Những định hướng lớn của mô thức Việt Nam (Dự Án Chính Trị: Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai) (Phần 5d)
Đối với Trung Quốc, chúng ta cần chứng tỏ một thái độ khiêm tốn,
hòa nhã nhưng kiên quyết bảo vệ chủ quyền trên lãnh thổ, vùng biển và các hải đảo.
Chúng ta có lý do để hy vọng rằng sự hiện diện quân sự tích cực của Hoa Kỳ và
chính sách quả quyết mới của Nhật trong vùng sẽ là một đảm bảo cho hòa bình và
an ninh. Chúng ta cũng có lý do để tin rằng Trung Quốc sẽ chọn lựa đường lối
hòa hoãn và hợp tác, nhưng hiện đại hóa khả năng tự vệ của chúng ta cũng là một
yếu tố khuyến khích Trung Quốc đi theo đường lối tốt đẹp đó.
10.
Thực hiện một chính sách đối ngoại hòa bình và hợp tác song song với một chính
sách láng giềng tốt
Trong một thế giới đầy tranh đua như
hiện nay các mối bang giao tốt là điều không thể thiếu. Chúng ta sẽ không bỏ lỡ một cơ hội nào để thiết
lập và tăng cường mọi liên hệ hợp tác với mọi quốc gia trên thế giới, trước hết
là với các quốc gia lân cận.
Đối với các nước phương Tây, đặc biệt
là Pháp và Hoa Kỳ, hai nước đã từng có những quan hệ phức tạp và xung động,
chúng ta bình thường hóa không những quan hệ ngoại giao mà cả quan hệ văn hóa
và tình cảm. Chúng ta còn rất nhiều để học hỏi nơi họ và cũng có rất nhiều để
trông đợi ở một sự hợp tác lưỡng lợi. Chúng ta cũng cần lưu ý đặc biệt đến những
quốc gia mà chính sách di dân còn dễ dãi hoặc có triển vọng dễ dãi để phát triển
cộng đồng người Việt hải ngoại càng đông đảo càng tốt, với mục tiêu trung hạn là
cứ mười người Việt Nam thì có một người tại các nước dân chủ phát triển. Một
chính sách đối ngoại hiếu hòa và khiêm tốn, đi song song với sự tận dụng khả năng
đóng góp của một cộng đồng Việt Nam hải ngoại đông đảo, thành đạt và gắn bó với
quê hương là căn bản của những cố gắng ngoại giao của chúng ta.
Nhưng gần hơn hết chúng ta phải củng cố
và tăng cường chỗ đứng của ta tại khu vực Châu Á và Thái Bình Dương đặc biệt là
trong lòng khối ASEAN. Trong lòng khối này chúng ta sẽ góp phần tích cực tăng cường
sự liên đới, hạ thấp dần những hàng rào văn hóa và mậu dịch, thúc đẩy sự hình
thành thực sự của một vùng trao đổi tự do. Chúng ta cần phấn đấu để tham gia khối
Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương và tận dụng mọi cơ hội của khối này để đất nước
ta có thể vươn lên thu ngắn dần sự chậm trễ.
