập và hoạt động, thì hội sẽ coi như được thành lập (Điều
3, Điều 4).
Nguyên
tắc bắt buộc là phải tôn trọng sự tự nguyện của hội viên : "Không hội
viên nào có thể bị cưỡng bách ở trong hội. Tuỳ ý hội viên muốn xin ra
bao giờ cũng được, dù hội lập ra có thời hạn nhất định mặc lòng, miễn là
hội viên xin ra hội đã thanh toán các trái khoán đối với hội và đã báo
trước một tuần lễ" (Điều 7).
Chỉ 2 tuần sau khi công bố sắc lệnh, ngày 6/5/1946 Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã ký Nghị định cho phép Nghiệp đoàn khách sạn Việt Nam được
thành lập. Đó là hiệp hội sớm nhất được thành lập theo quy định của sắc
lệnh số 52 ngày 22/4/1946. Từ đó đến cuối năm 1946, trong vòng 6 tháng
có tới 65 hội được thành lập, tính trung bình cứ 3 ngày có thêm 1 hội
mới. Các hội tiêu biểu là : hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Nghị định thành lập ngày 5/7/1946, về sau đổi tên thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), đảng Xã hội Việt Nam (30/7/1946), Liên đoàn Công giáo Việt Nam (6/8/1946), Liên đoàn Lao động trí thức thành phổ Đà Nẵng (26/8/1946), Hội Công chức Bình Định (11/10/1946), hội Cựu đệ tứ Cứu thế Ái hữu ở Hàm Nghi, Thuận Hóa (được tiếp tục hoạt động), hội Kiến thiện Kiến An ở Hải Phòng (11/10/1946), hội Việt Nam học xá Nhân viên Ái hữu ở Hà Nội (30/8/1946), hội Từ Liêm Văn học Ái hữu làng Phú Mỹ, huyện Từ Liêm (11/10/1946), hội Văn miếu văn học hiệp hội ở Hà Nội (3/7/1946), hội Phụ nữ ca vũ tương tế có trụ sở ở biệt thự Thanh Hà làng Thổ Quan, Ô Chợ Dừa, Hà Nội (3/7/1946), đoàn Nữ hướng đạo Việt Nam trụ sở ở Hà Nội (11/10/1946), hội Hợp thiện ở 125 Phùng Hưng, Hà Nội (5/6/1946 được phép tiếp tục hoạt động), hội Việt - Mỹ thân hữu (5/6/1946 được phép tiếp tục hoạt động).
Quả
thật các hội rất đa dạng, từ các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức quần
chúng, các tổ chức tôn giáo, văn học nghệ thuật, các tổ chức chính trị,
các NGO và phần lớn là các tổ chức Ái hữu. Đây chính là các tổ chức xã
hội dân sự, hình thành ở rất nhiều tỉnh thành trong cả nước. Cần nhấn
mạnh rằng Đảng Xã hội VIệt Nam được thành lập theo Sắc lệnh số 52 quy
định việc thành lập Hội (đảng dân chủ Việt Nam được thành lập từ năm
1944, trước sắc lệnh số 52). Như vậy Đảng cũng chỉ là một thứ hội mà
thôi, không phải là một thứ gì thần thánh hóa cả. Suốt trong 6 tháng chỉ
có một trường hợp Bộ Nội vụ bác đơn xin thành lập hội của "Quốc gia thanh niên đoàn"
ngày 23/5/1946. Bác đơn như vậy cũng có Nghị định đàng hoàng, công
khai. Trong tình thế rất khó khăn hiểm nghèo phải có lòng tin tuyệt đối
vào nhân dân thì Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa mới có thể mạnh dạn phát huy tinh thần dân chủ
của mọi tầng lớp nhân dân như vậy.
Trong
khi đó hơn 10 năm nay Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
không thông qua được Luật lập hội, nghe nói đã có đến bản dự thảo lần
thứ 14 ! Chẳng lẽ lại sợ xã hội dân sự, sợ dân đến như vậy sao ? Thật vô
lý, thật đáng buồn !
Cùng với việc tạo hành lang pháp lý cho nhân dân thực hiện quyền tự do lập hội, Chính phủ đầu tiên cũng tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện quyền tự do ngôn luận.
