Ai có thể cứu được Đảng cộng sản Việt Nam ? (Việt Hoàng-Thông Luận)
Việc
cần làm và nên làm trong lúc này đối với các đảng viên Đảng cộng sản
Việt Nam là nên tìm hiểu về một "dự án chính trị" nghiêm túc và khả thi
để thay đổi đất nước (dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai là một
gợi ý). Sau đó cần liên kết lại với nhau để tạo ra một lực lượng chính
trị mới và cuối cùng là liên minh với một tổ chức chính trị đối lập dân
chủ đứng đắn và có viễn kiến để hình thành một liên minh chính trị có
tầm vóc để hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng.
Sau khi
đọc bài "Ông Đinh La Thăng còn có thể làm được gì ?", một thân hữu đặt
cho chúng tôi hai câu hỏi rất thú vị rằng : Các đảng viên của Đảng cộng
sản Việt Nam có thể nào cứu được đảng không ? Trường hợp Gorbachev ở
Liên Xô là như thế nào ?
Để
trả lời câu hỏi này thì chúng ta cần trả lời trước những câu hỏi như :
Đảng cộng sản Việt Nam là gì ? Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay
là những ai ? Ai trong họ có thể cứu được đảng ?
1. Đảng cộng sản Việt Nam là gì ?
Có
thể tóm gọn rằng Đảng cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị duy nhất
cầm quyền tuyệt đối ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Mặc dù xuất hiện và
cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim như là một chính đảng
yêu nước nhưng sự thực Đảng cộng sản Việt Nam là một chi nhánh của chủ
nghĩa cộng sản quốc tế được Liên Xô hậu thuẫn.
Đảng
cộng sản Việt Nam chiến thắng và giành được chính quyền năm 1945 vì họ
là tổ chức chính trị duy nhất có tổ chức, cán bộ được đào tạo bài bản và
có kỹ thuật khủng bố. Tuy thế, trong giai đoạn 1945-1975 Đảng cộng sản
Việt Nam đã mê hoặc rất nhiều người dân và trí thức Việt Nam rằng họ là
một chính đảng yêu nước và có tinh thần dân tộc. Giải thích cho sự ‘cám
dỗ’ này không khó, trí thức Việt Nam nói riêng và người dân Việt Nam nói
chung chưa đủ hiểu biết và kiến thức để nhận ra sự hoang tưởng và nguy
hiểm của chủ nghĩa cộng sản, trong đó có cả những triết gia nổi tiếng
như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường… Sau năm 1975, sự trù phú và văn
minh của miền Nam đã thức tỉnh nhiều người dân miền Bắc Việt Nam. Khi sự
thực được phơi bày thì bạo lực lên ngôi. Các tiếng nói bất đồng với
đảng đều được cánh cửa nhà tù rộng mở đón chào.
Đảng
cộng sản Việt Nam ngày nay đã quá tha hóa vì tham nhũng. Trước đây khi
còn chiến tranh thì muốn hay không đảng phải giữ cho bộ mặt được sạch sẽ
để thu phục lòng dân hai miền, tất cả cho chiến thắng. Thế nhưng sau
khi đất nước ‘thống nhất’, Đảng cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo
trên cả nước thì không còn gì ngăn cản họ bộc lộ những dã tâm và tham
vọng. Đảng cộng sản Việt Nam hành xử như một đội quân chiếm đóng. Họ
tiêu diệt tất cả mọi tiếng nói đối lập và phản kháng, họ mặc sức tham
nhũng và độc quyền mọi thứ, từ lẽ phải đến nước uống, điện thắp hàng
ngày. Đảng cộng sản Việt Nam cũng không hề có viễn kiến hay bất cứ một
dự án chính trị gì. Trước đây hô hào nhân dân đánh Mỹ, đánh Pháp, đánh
Nhật, đánh Trung Quốc… bây giờ quay lại cầu cạnh những quốc gia này.