Gần nhất, ta phải thắt chặt lại quan hệ
hợp tác với hai nước bạn láng giềng Lào và Campuchia đang ngày càng chịu ảnh hưởng
áp đảo hơn của Trung Quốc. Chúng ta đã là nạn nhân của một âm mưu chia để trị
xuất phát từ thời ngoại thuộc Pháp mà ngày nay ta phải phá vỡ. Biên giới của ta
với hai nước này không đổi từ hơn hai thế kỷ nay. Đó là những biên giới ổn vững
bậc nhất thế giới, làm chứng cho khả năng sống chung hòa bình giữa Việt Nam,
Lào và Campuchia. Nhưng chúng ta cũng cần dõng dạc tuyên cáo một chính sách hiếu
hòa thực sự và làm nhiều cố gắng ngoại giao để đánh tan những hiểu lầm do một
quá khứ còn khá mới để lại. Chúng ta cần long trọng tuyên bố với hai nước láng
giềng này rằng chúng ta tuyệt đối tôn trọng các biên giới hiện có và sẵn sàng
dành mọi dễ dãi về giao thông và thương cảng để họ có thể khai thông ra đại
dương. Chúng ta sẽ đề nghị với họ cùng hợp tác xây dựng các trục lộ giao thông
ra biển, và nếu có thể, tiến tới một thỏa ước tự do đi lại và di trú. Cả Lào và Campuchia đều cần đường ra biển qua
ngả Việt Nam nên sự hợp tác sẽ là điều tự nhiên nếu họ vững tin rằng Việt Nam
tôn trọng chủ quyền và lãnh thổ của họ. Việt Nam, Lào và Campuchia có nhiều triển
vọng để hình thành một khối hợp tác bình đẳng trong đó cả ba đều có lợi và đều
phát huy được thế mạnh kinh tế riêng của mình.
Đối với Trung Quốc chúng ta cần giải
quyết trong tinh thần hữu nghị những tranh chấp về lãnh hải và hải đảo để mở đầu
một giai đoạn hợp tác thực sự lành mạnh. Hai nước có chung một biên giới dài, đã
từng chia sẻ một văn hóa và cũng có rất nhiều tương đồng về cấu tạo nhân văn
cho nên sự hợp tác là một lẽ tự nhiên. Điều đáng lo ngại hiện nay là Trung Quốc
một mặt đang gia tăng sức mạnh quân sự và mặt khác biểu lộ một chính sách bá
quyền khu vực. Đối với Trung Quốc, chúng ta cần chứng tỏ một thái độ khiêm tốn,
hòa nhã nhưng kiên quyết bảo vệ chủ quyền trên lãnh thổ, vùng biển và các hải đảo.
Chúng ta có lý do để hy vọng rằng sự hiện diện quân sự tích cực của Hoa Kỳ và
chính sách quả quyết mới của Nhật trong vùng sẽ là một đảm bảo cho hòa bình và
an ninh. Chúng ta cũng có lý do để tin rằng Trung Quốc sẽ chọn lựa đường lối
hòa hoãn và hợp tác, nhưng hiện đại hóa khả năng tự vệ của chúng ta cũng là một
yếu tố khuyến khích Trung Quốc đi theo đường lối tốt đẹp đó. Trong ngắn hạn,
khi quan hệ giữa Trung Quốc và Đài Loan chưa rõ rệt, chúng ta sẽ chú trọng đặc
biệt vào sự phát triển các quan hệ hợp tác kinh tế với Đài Loan.
Chúng ta cần nhận định vai trò kinh tế
quan trọng của Nhật tại Châu Á và phải đặt quan hệ Việt - Nhật lên hàng một quốc
sách phát triển.
Sau
cùng chúng ta cũng cần có một nhận định sáng suốt và thực tiễn đối với các nước
thuộc Đông Âu và Liên Xô cũ. Các nước này là những thị trường đầy tiềm năng
trong đó chúng ta đã sẵn có nhiều người bạn, nhiều quan hệ và hiểu biết cần được
khai thác.