Ngay
từ tháng 9 năm 1945 Chính phủ đã công bố thể lệ mới về việc cho phép
xuất bản báo chí. Chỉ trong vòng 3 tháng cuối năm 1945, Bộ Nội vụ do ông
Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng đã ký hàng loạt Nghị định cho phép xuất
bản 87 tờ báo (hầu hết là báo tư nhân), báo hàng ngày và hàng tuần bằng
tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Hoa. Như vậy trung bình cứ
một ngày lại có thêm một tờ báo mới.
Có thể kể ra một số tờ báo tiêu biểu :
- Nhật báo Tự do của ông Trần Khánh Dư xuất bản tại Hà Nội theo Nghị định của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ngày 8/10/1945.
- Tuần báo Văn mới của ông Trương Tửu (8/10/1945), Việt Nam hồn của ông Lê Văn Trương. Báo Dân quyền của ông Lê Văn Thanh.
- Tuần báo Ý Dân của ông Nguyễn Quang Cận (12/10/1945), Tuần báo Nói thẳng của ông Đoàn Phú Tứ (7/12/1945). Nhật báo Nói thật của ông Trịnh Văn Hoàng tại Nam Định (7/12/1945). Tuần báo Văn Hóa của ông Từ Giấy. Tuần báo Bạn gái của bà Nguyễn Thị Lý. Tuần báo Tòa sen của ông Trịnh Giai Ngân. Tờ Đa Minh bán nguyệt san của Nhà chung Bùi Chu, Nam Định (24/11/1945). Đội Cấn tuần báo của ông Nguyễn Nhật Thăng tại Thái Nguyên (22/10/1945). Quyết chiến tuần báo của ông Dương Thế Châu tại Phủ Lý (22/10/1945). Tuần báo Bạn quê của ông Hoàng Tiến Lộc tại Hải Dương (24/10/1945). Báo Dân chủ nhật báo của ông Đỗ Trọng Giang tại Hải Phòng (24/10/1945). Việt Mỹ tạp chí của bán nguyệt san tại Hà Nội (31/10/1945). Hanoi Tribune báo hàng ngày bằng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp của ông E.de Pollak (17/11/1945). Tờ La République và The Republic của ông Nguyễn Đình Thi (28/9/1945). Tờ L'Entente báo hàng ngày của ông Jean Saumont. Báo Nam Hoa báo hàng ngày bằng tiếng Việt và tiếng Hoa của ông Hồ Dzếnh.
Những
số liệu trên đây chứng tỏ xã hội dân sự đã hình thành rõ rệt, tất nhiên
dưới dạng sơ khai, chưa hoàn thiện, nhưng đã đóng vai trò thiết yếu
trong buổi đầu xây dựng một nước Việt Nam dân chủ, tự do. Không có xã
hội dân sự làm sao có dân chủ, tự do được ?
Cuối
năm 1946 kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Từ đó đến năm 1979 nước ta trải
qua 3 cuộc chiến tranh ác liệt, chiến tranh chống thực dân Pháp, chống
đế quốc Mỹ và chống bọn bành trướng bá quyền Bắc Kinh năm 1979. Chiến
tranh kéo dài làm đảo lộn cuộc sống xã hội, hạn chế rất nhiều tự do, dân
chủ của người dân. Năm 1950 Việt Nam mở cửa biên giới với Trung Quốc,
chúng ta có thêm súng đạn, lương thực để chống thực dân, đồng thời cũng
có cả chủ nghĩa Mao nữa. Các sách Bàn về mâu thuẫn, Bàn về thực tiễn là
sách gối đầu giường của nhiều nhà lý luận triết học ở ta. Năm 1953 ta
tiến hành cải cách ruộng đất, rồi hợp tác hóa nông nghiệp, cải tạo tư
sản... Sau đó là các vụ Nhân văn giai phẩm, Chống xét lại, đã gây hận
thù sâu sắc trong lòng dân tộc tại Việt Nam. Xã hội dân sự cứ lịm dần,
lịm dần...
Đặc
biệt sau chiến tranh, chuyên chính vô sản được xác lập trên phạm vi
toàn quốc. Hiến pháp năm 1980 long trọng xác nhận điều đó, cùng với việc
xác nhận vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Mô hình Xô Viết
được xác lập. Điều 6 Hiến pháp Liên Xô được sửa đổi thành Điều 4 Hiến
pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Giờ đây khái niệm "Chuyên chính
vô sản" ghê sợ không được sử dụng nữa mà thay bằng "Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa". Nhưng điều đó không thay đổi gì về bản chất, cơ chế
chung "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ" được Tổng
bí thư Lê Duẩn định nghĩa là "chuyên chính vô sản ở Việt Nam" vẫn giữ
nguyên trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp sửa đổi năm 2013. Do vậy nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ là biến thái của chuyên chính vô
sản mà thôi. Trong quá trình phát triển đó xã hội dân sự bị xóa bỏ, để
nhường chỗ cho xã hội toàn trị (totalitarian society).
