Sự thất bại của chính sách "quốc tế hóa Biển Đông" (Trương Nhân Tuấn)
Nền
tảng cốt lỏi của việc "khẳng định chủ quyền", một mặt để bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ, mặt khác để Việt Nam hội nhập vào thế giới văn minh và
phát triển một cách lành mạnh và hài hòa, là lãnh đạo cộng sản Việt Nam
phải từ bỏ nền "chuyên chính" đồng thời thực thi hai chính sách "hòa
giải quốc gia" và dân chủ hóa đất nước.
Tình
hình Việt Nam ra lệnh cho Repsol phải rút giàn khoan ở lô 136-03 theo
lời cảnh cáo của Trung Quốc cho thấy chính sách "quốc tế hóa Biển Đông"
của lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã phá sản. Điều này tôi đã dự liệu ít ra
từ hơn 10 năm trước.
Tôi
luôn cho rằng để bảo vệ lãnh thổ ở Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như để
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam theo qui định của Luật
Quốc tế về Biển 1982 (UNCLOS) về vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa,
Việt Nam phải "khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa".
Nền
tảng cốt lỏi của việc "khẳng định chủ quyền", một mặt để bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ, mặt khác để Việt Nam hội nhập vào thế giới văn minh và
phát triển một cách lành mạnh và hài hòa, là lãnh đạo cộng sản Việt Nam
phải từ bỏ nền "chuyên chính" đồng thời thực thi hai chính sách "hòa
giải quốc gia" và dân chủ hóa đất nước.
Chính
sách "quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông" được Việt Nam nỗ lực từ những
năm 2009. Nền tảng của việc này đặt lên "quan hệ chính trị" và "chia sẻ
lợi ích" với các quốc gia liên quan. Theo đó Việt Nam hy vọng "kéo" Hoa
Kỳ về phía mình, cho rằng nước này có "lợi ích cần bảo vệ" ở Biển Đông.
Sự có mặt của Hoa Kỳ có thể "đối trọng" với tham vọng của Trung Quốc.
Việc
này tôi đã từng chứng minh là sẽ gặp thất bại. Bởi vì, khi Trung Quốc
(không chỉ) thỏa mãn tất cả những lợi ích của Mỹ ở Biển Đông, (mà còn
cho Mỹ những đặc quyền khác về kinh tế ở Trung Quốc), thì nước này sẽ bỏ
rơi Việt Nam.
Tôi
có nhắc lại trường hợp Trung Quốc chiếm Hoàng Sa trên tay Việt Nam Cộng
Hòa, hay Trung Quốc chiếm Scarborough trên tay Phi, trong lúc hạm đội
của Mỹ vẫn hiện diện ở Biển Đông. Nhiều lần tôi nhấn mạnh : ngay cả
Hoàng Sa và Trường Sa và 80% Biển Đông thuộc về Trung Quốc, Hoa Kỳ cũng
không quan tâm, nếu Trung Quốc cam kết tôn trọng lợi ích của Hoa Kỳ ở
đây.
Bài
này của tôi đăng trên BBC ngày 3 tháng tám năm ngoái (1). Ghi lại để
thấy những sai lầm của nhà nước cộng sản Việt Nam trong việc bảo vệ chủ
quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trước Trung Quốc.
Hơn
một tháng sau khi Tòa Trọng tài thường trực (Permanent Court of
Arbitration-PCA La Haye, Hà Lan) ra phán quyết ngày 12/7/2016, những
tranh chấp về cách diễn giải và áp dụng Luật Biển (UNCLOS) giữa
Philippines và Trung Quốc tưởng rằng đã được Tòa làm sáng tỏ.
Ngày 21/8 vừa qua, Tổng thống Duterte của Philippines ra tuyên bố : "Philippines có thể rút ra khỏi Liên Hiệp Quốc".
Tuyên bố như một gáo nước lạnh, không chỉ gieo sự bất an cho toàn khu vực, mà còn đặt ra nhiều nghi vấn về tương lai Biển Đông.
Ông Duterte còn cho biết Philippines có thể sẽ cùng Trung Quốc và các nước Châu Phi lập một tổ chức "liên hiệp quốc" khác.