11. Thực hành một chính sách kiểm soát
dân số văn minh
Chúng ta hiện đã có một dân số gần 100
triệu dân, đứng hàng thứ 14 trên thế giới, với một diện tích rất hẹp, 330.000
cây số vuông. Đã thế tỷ lệ đất thực sự canh tác và sinh sống được của ta lại rất
thấp, chỉ ở mức một phần ba. Trong khi đó dân số của ta tiếp tục gia tăng hơn một
triệu người mỗi năm. Mặt khác khả năng kinh tế và mức độ chuyển hóa về công
nghiệp và dịch vụ của ta chưa cho phép dự trù những đầu tư lớn vào việc mở rộng
vùng đất sinh hoạt. Đà gia tăng dân số dù đã giảm trong những năm gần đây vẫn
còn một vấn đề lớn đòi hỏi một cách nhìn thông suốt. Một mặt, dân số tuy vẫn
gia tăng một cách đáng kể nhưng tỷ lệ gia tăng dân số không thể giảm một cách đột
ngột mà không tạo ra trong một tương lai gần một gánh nặng kinh tế do sự đảo
ngược tỷ lệ trẻ - già. Mặt khác, cho tới nay sự sút giảm của đà gia tăng dân số
đã chủ yếu đạt được với giá đắt là khiến chúng ta trở thành một trong những nước
có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới, với những hậu quả tai hại về tâm lý và xã
hội.
Kinh nghiệm của các chính quyền cộng sản
Việt Nam và Trung Quốc cho thấy là một chính sách hạn chế sinh đẻ quả quyết đến
độ dã man chỉ làm xuống cấp con người chứ không làm giảm dân số. Vấn đề cần được
giải quyết ở tận gốc rễ văn hóa và nhân sinh quan của nó. Trong giáo dục học đường
và đại chúng cần phổ biến các kiến thức về ngừa thai và bình thường hóa quan hệ
nam nữ, cần tách rời việc lập gia đình và có con cái với việc thỏa mãn nhu cầu
sinh lý.
Sinh đẻ nhiều cũng do hai nguyên nhân
khác mà ta cần khắc phục, đó là trình độ văn hóa và vai trò xã hội kém của phụ
nữ, và sự lo âu của tuổi già. Nâng cao trình độ văn hóa của phụ nữ và hội nhập
một cách tích cực phụ nữ vào sinh hoạt kinh tế xã hội là một đầu tư cần thiết để
chặn đà gia tăng dân số. Mọi kinh nghiệm trên thế giới đều chứng tỏ rằng càng
có trình độ văn hóa cao, càng tham gia tích cực vào sinh hoạt kinh tế, phụ nữ
càng có khuynh hướng tự hạn chế sinh đẻ. Kinh nghiệm cũng cho thấy rằng bảo đảm
một lợi tức tối thiểu cho người già, một bắt buộc của mọi xã hội văn minh, sẽ hạn
chế được một cách đáng kể đà gia tăng dân số vì con đông trước hết là một đảm bảo
cho tuổi già ở các nước thiếu an sinh xã hội. Phải săn sóc người già nếu không
muốn phải tiếp nhận thêm quá nhiều trẻ thơ mà chúng ta không có khả năng nuôi
dưỡng và giáo dục. Chính sách này sẽ tạo một tâm lý an toàn và chắc chắn sẽ làm
giảm mức sinh đẻ, nhất là với niềm tin là lợi tức bảo đảm cho tuổi già sẽ càng
ngày càng tăng với phát triển kinh tế.
Sau
cùng chúng ta cũng có quyền tin tưởng là đà gia tăng dân số sẽ giảm xuống trong
một xã hội văn minh không trọng nam khinh nữ đến độ phải đẻ cho đến khi có con
trai, một xã hội có thông tin đầy đủ và có cơ hội thăng tiến cho mọi người. Một
khi có đủ lạc quan để lập kế hoạch cho tương lai mình, các cặp vợ chồng sẽ tự
nhiên nhận thấy họ phải hạn chế số con cái.