Từ
đầu thập niên 90, cùng với quá trình dân chủ hóa đất nước, xã hội dân
sự từng bước được phục hồi. Nhiều nhà nghiên cứu phân tích quá trình dân
chủ hóa trên thế giới đã rút ra kết luận là : quá trình dân chủ hóa ở
tất cả các nước đều gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội
dân sự. Không như vậy, quá trình dân chủ hóa sẽ không có nội dung xác
thực. Dân chủ hóa về thực chất là chuyển quyền lực chính trị trong tay
Nhà nước sang tay nhân dân.
Nhân dân phải trở thành chủ thể của quyền lực Nhà nước. Đấy chính là
Nhà nước pháp quyền đích thực, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, hay
như Hiến pháp dân chủ năm 1946 ghi rõ : "tất cả quyền bính trong nước là
của toàn thể nhân dân Việt Nam". Chính vì vậy chúng tôi nhiều lần khẳng
định : "xã hội dân sự, nhà nước pháp quyền và dân chủ là không thể tách
rời". Điều đó đòi hỏi phải cải cách chính trị, chuyển đổi thể chế chính
trị của nước ta từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa.
Xã
hội toàn trị là đối lập với xã hội dân sự. Khái niệm này chỉ những xã
hội thực hiện một sự kiểm soát hoàn toàn đối với toàn bộ đời sống xã hội
nói chung và đời sống mỗi con người nói riêng. Hannah Arendt dùng khái
niệm này để khái quát các chế độ có bản chất và đặc trưng giống nhau,
dựa trên sự thống trị tuyệt đối của Nhà nước đối với các công dân trong
tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Những nét chủ yếu của xã hội toàn
trị là :
-
Lấy một hệ tư tưởng đặc biệt làm nền tảng cho sự tồn tại của chế độ và
hợp pháp hóa quyền tồn tại của nó, toàn thể nhân dân bắt buộc phải coi
hệ tư tưởng đó là hệ tư tưởng thống trị toàn xã hội.
- Đặt lợi ích và các quyền tự do của cá nhân phục tùng tuyệt đối lợi ích xã hội, do Nhà nước đại diện.
- Quyền lực chính trị nằm trong tay một đảng duy nhất, đảng cầm quyền và Nhà nước hòa thành một thể thống nhất.
-
Xã hội bị Nhà nước hóa triệt để, xã hội dân sự bị xóa bỏ, đặc biệt là
cấm các đảng chính trị khác và tất cả các tổ chức xã hội không thuộc
quyền lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
-
Vai trò của pháp luật bị giảm sút, Nhà nước có quyền quyết định mọi cái
mà không bị kiểm soát,hoặc hạn chế bởi luật pháp, không có tam quyền
phân lập để hạn chế sự lạm quyền, nhà nước pháp quyền bị xóa bỏ.
-
Thực hiện độc quyền ngôn luận và thông tin ; mọi phương tiện thông tin
và báo chí đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của bộ máy Đảng và Nhà nước.
- Lấy bạo lực làm phương tiện hàng đầu của sự thống trị ; sử dụng khủng bố chính trị như một công cụ chính trị đối nội.
Trái
ngược với xã hội toàn trị là xã hội dân sự. Có vô vàn định nghĩa khác
nhau về xã hội dân sự. Nhưng theo tôi, định nghĩa của học giả Nguyễn
Khắc Viện và Nguyễn Kiến Giang trong cuốn Từ điển Xã hội học năm 1994 đã làm nổi bật được cái cốt lõi của xã hội dân sự (được gọi là xã hội công dân). Đó là xã
hội trong đó người dân là chủ thể của xã hội và do đó cũng là chủ thể
của nhà nước, Nhà nước phục tùng lợi ích của công dân, mà không phải
ngược lại.