Bao
nhiêu kỳ đại hội đảng với không biết bao nhiêu là nghị quyết nhưng Đảng
cộng sản Việt Nam vẫn không thể thay đổi được gì. Tham nhũng ngày càng
nghiêm trọng, các chính sách chồng chéo, thuế phí tăng liên tục… Mọi kỳ
họp chỉ bàn mỗi việc duy nhất là ‘vấn đề nhân sự’, tức là đấu đá phe
nhóm, tranh giành quyền lợi trong nội bộ đảng. Tóm lại Đảng cộng sản
Việt Nam ngày hôm nay chỉ đơn thuần là một tập hợp lỏng lẻo giữa các
nhóm lợi ích, núp sau thần tượng Hồ Chí Minh và mớ lý thuyết lỗi thời là
chủ nghĩa cộng sản để trục lợi và vơ vét tài nguyên của đất nước.
2.Đảng viên cộng sản là những ai ?
4,5
triệu đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam là một tập hợp của nhiều người
với nhiều mục tiêu khác nhau. Những đảng viên ‘trung kiên’ và gạo cội,
tham gia vào đảng vì lý tưởng cộng sản, là thành phần nòng cốt của đảng,
không còn nhiều, phần thì đã mất vì tuổi tác, phần thì đã già, và trong
những người còn sống không ít người đã nhận ra sai lầm khi đối diện với
thực tế phũ phàng khi về hưu. Thành phần này chiếm khoảng 30%. Tuy
nhiên một số người vì đã lỡ tin vào chủ nghĩa cộng sản, đã hy sinh cả
tuổi thanh xuân cho lý tưởng nên lúc tuổi xế chiều đành phải ‘cố đấm ăn
xôi’, không lẽ lại phủ nhận hoàn toàn quá khứ của mình ? Thành phần cựu
chiến binh và cựu công an về hưu, thường là ủng hộ Đảng cộng sản Việt
Nam nhiệt tình nhất vì lương hưu của họ khá cao so với mặt bằng chung
của mọi người. Một cấp tá công an hay bộ đội về hưu nhận lương cả chục
triệu mỗi tháng trong khi con em họ làm công nhân quần quật cả tháng chỉ
được khoảng 4-5 triệu đồng.
Thành
phần thứ hai trong đảng đó là các cán bộ viên chức đang hưởng lương và
làm việc trong bộ máy chính quyền bao gồm 2,8 triệu cán bộ, công chức,
viên chức nhà nước trong tổng số 11 triệu người ăn lương nhà nước. Thành
phần này có thể chiếm đến 60% số lượng đảng viên. Ai cũng biết là nếu
làm nhà nước mà không phải là đảng viên thì không thể nào tiến thân được
vì vậy đa số cán bộ công chức nhà nước đều là đảng viên Đảng cộng sản
Việt Nam. Thành phần này, ai cũng thấy rõ là họ vào đảng chỉ vì quyền
lợi cá nhân, cơm áo gạo tiền chứ chẳng mấy ai vì lý tưởng cộng sản.
Khoảng
10% đảng viên mới là những người bị cám dỗ bởi sự giàu có của tầng lớp
đảng viên có chức có quyền. Họ mong muốn và hy vọng vào đảng để rồi một
ngày nào đó họ và con em họ cũng được giàu sang phú quí. Đây là một hiện
tượng tâm lý đám đông mà thời nào cũng có. Dù rằng mong muốn đó sẽ
không bao giờ đạt được vì một lẽ ‘con vua thì lại làm vua, con sãi ở
chùa lại quét lá đa’. Bộ máy công chức của đảng ngày càng phình to nhưng
vẫn không đủ chỗ cho con cháu họ lấy đâu ra chỗ cho dân đen ?