Để sang một bên nguyên nhân vì đâu ông Duterte lại có tuyên bố như vậy.
Bộ
Luật Quốc tế về Biển 1982 (UNCLOS) cùng với nhiều công ước khác, cũng
như Hiến chương Liên Hiệp Quốc, là những công ước nền tảng làm nên "trật
tự pháp lý thế giới", từ sau Thế chiến Thứ II đến nay.
Có
thể Liên Hiệp Quốc vẫn chưa thực hiện hết những tiêu chí về "hòa bình"
của mình. Nhưng thử tưởng tượng, nếu không có "trật tự pháp lý" mà tổ
chức này là một hình thức đại diện, chắc chắn nhân loại vẫn còn sống
trong cảnh chiến tranh triền miên, mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá
bé.
Dĩ
nhiên những quốc gia "nhỏ", nhiều tài nguyên với một vị trí chiến lược
quan trọng, như Philippines, chắc chắn sẽ bị một đế quốc nào đó, có thể
là Trung Quốc, Nhật hay Hoa Kỳ... chinh phục.
Nếu
tuyên bố của Duterte được Quốc hội Philippines phê chuẩn, Philippines
không còn là thành viên Liên Hiệp Quốc (và cùng Trung Quốc lập ra tổ
chức đối lập khác). Mặc nhiên quốc gia Philippines không còn bị ràng
buộc bởi các công ước nền tảng của tổ chức này. Các nguyên tắc hòa bình
của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, cũng như UNCLOS, sẽ vô hiệu lực.
Điều sẽ đến là Phán quyết 12/7 của Tòa Trọng tài cũng không còn hiệu lực áp dụng (cho Trung Quốc và Philippines).
Ta
có thể suy diễn rằng nguyên nhân tuyên bố của tổng thống Duterte là dựa
trên các báo cáo của sứ giả mà ông đã phái đi Hong Kong để tìm cách nối
lại đối thoại với Bắc Kinh. Quan hệ hai bên bị "đông lạnh" sau khi Tòa
PCA ra phán quyết ngày 12/7.
Ta
thấy hình dáng một "plan B" của Bắc Kinh nhằm đối phó với phán quyết
của Tòa PCA, mà Trung Quốc gọi là một "âm mưu chính trị" của Hoa Kỳ.
Tuyên bố của Duterte cho thấy hai bên, Philippines và Trung Quốc, trong
chừng mực đồng thuận về "plan B" này.
Manila-Bắc Kinh "đi đêm" ?
Điều này có thể đã được khẳng định.
Mới
hôm trước Tổng thống Duterte cho biết, trong kỳ họp thượng đỉnh ASEAN
tổ chức ở Lào vào đầu tháng Chín tới, Philippines sẽ không đưa vấn đề
liên quan Biển Đông vào hội nghị. Theo ông Duterte, nước này sẽ đối
thoại song phương với Trung Quốc về những tranh chấp biển, đảo hiện đang
tồn tại giữa hai bên.
Bàn
cờ chiến lược ở Biển Đông có đặt lại hay không là do quyết định của
Quốc hội Philippines về hiệu lực tuyên bố của ông Duterte.
Điều
này chắc chắn làm cho sự suy nghĩ của lãnh đạo Việt Nam (và các học
giả Việt Nam về Biển Đông) phải thay đổi để đối phó với tình thế.
Đối
với Việt Nam, bên (tưởng là) hưởng lợi nhiều từ phán quyết của Tòa
trọng tài ngày 12/7. Người ta nghĩ rằng phán quyết đã giúp cho Việt Nam
giải quyết mọi chuyện.
Những
thôi thúc của một bộ phận người dân yêu cầu đảng cộng sản Việt Nam thực
thi việc kế thừa danh nghĩa Việt Nam Cộng Hòa và các quốc gia tiền
nhiệm như "Quốc gia Việt Nam" của Bảo Đại nhằm khẳng định chủ quyền của
Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, từ nay có thể bỏ ngoài tai.
Cũng vậy, các yêu sách về "hòa giải quốc gia" cũng bị dẹp sang một bên.