12. Xây
dựng một hạnh phúc quốc gia phẩm chất ngay trong cố gắng
Những người cầm quyền cộng sản đã rất
dối trá khi nói rằng Việt Nam ngày nay là nước có thu nhập trung bình. Sự thực
trái hẳn. Chúng ta rất nghèo và ở rất dưới mức trung bình thế giới. Vào năm
nay, 2015, sản lượng bình quân mỗi đầu người trên thế giới là gần 11.000 USD mỗi
năm, tại nước ta ước lượng vừa phải là gần 1.500 USD, nghĩa là chỉ bằng 15% mức
trung bình thế giới. Chúng ta tụt hậu một cách bi đát. Ngay cả nếu từ nay chúng
ta đạt được mức tăng trưởng đều đặn cao hơn 2% so với thế giới, một thành tích
khả quan, thì cũng phải một thế kỷ nữa chúng ta mới thực sự trở thành một nước
trung bình. Nhưng chúng ta có thời giờ đó không trước khi sự chán nản và thất vọng
làm tan rã đất nước? Chắc chắn chúng ta không có thời giờ đó, chúng ta phải bắt
kịp sự chậm trễ trong vòng một thế hệ. Đó là một thách đố rất lớn.
Thách đố càng lớn hơn vì tất cả mọi yếu
tố đều bất lợi. Xã hội băng hoại, lòng người thất vọng và ly tán, tinh thần dân
tộc xuống rất thấp, môi trường ô nhiễm, đạo đức suy đồi, các băng đảng tội phạm
hoành hành trong khi xã hội dân sự vắng mặt. Di sản của chế độ cộng sản thật là
kinh khủng. Chúng ta sẽ phải động viên những cố gắng cực kỳ lớn về mọi mặt
trong khi sẽ còn phải sống với sự nghèo khổ và thua kém trong một thời gian khá
dài.
Trong hoàn cảnh đó chúng ta không có
chọn lựa nào khác hơn là xây dựng trên đất nước Việt Nam, và trên quy mô quốc
gia, một hạnh phúc lấy phẩm chất làm chính ngay trong khi còn đang phải phấn đấu
cam go để đạt tới sự sung túc. Đó là một hạnh phúc mà ta có thể gọi là một hạnh phúc quốc gia phẩm chất. Một cách cụ
thể hạnh phúc đó thể hiện qua một bối cảnh quốc gia bình yên và phấn khởi trong
đó con người dù chưa sung túc nhưng có đầy đủ tự do, được trân trọng và được bảo
đảm an ninh, nhân phẩm, quyền lợi, sức khỏe và cơ hội thăng tiến trong một xã hội
hài hòa, bình yên và liên đới, với một môi trường thân thiện. Đó là điều kiện để
mọi người có thể chấp nhận những khó khăn của hiện tại và nỗ lực để vươn lên; cố
gắng càng lớn thì càng phải được chia sẻ đồng đều và con người càng cần được khích
lệ. Xã hội Việt Nam phải có hình ảnh của một gia đình hạnh phúc vì hòa thuận và
vui vẻ, chia sẻ một cách hợp tình hợp lý những hy sinh cũng như những thành tựu
đạt được, dưới một mái nhà giản dị nhưng sạch sẽ và ngăn nắp, trong niềm tin là
ngày mai sẽ hơn hôm nay.
Điều quan trọng nhất cũng là điều có
thể làm ngay vì không đòi hỏi những chi phí lớn. Đó là cải thiện môi trường, cảnh
quan và các nơi công cộng. Do văn hóa truyền thống chúng ta chưa ý thức được tầm
quan trọng của môi trường dù vấn đề đã rất nghiêm trọng và đã ảnh hưởng trực tiếp
lên mọi người. Sự thiển cận đã khiến các cấp lãnh đạo nối tiếp nhau không ý thức
được rằng phát triển, kể cả phát triển kinh tế, chỉ có thể bền vững nếu môi trường
được bảo vệ. Các nhà máy ô nhiễm gây thiệt hại trong lâu dài cho xã hội nhiều lần
lớn hơn lợi tức ngắn hạn mà chúng tạo ra. Tham nhũng là nguyên nhân chính cho
phép phá hoại môi trường; sự vắng mặt của xã hội dân sự là một nguyên nhân
khác. Thực trạng kinh ngạc là cho tới nay nước ta vẫn chưa có một hiệp hội bảo
vệ môi trường nào dù môi trường đã bị tàn phá tới mức độ nguy kịch và vẫn còn
tiếp tục bị tàn phá, trong khi tại các nước văn minh giầu mạnh bảo vệ môi trường
đã trở thành mục tiêu của vô số hiệp hội, có cả những chính đảng lấy môi trường
làm ưu tư cao nhất. Đối với thế giới ngày nay môi trường đã trở thành một vấn đề
chính trị nền tảng.