Vậy
có bao nhiêu phần trăm đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam sẵn sàng sống
chết hy sinh vì đảng ? Rất khó dự đoán nhưng có lẽ không nhiều, chỉ một
vài nghìn người. Ngay cả 200 vị trong Ban chấp hành trung ương đảng và
500 vị đại biểu quốc hội, thử hỏi có mấy ai tin rằng chế độ này sẽ
trường tồn ? Chắc chắn không đến 1/3. Nếu tin vào đảng thì họ đã không
gửi con cái ra người ngoài du học rồi gửi tiền sang mua bất động sản để
định cư luôn ở các nước đó. Nếu tin đảng thì các vị đại biểu quốc hội
không bỏ cả triệu đô ra để mua quốc tịch nước ngoài…
3. Ai là đảng viên có đủ uy tín để cứu đảng ?
Bộ
máy sàng lọc quái gở của hệ thống đảng ‘hồng hơn chuyên’ đã loại bỏ
khỏi hệ thống đảng những người có năng lực và tài năng thực sự. Tất
nhiên phải như vậy vì những kẻ kém cỏi và thiếu tự tin không bao giờ dám
dùng người giỏi vì sợ họ sẽ không nghe lời và vạch cái sai cái dốt của
đảng ra cho mọi người thấy. Những người lãnh đạo càng cao cấp thì năng
lực càng hạn chế và uy tín càng mờ nhạt. Những người như ông Phan Văn
Khải, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Nông Đức Mạnh… đã được đặt vào
ngôi cao vì sự ba phải hơn là tài năng của họ.
Khủng
hoảng lớn nhất của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay chính là khủng hoảng
nhân sự. Rõ ràng là không bình thường khi đảng phải giữ ông Nguyễn Phú
Trọng lại làm tổng bí thư bất chấp mọi nguyên tắc của đảng và nhất là
khi ông tuổi tác đã quá cao.
Như
chúng tôi đã trình bày nhiều lần. Đảng cộng sản Việt Nam chưa bao giờ
là một chính đảng đúng nghĩa nên nó không có một đội ngũ nhân sự chính
trị đúng nghĩa, tức là những người dấn thân, tham gia vào đảng vì một lý
tưởng cao đẹp và trong sáng là phục vụ nhân dân. Tất cả đảng viên cao
cấp trong đảng hiện nay đều là những kẻ cơ hội, phe nhóm và lợi ích cá
nhân. Ông Trọng có lẽ ít cơ hội nhất nên mới được giữ lại làm tổng bí
thư.
Những
đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam có lương tâm và tấm lòng với đất nước
không ít, nhưng đa số đều là những đảng viên cấp thấp, không có tiếng
nói trong các vấn đề hệ trọng liên quan đến đảng. Họ là những người cô
đơn. Biết, thấy rõ sự bất công và sự cần thiết phải thay đổi nhưng không
thể làm gì được. Mọi ý kiến hay đề nghị cải tổ dù nho nhỏ cũng đều gặp
phải bức tường chắn khổng lồ của mấy ông bí thư chỉ biết còn đảng còn
mình. Ngay cả ông Trần Độ, Trần Xuân Bách trước đây hay ông Đinh La
Thăng mới đây đều bị loại khỏi mọi chức vụ vì lên tiếng phản đối hay có
vấn đề gì đó. Ngay cả khi họ có muốn ‘phất cờ khởi nghĩa’ cũng không ai
theo, vì tất cả đảng viên trong đảng đều lo giữ nồi cơm của mình vì mục
đích của họ vào đảng cũng chỉ có vậy.
Những
đảng viên thật lòng muốn cứu đảng có lẽ không có. Thứ nhất có ai lại
muốn cứu những người bất tài, thượng đội hạ đạp, không coi mình ra gì ?
Thứ hai có muốn cứu cũng không cứu được vì họ thiếu một thứ quan trọng
đó là ‘tổ chức’. Không có tổ chức và hậu thuẫn bởi dân chúng thì không
đảng viên nào có thể thay đổi được gì.