Định nghĩa này quán triệt được quan niệm mà K. Marx đã nêu ra trong Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel về
mối quan hệ giữa xã hội dân sự với Nhà nước : "Nhà nước chính trị không
thể tồn tại nếu không có cơ sở tự nhiên là gia đình và cơ sở nhân tạo
là xã hội dân sự. Chúng là conditio since qua non (điều kiện cần
thiết) của Nhà nước. Nhưng (ở Hegel) điều kiện biến thành cái chịu điều
kiện, cái quy định biến thành cái bị quy định, cái sản sinh biến thành
sản phẩm của sản phẩm của nó". Như vậy "Mối quan hệ thật sự ở đây đã đặt
lộn ngược. Ở đây điều giản đơn nhất được miêu tả thành rối rắm nhất ;
còn điều rối rắm nhất lại được miêu tả thành điều giản đơn nhất, cái
phải là điểm xuất phát thì trở thành kết quả thần bí, còn cái lẽ ra phải
có tư cách là kết quả hợp lý thì lại trở thành điểm xuất phát thần bí".
Trên
đây là K.Marx phê phán quan điểm của Hegel. Rất tiếc rằng, ngày nay một
số người tự nhận là theo chủ nghĩa Marx, nhưng lại tuyệt đối hóa vai
trò của Nhà nước, biến Nhà nước thành chủ thể, còn công dân chỉ biết
phục tùng Nhà nước chuyên chế. Thật ta, trong mọi xã hội đều có hai cực :
Công dân và Nhà nước. Ngay cả trong xã hội dân sự, cũng không thể không
có Nhà nước đứng ra điều khiển và quản lý các công việc xã hội, nhưng
tất cả những điều đó đều nhằm thực hiện đầy đủ các quyền của công dân,
các quyền của con người, trong khi đòi hỏi các công dân thực hiện những
nghĩa vụ của mình với nhà nước, cũng tức là đối với toàn xã hội. Vai trò
của Nhà nước trong xã hội dân sự khác về nguyên tắc trong xã hội cực
quyền, ở đó lợi ích và quyền của con người bị đặt xuống dưới và hy sinh
cho lợi ích và các quyền của nhà nước chuyên chính.
Xã
hội dân sự là một thành tựu to lớn của sự phát triển lịch sử của loài
người. Xã hội dân sự là một cơ thể phát triển không ngừng và hoàn thiện
không ngừng. Những yếu tố cấu thành của xã hội ấy là : Sở hữu của các
công dân với tư cách cá nhân, các quyền tự nhiên của con người và các
quyền tự do cá nhân của công dân, chế độ dân chủ về mặt chính trị và nhà
nước pháp quyền. Bản thân các yếu tố ấy cũng không ngừng phát triển và
hoàn thiện, cùng với sự phát triển và hoàn thiện của toàn bộ hệ thống xã
hội dân sự.
Ngày
nay, trong quá trình dân chủ hóa, ngày càng nhiều người nhận thức sâu
sắc rằng chỉ có thể xây dựng chế độ dân chủ trên cơ sở xã hội dân sự.
Chừng nào xã hội dân sự chưa vững vàng thì chừng đó dân chủ vẫn chưa
được bảo đảm. Ngược lại, dân chủ hóa là một trong những động lực chính
để xây dựng xã hội dân sự.
Việc
chuyển từ xã hội cực quyền sang xã hội dân sự ở nước ta gặp rất nhiều
khó khăn, phức tạp. Nhưng đây là quá trình tất yếu không thể đảo ngược
được.
Hà Nội, ngày 24 tháng 9 năm 2017
Phạm Khiêm Ích
[1] Tham khảo thêm : Nguyễn Trung, "Dòng đời", quyển một, chương 5, tr. 226 – 246.
[2]Tham khảo : Declaration of communist and workers' Parties of the socialist countries meeting in Moscow, USSR, 1957
https://www.marxists.org/history/international/comintern/sino-soviet-split/other/1957declaration.htm
[3] Xin
lưu ý : Do chống Liên Xô từ đầu, nên Đảng cộng sản Trung Quốc không có
chủ nghĩa Marx - Lenin, mà chỉ có "Chủ nghĩa Marx", chủ yếu chỉ để biện
minh cho những chuyên chinh của Đảng cộng sản Trung Quốc thời kỳ đầu.
Ngay sau khi Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập, Trung Quốc hầu
như chỉ có chủ nghĩa Mao. Và ngày nay ai không hiểu "chủ nghĩa xã hội
đặc sắc Trung Quốc" là gì ?
Nguồn : viet-studies, 27/09/2017