Chúng ta không thể dung túng những nhà máy không có
xử lý khói và chất thải nhân danh lợi ích kinh tế. Chúng ta cũng phải nghiêm cấm
việc chặt phá rừng và lấp, lấn ao hồ. Các tiện nghi vệ sinh công cộng phải đầy đủ.
Hệ thống thoát nước phải hoàn chỉnh. Xây dựng phải có quy hoạch, mỗi khu vực chỉ
được xây dựng theo một vài kiểu nhà với một số mầu sắc. Phải tăng cường các phương
tiện chuyên chở công cộng, đánh thuế môi trường trên ôtô và xe máy, khuyến khích
sử dụng xe đạp; cấm xe có động cơ xăng dầu tại trung tâm các thành phố và những
khu đông người; trừng phạt nghiêm khắc những công ty xây dựng cầu đường thi công
gian trá. Chúng ta sẽ bãi bỏ dự án Bô-xít Tây Nguyên, đình chỉ các dự án điện hạt
nhân, ngay cả những dự án đang thi công, loại bỏ điện hạt nhân cho tới khi các
kỹ thuật xử lý phế liệu thỏa đáng đã tìm được và nước ta đã có đầy đủ khả năng
để bảo đảm an toàn tuyệt đối của các lò phản ứng. Những biện pháp đó tuy có thể
làm giảm lợi nhuận nhất thời của một số công ty nhưng sau cùng vẫn có lợi ích
kinh tế lớn vì bảo vệ và khuyến khích đầu tư trong nhiều ngành khác, nhất là ngành
du lịch, và điều quan trọng hơn là bảo vệ sức khỏe và cuộc sống yên vui. Ô nhiễm
là một vi phạm nghiêm trọng tới quyền con người bởi vì nước sạch, không khí
trong lành, không gian yên lặng là những quyền con người cơ bản nhất.
Xây dựng một xã hội hài hòa, bình yên
và liên đới không đòi hỏi những chi phí lớn vượt khả năng quốc gia như nhiều
người lầm tưởng. Chúng không thấm vào đâu so với số tiền mà những quan chức
tham ô cướp đoạt của đất nước, một chính quyền trong sạch sẽ có phương tiện. Điều
mà nó đòi hỏi là điều mà chúng ta có thể làm được ngay cả khi chưa giầu. Đó là
luật pháp tuyệt đối lương thiện, minh bạch và được tôn trọng. Đó là một chính
quyền quyết tâm không thỏa hiệp với tham nhũng được điều hành bởi những người có
kiến thức, có tầm nhìn và lấy phục vụ đất nước làm lý tưởng của đời mình, một
chính quyền không thể bị ngờ vực là gian trá. Nhân dân Việt Nam đã quá quen với
những hy sinh và chịu đựng cho nên có thể chấp nhận những cố gắng rất phi thường;
họ cũng có thể tha thứ cả những sai lầm, với điều kiện là tin rằng những người
lãnh đạo đã sai nhưng không phải là những người ngu dốt và gian trá mà chỉ sai vì
mọi người đều có thể sai trên những quyết định khó khăn và phức tạp. Chúng ta có
thể có những người lãnh đạo như thế, nhưng họ chưa có cơ hội vì chưa có sức mạnh
tập trung của đội ngũ. Cố gắng chính của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên từ trước, bây
giờ và sau này là phát hiện, tập trung lại và đào tạo thêm những con người như
thế mà đất nước đang cần.