Nhà
nước cộng sản Việt Nam cho rằng, khi mà các thực thể ở Trường Sa chỉ có
hiệu lực của "đá", theo phán quyết Tòa Trọng tài 12/7, chỉ có lãnh hải
tối đa 12 hải lý, thì Trung Quốc hay Việt Nam, bên nào có chủ quyền
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vấn đề không còn quan trọng.
Tranh
chấp Hoàng Sa và Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu từ cả
trăm năm. Tranh chấp chỉ nổi sóng gió từ thập niên 70, sau khi các giàn
khoan của Việt Nam Cộng Hòa cũng như của các nước trong khu vực, khám
phá ra dầu hỏa dưới đáy Biển Đông.
Luật
Biển 1982 càng làm cho tranh chấp này gay gắt thêm. Bởi vì, điều thứ
121 của bộ Luật qui định rằng một đảo cũng có hiệu lực 200 hải lý "vùng
kinh tế độc quyền - EEZ". Tức là quốc gia có chủ quyền đảo được Luật này
cho phép "độc quyền" khai thác tài nguyên trong cột nước, dưới mặt đáy
biển và thềm lục địa của các đảo, trong khu vực 200 hải lý, tính từ
đường cơ bản của đảo.
Trung
Quốc, với căn bản pháp lý dựa trên những văn bản từ thế kỷ trước của
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa
và Trường Sa, đưa ra yêu sách đường chữ U chín đoạn, chiếm gần hết Biển
Đông.
Bắc Kinh dựa trên hai lý lẽ : 1/ quyền lịch sử và 2/ quyền thuộc chủ quyền (tức EEZ) sinh ra ở các đảo.
Phán
quyết 12/7 thu hẹp đáng kể các yêu sách của Trung Quốc. Quyền lịch sử
của Trung Quốc bị Tòa bác bỏ, trong khi các đảo Trường Sa thì không có
cái nào thực sự là "đảo" để yêu sách vùng "kinh tế độc quyền".
Những
tuyên bố vừa qua của Tổng thống Duterte, trong chừng mực, giới hạn hiệu
lực của phán quyết 12/7 của Tòa PCA, đồng thời củng cố lại yêu sách
đường chữ chín đoạn của Trung Quốc.
Những
cuộc "đi đêm" với Bắc Kinh của sứ giả của ông Duterte, cho thấy Việt
Nam không còn ở tư thế "ngư ông", hưởng lợi từ tranh chấp nghêu cò là
Trung Quốc và Philippines. Hai nước này bắt tay, phía thiệt hại sẽ là
Việt Nam.
Việt Nam phải làm lại từ đầu.
Để giữ chủ quyền cần hòa giải quốc gia.
Tức
là, đối với Việt Nam, chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa vẫn là vấn đề
trọng tâm. Nếu không thuyết phục được dư luận quốc tế về danh nghĩa chủ
quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam sẽ ở vào một tư thế
hết sức bất lợi. Hà Nội không thể vịn vào các điều ước của Hiến chương
Liên Hiệp Quốc, áp dụng cho Trường Sa, về "quyền tự vệ chính đáng".
Tuần
trước, báo chí quốc tế đăng tin rằng Việt Nam đã đem một số giàn rốc
kết EXTRA, mua của Do Thái, ra đặt ở 5 đảo thuộc Trường Sa. Mặc dầu Bộ
ngoại giao Việt Nam phủ nhận việc này, nhưng một số học giả Việt Nam
cho rằng Việt Nam có thể giành quyền "tự vệ chính đáng" để làm việc
này. Việc Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa, sau đó biến
chúng thành các căn cứ quân sự cho không quân và hải quân, là một hành
vi đe dọa cho an ninh Việt Nam.
Phản
ứng của Trung Quốc trước việc này phải nói là gay gắt. Nhiều bài báo
đăng tải các ý kiến yêu cầu Tập cận Bình "đánh cho Việt Nam sặc máu
mũi". Trong khi Hoa Kỳ thì không hoan nghênh.
Điều
này cho thấy, trong chừng mực, Hoa Kỳ không nhìn nhận lý do "tự vệ
chính đáng" ở các học giả Việt Nam. Và thái độ này có thể giải thích.