Ông
Nguyễn Tấn Dũng đã thất bại và phải rời vũ đài chính trị vì không có sự
hậu thuẫn của một tổ chức chính trị mặc dù phe nhóm của ông từng là
hùng mạnh nhất trong đảng trước đại hội 12. Quá trình chuyển hóa từ một
chế độ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân trị là một tất yếu và ông
Dũng đã đi theo vết xe đổ đó. Một vài người lãnh đạo trong đảng có lẽ
nhận ra mối nguy đó nên quyết tâm hạ bệ ông Dũng. Quá trình này chỉ bị
‘tạm dừng’ khi ông Trọng còn ngồi đó, khi ông Trọng đi rồi thì sẽ có một
kẻ khác thay thế và hành động như ông Dũng ngay lập tức. Sự đấu đá và
tranh giành quyền lợi giữa các phe phái trong nội bộ đảng ngày càng gay
gắt và đã đến lúc không thể khoan nhượng.
Trường
hợp của ông Gorbachev khi lên cầm quyền là lúc Liên Xô đã hoàn toàn
kiệt quệ về kinh tế sau khi sa lầy ở Afghanistan và chạy đua vũ trang
với Mỹ. Ông Gorbachev đã lấy một quyết định dũng cảm là ‘cải tổ’ và ‘mở
cửa’ nhằm cải thiện nền kinh tế và mở ra một không gian rộng hơn cho
người dân được bày tỏ chính kiến của mình. Ông cũng từ bỏ học thuyết can
thiệp vào các nước khác trong khối Warsawa, rút quân khỏi Afghanistan,
giải tán liên bang Xô-viết. Những việc ông làm đã khiến cho thành phần
bảo thủ trong đảng cộng sản Liên Xô tức giận dẫn tới cuộc đảo chính hồi
tháng 8/1991. Yeltsin đã đập tan cuộc đảo chính và trở thành tổng thống
đầu tiên của nước Nga. Vai trò của ông Gorbachev chấm dứt.
Bộ
máy tuyên truyền của Đảng cộng sản Việt Nam luôn đổ lỗi cho ông
Gorbachev vì làm sụp đổ Liên Xô. Sự thật thì ông Gorbachev đã làm những
việc cần làm trong thời điểm quyết định với những biện pháp hòa bình và
cởi mở. Ông đã cố gắng để cứu lấy Liên Xô nhưng lịch sử đã đến hồi sang
trang. Ông Gorbachev không thể làm khác và không có ông thì sẽ có người
khác và hậu quả có thể tồi tệ hơn rất nhiều. Vì lẽ đó mà ông đã được
trao giải Nobel Hòa Bình tháng 10/1990.
Vậy
câu hỏi cuối cùng là các đảng viên cộng sản có thể làm được gì cho đất
nước ? Cho tương lai của mình và con cháu mình ? Việc cứu đảng có lẽ
không nên đặt ra vì nó vô ích và vô duyên. Ông Putin sau khi nắm quyền
hoàn toàn tại Nga cũng không hề có ý định khôi phục lại đảng cộng sản
Nga mà ông từng là đảng viên. Di sản của đảng cộng sản quá lớn và kinh
khủng khiến Putin từ bỏ ý định phục hồi nó dù rằng ông ta cũng là một
nhà độc tài. Tổng bí thư Đảng cộng sản Nam Tư Milovan Djilas sau khi
"phản tỉnh" từng tuyên bố : "20 tuổi mà không theo cộng sản là không có
trái tim. 40 tuổi mà không từ bỏ cộng sản, là không có cái đầu".
Việc
cần làm và nên làm trong lúc này đối với các đảng viên Đảng cộng sản
Việt Nam là nên tìm hiểu về một "dự án chính trị" nghiêm túc và khả thi
để thay đổi đất nước (dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai là một
gợi ý). Sau đó cần liên kết lại với nhau để tạo ra một lực lượng chính
trị mới và cuối cùng là liên minh với một tổ chức chính trị đối lập dân
chủ đứng đắn và có viễn kiến để hình thành một liên minh chính trị có
tầm vóc để hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng.
Việt Hoàng
(28/5/2017)