Ta
phải nhìn nhận rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, cũng như một
số tài liệu khác do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành, đã đưa Việt
Nam vào tư thế kém về pháp lý so với Trung Quốc : Việt Nam nhìn nhận
chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Điều
nguy hiểm là dựa vào nội dung các văn kiện này Trung Quốc có thể tấn
công để chiếm lại các đảo mà Việt Nam chiếm đóng, bất kỳ khi nào họ
thấy chắc thắng.
Trung
Quốc và Philippines "đi đêm" với nhau, việc áp dụng phán quyết của Tòa
PCA ngày 12/7 có thể sẽ không bao giờ được thực thi. Việt Nam sẽ bị cô
lập. Mà khi toàn bộ các đảo Trường Sa thuộc về Trung Quốc, vùng "kinh tế
độc quyền EEZ" của Việt Nam, sinh ra từ bờ biển của quốc gia, sẽ bị
mất rất nhiều do "chồng lấn" EEZ của các đảo Trường Sa thuộc Trung Quốc.
Việt Nam không thể đi kiện Trung Quốc vì các vướng mắc pháp lý. Còn quyền "tự vệ chính đáng" thì bị nghi ngờ.
Như vậy, vấn đề khẳng định chủ quyền ở Trường Sa, chưa bao giờ trở thành việc quan trọng và cấp bách cho Việt Nam như hôm nay.
Việt
Nam bắt buộc phải hóa giải hiệu lực pháp lý công hàm 1958 cũng như các
tài liệu ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
phát hành. Mà việc này chỉ có thể thực hiện bằng việc nhìn nhận và kế
thừa di sản các thể chế tiền nhiệm như "Quốc Gia Việt Nam" của Bảo Đại
(sinh ra từ Hiệp ước Elysée 1949), hai nền đệ nhứt và đệ nhị Việt Nam
Cộng Hòa, là những nhà nước này kế thừa di sản nhà nước bảo hộ Pháp và
các triều đại vương quyền Việt Nam.
Những nhà nước này đã khẳng định và sáp nhập Hoàng Sa và Trường Sa vào lãnh thổ Việt Nam theo các trình tự pháp lý quốc tế.
Và khi đặt ra vấn đề kế thừa và muốn thể hiện nó, việc "hòa giải quốc gia" là bước đầu tiên.
Nhưng
thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam hôm nay, vẫn xem các chế độ Việt
Nam Cộng Hòa là "ngụy", cho thấy họ từ chối kế thừa di sản của các nhà
nước tiền nhiệm. Việc đặt vũ khí mới mua của Do Thái ở các đảo Trường
Sa, cho thấy lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã lựa chọn sử dụng vũ lực để
đối đầu với Trung Quốc.
Việt
Nam có phương pháp khác, hòa bình, để giữ vững lãnh thổ. Bằng không thì
cũng giành được tư thế "tự vệ chính đáng". Chỉ khi giành được tư thế
này Việt Nam mới có hy vọng thắng trong chiến tranh, vì có sự hỗ trợ
của Hoa Kỳ và dư luận thế giới.
Phương pháp đó là thực thi "hòa giải quốc gia".
Việc này có thể đem tai hại cho thanh danh đảng cộng sản Việt Nam.
Hành
vi hòa giải là nhìn nhận những sự thật về lịch sử. Mà điều này đặt lại
hoàn toàn các "công lao" mà đảng cộng sản Việt Nam cho rằng đã đóng góp
cho đất nước.
Thanh
danh của đảng cộng sản Việt Nam đối với chủ quyền của quốc gia, cái nào
nặng hơn, là sự lựa chọn của thành phần trí thức, học giả Việt Nam...
Chỉ có lực lượng trí thức Việt Nam, khi ý thức được đâu là quyền lợi
của đất nước, đồng loạt lên tiếng làm áp lực yêu cầu nhà nước cộng sản
Việt Nam thể hiện việc "hòa giải quốc gia", việc giữ toàn vẹn lãnh thổ
mới hy vọng đạt được.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 07/08/2017
(1) http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2016/08/160823_philippines_un